Thông tin sách<br />
Tên sách: Tới ngọn hải đăng<br />
Nguyên tác: To the Lighthouse<br />
Tác giả: Virginia Woolf<br />
Người dịch: Nguyễn Thành Nhân<br />
Nhà phát hành: Hà Thế<br />
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn<br />
Khối lượng: 300g<br />
Kích thước: 14 x 20,5 cm<br />
Ngày phát hành: 12/2010<br />
Số trang: 276<br />
Giá bìa: 46.000đ<br />
Thể loại: Kinh điển<br />
Thông tin ebook<br />
Nguồn: tve-4u.org<br />
Type+Làm ebook: thanhbt<br />
Ngày hoàn thành: 28/10/2016<br />
<br />
Dự án ebook #261 thuộc Tủ sách BOOKBT <br />
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com<br />
<br />
Giới thiệu<br />
“Tới ngọn hải đăng” của Virginia Woolf được Tạp chí Time xếp hạng là một trong số<br />
<br />
100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923-2005.<br />
“Tới ngọn hải đăng” là câu chuyện kể về gia đình Ramsay trong kỳ nghỉ trên hòn đảo ở<br />
Scotland vào khoảng năm 1910 và 1920. Thông qua những điều bình dị, tác phẩm thể hiện<br />
được những tâm tư, suy nghĩ của Virginia Woolf về bản chất của cuộc sống và khát vọng<br />
tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ý nghĩa của cuộc đời mỗi con người là gì? Tác phẩm cũng<br />
được coi là cuốn tiểu thuyết viết theo dòng ý thức thành công nhất của Virginia Woolf.<br />
Tuy nhiên đây không phải là một cuốn sách dễ đọc, như cách nói của nhà văn, nhà thơ,<br />
nhà phê bình nổi tiếng người Canada Margaret Atwood: “Có một số cuốn sách phải đợi<br />
cho tới lúc bạn đã sẵn sàng cho nó. Trong việc đọc, có rất nhiều điều phụ thuộc vào sự<br />
may mắn”.<br />
Những thành tựu của “Tới ngọn hải đăng”<br />
- Tác phẩm Tới ngọn hải đăng được xuất bản lần đầu vào tháng 5/1927 với số lượng ba<br />
ngàn bản và bán hết trong vòng một thời gian ngắn, giúp vợ chồng Woolf mua được một<br />
chiếc xe hơi.<br />
- Đoạt giải Heinemann Northcliffe và giải Femina Vie Heureuse (nay gọi là Prix Femina)<br />
dành cho tác phẩm nước ngoài năm 1928.<br />
- Được dịch sang tiếng Pháp ba lần: dịch giả Maurice Lanoire (tựa tiếng Pháp Promenade<br />
au Phare - 1929); dịch giả Magadi Merle (tựa tiếng Pháp Voyage au Phare - 1993); dịch<br />
giả Francois Pellan (tựa tiếng Pháp Vers le Phare - 1996).<br />
- Được tạp chí Time Magazine xếp hạng nằm trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay<br />
nhất từ 1923-2005.<br />
- Được hãng thông tấn BBC chuyển thể thành phim (TV) vào năm 1983. Đạo diễn Colin<br />
Gregg, chuyển thể kịch bản phim Hugh Stoddart.<br />
- Được chuyển thể thành kịch bởi kịch tác gia Adele Edling Shank, đạo diễn Les Waters,<br />
âm nhạc Paul Dresher, công diễn lần đầu tại nhà hát Roda ngày 23/3/2007.<br />
- Nhạc sĩ Anh Patrick Wolf (sinh năm 1983) đã sáng tác ca khúc To the Lighthouse (trong<br />
album Lycanthropy - 2003) với cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết.<br />
<br />
GIỚI THIỆU<br />
1. VỀ TÁC GIẢ<br />
<br />
“Một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng riêng nếu muốn viết văn; và điều đó,<br />
như bạn sẽ thấy, khiến cho vấn đề lớn lao về bản chất đích thực của phụ nữ và bản chất<br />
đích thực của văn chương vẫn còn bỏ ngỏ chưa giải quyết.”<br />
Câu nói trên trích từ Chương 1 của tập tiểu luận nhan đề A Room of One’s Own (Một căn<br />
phòng riêng) của nữ tiểu thuyết gia, tiểu luận gia, nhà phê bình văn học người Anh<br />
Virginia Woolf (1882-1941). Câu trích dẫn này vẫn thường được mọi người nhắc đến khi<br />
đề cập tới Virginia, bởi lẽ tất cả những tác phẩm và chính cuộc đời đầy sóng gió và bi kịch<br />
của bà thật sự là những nỗ lực không ngừng để đạt tới mục đích bình dị vô song đó: Tiền<br />
và một căn phòng riêng để viết - hay nói cách khác, sự độc lập về mặt vật chất (và cả tinh<br />
thần) của một phụ nữ muốn sáng tạo văn chương nghệ thuật.<br />
Nhũ danh của Virginia Woolf là Adeline Virginia Stephen. Bà là con gái của nhà biên tập<br />
và phê bình Leslie Stephen và Julia Prinsep Stephen (nhũ danh Jackson), một phụ nữ đẹp<br />
nổi tiếng từng là người mẫu cho các họa sĩ theo trào lưu Tiền-Raphael như Edward BurneJones. Cha mẹ bà đều đã từng kết hôn và con riêng, do đó gia đình bà bao gồm con cái của<br />
ba cuộc hôn nhân. Julia có ba con riêng là George, Stella và Gerald Duckworth. Leslie có<br />
một con gái với người vợ trước, tên là Laura Makepeace Stephen. Leslie và Julia có chung<br />
bốn người con: Vanessa Stephen, Thoby Stephen, Virginia và Adrian Stephen.<br />
Leslie vốn là con rể của nhà văn William Thackeray (ông là chồng góa của con gái út của<br />
Thackeray), bên cạnh đó thân hữu của cả hai vợ chồng ông đều là những nhà văn, nghệ sĩ<br />
nổi tiếng của nước Anh vào thời bấy giờ. Do vậy con cái của ông được nuôi dạy trong một<br />
môi trường chịu nhiều ảnh hưởng của giới văn học nước Anh. Bổ sung cho những ảnh<br />
hưởng này là tòa thư viện rộng mênh mông ở nhà của Stephen, nơi mà Virginia và Vanessa<br />
được dạy các môn học như ngoại ngữ, triết học, văn chương, lịch sử, nghệ thuật và văn<br />
học Anh.<br />
<br />
Theo Woolf, những hồi ức tuổi thơ mạnh mẽ nhất của bà không phải là ở London mà là ở<br />
thị trấn St. Ives thuộc hạt Cornwall, nơi gia đình bà dùng để nghỉ hè cho tới năm 1895.<br />
Ngôi nhà nghỉ hè của gia đình Stephen, Talland House, nhìn ra vịnh Porthminster, và vẫn<br />
còn cho tới ngày nay, dù đã thay đổi ít nhiều. Ký ức về những ngày nghỉ gia đình này và<br />
những ấn tượng về phong cảnh ở đó, đặc biệt là ngọn hải đăng Godvry, đã được thể hiện<br />
lại trong quyển tiểu thuyết được xem là hay nhất của Woolf vào những năm sau này,<br />
quyển To the Lighthouse (Tới ngọn hải đăng).<br />
Trong thời gian nghiên cứu ở đại học đường King’s College Cambridge và King’s College<br />
London, bà quen biết với một số văn nghệ sĩ và trí thức cấp tiến như nhà kinh tế học John<br />
Maynard Keynes, thi sĩ E. M. Forster, nhà văn chuyên viết tiểu luận và tiểu sử Lytton<br />
Strachey và nhà văn, lý thuyết gia chính trị người Anh gốc Do Thái Leonard Woolf (18801969), người mà bà kết hôn vào năm 1912. Họ trở thành những thành viên sáng lập của<br />
Bloomsbury Group, một nhóm các bạn bè thân hữu sống và hoạt động gần khu<br />
Bloomsbury, London, thường xuyên có những buổi họp mặt thảo luận về đủ mọi đề tài.<br />
Tác phẩm của Nhóm Bloomsbury đã có một ảnh hưởng sâu rộng tới các mặt văn chương,<br />
mỹ học, phê bình và kinh tế học, cũng như đưa ra những quan điểm hiện đại về thuyết<br />
nam nữ bình quyền, chủ nghĩa hòa bình và quan hệ tính dục.<br />
Năm 1917, hai vợ chồng Woolfs mua lại một xưởng in thủ công nhỏ và sáng lập ấn quán<br />
Hogarth pss, xuất bản những tác phẩm của nhóm Bloomsbury, của Katherine Mansfield<br />
cũng như bản dịch các tác phẩm của Freud. Virginia Woolf sống một cuộc đời sôi động<br />
giữa bằng hữu và gia đình, viết lách và diễn thuyết ở các trường đại học.<br />
Cái chết của mẹ vào năm 1895 và của chị gái cùng mẹ khác cha Stella hai năm sau đó đã<br />
dẫn tới những cơn suy nhược thần kinh đầu tiên của Virginia Woolf. Và cái chết của cha<br />
bà vào năm 1914 đã khiến cho bà suy sụp hoàn toàn, phải vào bệnh viện để điều trị một<br />
thời gian ngắn. Các cơn suy nhược và những thời kỳ trầm cảm sau này cũng còn chịu ảnh<br />
hưởng bởi sự lạm dụng tình dục mà bà và Vanessa gánh chịu từ hai người anh cùng mẹ<br />
khác cha là George và Gerald Duckworth. Woolf đã nhắc lại chuyện này trong các tiểu<br />
luận A sketch of the Past (Một phác họa về quá khứ) và 22 Hyde Park Gate (Nhà số 22<br />
phố Hyde Park Gate). Trong suốt đời mình, Virginia Woolf luôn bị quấy rầy bởi những<br />
cơn trầm cảm và những chứng bệnh liên quan. Dù các cơn đau này thường gây ảnh hưởng<br />
tới hoạt động xã hội của mình, bà vẫn tiếp tục sáng tác với một vài thời kỳ gián đoạn cho<br />
tới khi qua đời do tự tử.<br />
Càng về sau này, Virginia càng thường xuyên chịu đựng các cơn suy nhược thần kinh. Bà<br />
thẳng thắn tự nhận là mình “bị điên”, bảo rằng bà thường nghe thấy những tiếng nói và<br />
nhìn thấy những ảo ảnh: “Đối với tôi, bộ não của tôi là thứ thiết bị bất khả lý giải nhất luôn luôn kêu vo ve, o o, vút lên, gầm rú, lao xuống, và rồi bị vùi chôn trong bùn. Và tại<br />
sao?…” (trích một lá thư đề ngày 28/12/1932) Sợ làm phiền đến chồng mình, bà đã tự tử<br />
một đôi lần nhưng thất bại. Trong lá thư cuối cùng gửi cho chồng, bà viết:<br />
“Em cảm thấy chắc chắn rằng em sắp sửa điên trở lại. Em cảm thấy chúng ta sẽ không<br />
thể vượt qua những thời khắc kinh khủng đó thêm nữa. Và lần này em không thể hồi phục<br />
lại. Em bắt đầu nghe thấy những giọng nói, và em không thể tập trung. Vì thế em sẽ thực<br />
hiện cái điều mà dường như là điều tốt nhất để làm. Anh đã cho em niềm hạnh phúc lớn<br />
nhất có thể có. Theo bất kỳ cách thức nào anh đã là tất cả những gì mà bất kỳ một người<br />
<br />