Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945
lượt xem 4
download
Thông qua nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945, luận án góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện hơn về kinh tế nông nghiệp thời Pháp thuộc ở Bắc Kỳ nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Đồng thời trên cơ sở đó đánh giá một cách khách quan, khoa học về tác động của chính sách thuộc địa của Pháp đối với kinh tế nông nghiệp Hải Dương và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân gian có câu: “Nông suy bách nghệ bại”. Câu nói đó cho thấy vai trò quan trọng, chủ đạo của kinh tế nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam nói chung. Vì vậy, chính quyền Nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau đều có những chủ trương, chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển. Trong quá trình cai trị Việt Nam, thực dân Pháp rất chú trọng đến lĩnh vực kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nông nghiệp là lĩnh vực được đưa lên hàng đầu trong trật tự đầu tư. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã thúc đẩy sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Việt Nam, từ một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất khép kín, tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp bước đầu đã có những yếu tố của kinh tế hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp đã trở thành hàng hóa trên thị trường. Hải Dương là một tỉnh nằm ở khu vực trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp. Tháng 8 1883, thực dân Pháp đánh chiếm Thành Đông, đặt ách cai trị và ra sức khai thác kinh tế, bóc lột sức lao động, vơ vét của cải, tài nguyên nơi đây để làm giàu cho chính quốc. Trong đó, nông nghiệp là ngành kinh tế được thực dân Pháp chú trọng khai thác. Chủ trương, chính sách khai thác nông nghiệp và việc thực hiện chính sách đó của chính quyền thực dân đã đưa đến sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Sự biến đổi đó đã tác động sâu sắc tới tình hình kinh tế xã hội Hải Dương thời thuộc địa. Do đó, nghiên cứu sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương sẽ góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ tính chất của nền kinh tế Việt Nam thời thuộc địa, đồng thời, giúp chúng ta nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc hơn về công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 sẽ góp phần khôi phục lại bức tranh nông nghiệp toàn tỉnh thời Pháp thuộc. Qua sự so sánh với tình hình nông nghiệp Hải Dương thời nhà Nguyễn thống trị sẽ rút ra những nhận xét, đánh giá về mặt tích cực và hạn chế của sự phát triển kinh tế nông nghiệp và đời sống nông dân tỉnh Hải Dương thời thuộc địa. Trên cơ sở đó, đánh giá khách quan, toàn diện về sự thống trị của thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Thứ ba, trong hơn một thế kỷ qua, đã có nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề kinh tế nông nghiệp Việt Nam và Đông Dương từ khi Pháp đô hộ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về kinh tế
- 2 nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 thì chưa có một công trình nào trình bày một cách toàn diện và có hệ thống. Bức tranh nông nghiệp toàn tỉnh Hải Dương thời kỳ này vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Do đó, việc làm sáng tỏ các vấn đề xoay quanh sự biến đổi của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa có ý nghĩa trong việc lấp đi khoảng trống của nền sử học nước nhà trong thời gian qua. Thứ tư, những bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu kinh tế nông nghiệp Hải Dương thời kỳ thuộc địa sẽ góp phần phục vụ đắc lực, hữu ích cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang tích cực thực hiện hiệu quả công cuộc đổi mới nông nghiệp và nông thôn. Thứ năm, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một phần quan trọng của lịch sử Hải Dương thời cận đại. Từ đó cung cấp những tư liệu cần thiết phục vụ trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt Nam thời cận đại trong nhà trường phổ thông, cao đẳng và đại học. Với những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945” làm Luận án Tiến sĩ. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945, luận án góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện hơn về kinh tế nông nghiệp thời Pháp thuộc ở Bắc Kỳ nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Đồng thời trên cơ sở đó đánh giá một cách khách quan, khoa học về tác động của chính sách thuộc địa của Pháp đối với kinh tế nông nghiệp Hải Dương và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của đề tài Luận án tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây: Thứ nhất, luận án làm rõ những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương; tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trước năm 1883. Thứ hai, luận án làm rõ thực trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa và sự chuyển biến trong từng giai đoạn: giai đoạn 1883 1918 và giai đoạn 1919 1945 trên các phương diện chủ
- 3 yếu như: tình hình ruộng đất, hình thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất và kết quả hoạt động sản xuất. Thứ ba, luận án làm rõ tác động của nông nghiệp đối với kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945. Từ đó, đánh giá khách quan về bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945, với vai trò là ngành kinh tế chủ đạo của một tỉnh lớn ở Bắc Kỳ, nằm ở trung tâm của khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương chủ yếu trong giới hạn thời gian từ sau khi Pháp đánh chiếm thành Hải Dương (19 8 1883) và bắt đầu quá trình thiết lập nền cai trị thuộc địa đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Hải Dương thành công. Tuy nhiên, để có cái nhìn so sánh, nội dung Luận án sẽ đề cập đến một số vấn đề của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong cả thời kỳ trước đó. Về không gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là tỉnh Hải Dương thời kỳ Pháp cai trị, căn cứ theo địa giới hành chính được quy định cụ thể bởi các nghị định của chính quyền thuộc địa. Cụ thể đơn vị hành chính tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa gồm các phủ, huyện sau: Nam Sách gồm 13 tổng với 98 xã; Kinh Môn gồm 8 tổng với 81 xã; Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã; Bình Giang gồm 10 tổng với 71 xã; Chí Linh gồm 6 tổng với 60 xã; Thanh Hà gồm 10 tổng với 70 xã; Kim Thành gồm 6 tổng với 58 xã; Cẩm Giàng gồm 13 tổng với 86 xã; Thanh Miện gồm 9 tổng với 69 xã; Gia Lộc gồm 9 tổng với 80 xã; Tứ Kỳ gồm 8 tổng với 89 xã; Vĩnh Bảo gồm 12 tổng với 103 xã; Đông Triều gồm 5 tổng với 56 xã. Toàn tỉnh có 117 tổng và 1.013 xã, tỉnh lỵ là Hải Dương. Đến năm 1923, được gọi là thành phố Hải Dương. Về nội dung: Luận án tập trung đi sâu nghiên cứu những lĩnh vực cơ bản trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương là trồng trọt và chăn nuôi, trên những khía cạnh chủ yếu là tình hình ruộng đất, hình thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất và kết quả hoạt động sản xuất. 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Những vấn đề khoa học của luận án được giải quyết trên cơ sở tiếp cận và khai thác những nguồn tài liệu sau đây: Nguồn tài liệu văn kiện Đảng và các tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước (chủ yếu là thời kỳ trước năm 1945).
- 4 Nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, thư viện Quốc gia Việt Nam và thư viện tỉnh Hải Dương, bao gồm các hồ sơ lưu trữ đề cập đến vấn đề nông nghiệp tỉnh Hải Dương, cụ thể là các văn bản hành chính của chính quyền thuộc địa như sắc lệnh, nghị định, công văn, thư từ trao đổi, … đặc biệt là các báo cáo kinh tế, chính trị, xã hội của Công sứ tỉnh Hải Dương gửi Thống sứ Bắc Kỳ, của chính quyền cấp phủ, huyện gửi lên chính quyền cấp tỉnh và báo cáo của Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Toàn quyền Đông Dương; các tài liệu thống kê, địa bạ, bản đồ,… Các công trình nghiên cứu đã công bố có chứa đựng những nội dung liên quan đến cách tiếp cận hướng nghiên cứu và nội dung đề tài nghiên cứu, gồm có: sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, luận văn, luận án, bài nghiên cứu, thông tin đăng trên các báo, tạp chí. Các tài liệu sưu tầm bao gồm hương ước, các sách báo đương thời và các tài liệu điền dã. Nguồn tài liệu này góp phần cung cấp những thông tin cụ thể và chi tiết cho tác giả giải quyết những nhiệm vụ của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nắm vững và vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề kinh tế, xã hội của Việt Nam và Đông Dương trong thời kỳ thuộc địa, tác giả luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, trong đó sử dụng chủ yếu hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp logic để giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra. Bên cạnh đó, do tiếp cận nghiên cứu ở lĩnh vực kinh tế nên đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp nghiên cứu khu vực học, thống kê, định lượng, phân tích, so sánh,… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 5. Đóng góp của luận án Luận án đã khôi phục một cách tương đối hệ thống, toàn diện về tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945. Trên cơ sở làm rõ những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời Pháp thuộc qua hai giai đoạn chính là giai đoạn 1883 1918 và giai đoạn 1919 1945, tác giả đã đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa học về tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương từ năm 1883 đến năm 1945, đặc biệt là về những chính sách nông nghiệp cụ thể của chính quyền thuộc địa áp dụng ở Hải Dương. Ngoài ra, luận án còn làm rõ tác động của kinh tế nông nghiệp đối với kinh tế xã hội Hải Dương thời kỳ này. Nội dung luận án đã góp phần lấp một khoảng trống nghiên cứu
- 5 về lịch sử địa phương Hải Dương và làm phong phú thêm những nghiên cứu về các vấn đề của lịch sử Việt Nam cận đại, đặc biệt là vấn đề kinh tế nông nghiệp, ngành kinh tế chủ đạo trong cơ cấu kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc. Nội dung luận án và hệ thống tư liệu tham khảo được sưu tầm trong quá trình nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu có giá trị phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở các trường đại học, cao đẳng nói chung, các trường phổ thông ở Hải Dương nói riêng, đồng thời phục vụ cho công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương. Những kết luận khoa học của luận án và các kết quả nghiên cứu đã công bố góp phần phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. 6. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề Chương 2: Những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 Chương 3: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 1918 Chương 4: Những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương từ năm 1919 đến năm 1945 Chương 5: Đặc điểm và tác động của nông nghiệp đến kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam thời thuộc địa Các sách nghiên cứu: Từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bước đầu đã có những cách tiếp cận khác nhau với mục đích góp phần phác họa diện mạo kinh tế và xã hội Việt Nam thời thuộc địa. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này phải kể đến: Souvenirs de l’Annam et du Tonkin (Hồi ức về xứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ) của J.Masson, Les concessions de terre au Tonkin (Việc cấp phát ruộng đất ở Bắc Kỳ) của J.Morel, La Formation des classes sociales en pays Annamite của A. Đuymarret, Đông Dương của Ch. Robequain, Những
- 6 thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm, Việt Nam thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh, La Présence Financière et Economique Francaise en Indochine (1859 – 1939) (Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859 – 1939)) của J.Aumiphin, Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 – 1945) của Nguyễn Văn Khánh. Các bài báo, tạp chí khoa học: Trên các tạp chí chuyên ngành, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khánh có bài: Quá trình chuyển biến cơ cấu xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám 1945 (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 năm 1995). Luận văn, luận án: Trong những năm gần đây đã có một số luận án tiếp cận ở một số hướng nghiên cứu mà người viết có thể tiếp thu, học hỏi và tham khảo: Luận án Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919 – 1939 của tác giả Vũ Thị Minh Hương, bảo vệ năm 2002; Đô thị Hải Dương thời kỳ thuộc địa (1883 – 1945) của tác giả Phạm Thị Tuyết, bảo vệ năm 2011. 1.2. Các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc Các sách nghiên cứu: Nông nghiệp Việt Nam thời thuộc địa đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều công trình được công bố như: Le Tonkin en 1909 (Bắc Kỳ năm 1909) của G.Dauphinot, Aujourd’hui Tonkin (Xứ Bắc Kỳ ngày nay) của Henry Cucherousset, Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn, Le Tonkin (Bắc Kỳ) của P. Gourou, Economie agricole de l'Indochine (Nông nghiệp Đông Dương) của Y.Henry, La Culture du riz dans le delta du Tonkin (Nghề trồng lúa ở đồng bằng Bắc Kỳ) của René Dumont, Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ của Pierre Gourou, Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Nguyễn Kiến Giang, Sơ thảo lịch sử thủy lợi Việt Nam, tập 1 của Phan Khánh, Lịch sử nông nghiệp Việt Nam của Đường Hồng Dật, Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 – 1918 và Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945 của Tạ Thị Thúy, Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang, Lịch sử tín dụng nông nghiệp Việt Nam (1875 – 1945) của Phạm Quang Trung, . Các bài báo, tạp chí khoa học: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử có các bài viết tiêu biểu như: Chế độ công điền công thổ Bắc Kỳ dưới thời Pháp thống trị của Vũ Huy Phúc (số 88, năm 1966); Về vấn đề ruộng công và ruộng tư trong lịch sử Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm (số 4, năm 1987); Khai thác và sử dụng đất đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ giai đoạn 1884 – 1896 của Tạ Thị Thúy (số 2, năm 1991); Mấy suy
- 7 nghĩ về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nhìn từ góc độ sở hữu của Trương Hữu Quýnh (số 4, năm 1993); Việc quản lý đất công nông nghiệp và quy chế nhượng đất của Pháp ở Bắc Kỳ (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của Tạ Thị Thúy (số 11+12, năm 1995); Tìm hiểu hệ thống thuế thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 – 1945) của Hồ Tuấn Dung (số 6, năm 2001); Đồn điền của người Pháp ở Bắc Trung Kỳ từ 1897 đến 1945 của Trần Vũ Tài (số 10, năm 2006); Đồn điền của người Pháp ở Nam Định từ 1884 đến 1918 của Dương Văn Khoa (số 2, năm 2012); Sở hữu ruộng đất ở tỉnh Nam Định từ năm 1919 đến năm 1945 của Dương Văn Khoa (số 8, năm 2014) v.v… Luận văn, luận án: Các luận văn, luận án về nông nghiệp Việt Nam mà nghiên cứu sinh có thể tham khảo tiêu biểu như: Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ từ 1884 đến 1945 của Trần Vũ Tài (bảo vệ năm 2007), Kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang từ năm 1884 đến năm 1945 của Đỗ Văn Chính (bảo vệ năm 2009), Nông nghiệp tỉnh Nam Định (1884 – 1945) của Dương Văn Khoa (bảo vệ năm 2012). 1.3. Các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trước năm 1945 Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa. Các sách, báo, tạp chí khoa học nếu có thì mới dừng ở phạm vi rất hẹp. Tiêu biểu có các công trình: Notice sur les circonscriptions dépendant directement de Hải Dương (Chỉ dẫn về những vùng trực thuộc Hải Dương) và Notice sur les huyen de Cẩm Giàng, Hiệp Sơn, Kim Thành et centre administratif de Yên Lưu, province de Hải Dương (Chỉ dẫn về các huyện Cẩm Giàng, Hiệp Sơn, Kim Thành và trung tâm hành chính Yên Lưu, tỉnh Hải Dương) cùng có niên đại 1901, hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, L’essor de la ville de Hải Dương 1923 – 1927 (Tiến triển của thành phố Hải Dương 1923 – 1927) của Alfred Bouchet, Địa dư huyện Cẩm Giàng của Ngô Vi Liễn, La province de Hải Dương (Tỉnh Hải Dương) của Phó Công sứ Dilleman, Tình hình từng huyện tỉnh Hải Dương năm 1900 lưu trữ tại Thư viện tỉnh Hải Dương, Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng thị xã Hải Dương – Tập 1 (1930 – 1954) , Lịch sử thị xã Hải Dương do Phạm Quí Mùi chủ biên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Dương, tập I, Địa chí Hải Dương”, tập I, II. Trên diễn đàn của Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, có các bài viết: Biến đổi ruộng đất ở làng Mộ Trạch (Hải Dương) từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1945 của Nguyễn Văn Khánh (số 1, năm 1998), Hoạt động buôn bán thóc gạo ở thành phố Hải Dương thời kỳ thuộc địa (1883 – 1945) của tác giả Phạm Thị Tuyết (số 10, năm 2014).
- 8 1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, căn cứ vào nguồn tài liệu sưu tầm được, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ, luận án tập trung nghiên cứu và làm rõ Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 với nội dung cụ thể như sau: Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống các nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945. Thứ hai, phác họa lại bức tranh kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa và sự chuyển biến trong từng giai đoạn (1883 1918 và 1919 1945) trên các phương diện chủ yếu như: tình hình ruộng đất nông nghiệp, quan hệ sản xuất, kỹ thuật canh tác, cơ cấu cây trồng và vật nuôi, kinh tế đồn điền. Thứ ba, làm sáng tỏ tác động của nông nghiệp đến kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945. Trên cơ sở đó đánh giá khách quan, toàn diện về sự thống trị của thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI KỲ 1883 – 1945 2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính Tỉnh Hải Dương nằm ở phía Đông Nam xứ Bắc Kỳ. Phía Đông giáp Quảng Yên, Hải Phòng và Kiến An; phía Bắc giáp Bắc Giang; phía Nam giáp Thái Bình; phía Tây giáp Bắc Ninh và Hưng Yên. Đơn vị hành chính gồm 2 đại lý, 4 phủ và 9 huyện: 2 đại lý: Ninh Giang và Đông Triều. 4 phủ (tương đương huyện): Nam Sách gồm 13 tổng với 98 xã; Kinh Môn gồm 8 tổng với 81 xã; Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã; Bình Giang gồm 10 tổng với 71 xã. 9 huyện: Chí Linh gồm 6 tổng với 60 xã; Thanh Hà gồm 10 tổng với 70 xã; Kim Thành gồm 6 tổng với 58 xã; Cẩm Giàng gồm 13 tổng với 86 xã; Thanh Miện gồm 9 tổng với 69 xã; Gia Lộc gồm 9 tổng với 80 xã; Tứ Kỳ gồm 8 tổng với 89 xã; Vĩnh Bảo gồm 12 tổng với 103 xã; Đông Triều gồm 5 tổng với 56 xã. Toàn tỉnh có 117 tổng và 1013 xã (làng), tỉnh lỵ là Hải Dương. Đến năm 1923 được gọi là thành phố Hải Dương. Số lượng phủ, huyện không thay đổi đến tháng 8 1945.
- 9 2.1.2. Điều kiện tự nhiên * Địa hình Địa hình tỉnh Hải Dương chia ra làm hai vùng khác nhau: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía Bắc của tỉnh, bao gồm các huyện Chí Linh, Đông Triều, Kinh Môn. Vùng đồng bằng nằm ở phía Nam của tỉnh, do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất đai màu mỡ. Vùng đồng bằng này rộng hơn vùng đồi núi, đo được đến 445.000 mẫu ta (1.600 km2). Đất đấy lắm màu, vì có nhiều sông ngòi chảy qua khắp mọi nơi. * Đất đai Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp. Đất ở Hải Dương bao gồm: đất phù sa, đất mặn và đất feralit, tạo điều kiện cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. * Khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây. Khí hậu ở đây chia thành bốn mùa rõ rệt: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Đây là điều kiện để tỉnh Hải Dương phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Sự phân mùa của khí hậu tạo khả năng hình thành một cơ cấu mùa vụ thích hợp, đem lại các sản phẩm đa dạng cho từng mùa. Tuy nhiên, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cũng gây ra hạn hán, bão lụt và sản sinh nhiều loại sâu bệnh gây hại cho cây trồng. Do đó, công tác trị thủy, thủy lợi và bảo vệ thực vật có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. * Sông ngòi Tỉnh Hải Dương, ngoài huyện Chí Linh, Đông Triều là núi, còn lại diện tích của tỉnh đều là đồng bằng có sông bao bọc xung quanh gần khép kín địa hình. Ngoài hai con sông chính là sông Thái Bình, sông Kinh Thầy và các chi lưu thuộc hai sông này, tỉnh Hải Dương còn có nhiều hệ thống sông lạch nhỏ như sông Sặt, sông Cẩm Giàng, sông Hàn, sông Cửu An, sông Luộc,… Hệ thống sông này là nơi cung cấp nước và vận chuyển phù sa để cung cấp cho đồng bằng. Đây là điều kiện thuận lợi để nông nghiệp phát triển. Như vậy, điều kiện tự nhiên ở tỉnh Hải Dương rất phong phú, đa dạng, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên nơi đây cũng gây nên những khó khăn nhất định đến sự tiến triển của kinh tế nông nghiệp.
- 10 2.2. Điều kiện chính trị, xã hội và kinh tế 2.2.1. Điều kiện chính trị và xã hội * Về chính trị: Ngày 19 – 8 1883, Pháp tấn công thành Hải Dương lần thứ hai. Thành Đông thất thủ. Ngày 25 – 8 1883, triều đình Huế lại ký với Pháp hiệp ước Harmand xác định quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, trong đó có Hải Dương (1883 – 1945). Công sứ người Pháp nắm mọi quyền hành trong tỉnh. Bộ máy giúp việc cho Công sứ có tòa sứ gồm các Tham biện và Thư ký. Dưới Công sứ có Phó Công sứ. Các bộ phận giúp việc chánh sứ có Sở mật thám, Sở Cẩm Sở kho bạc (ngân hàng), Sở lục lộ (giao thông công chính), Sở canh nông (phụ trách nông nghiệp), Sở thú y (coi việc chăn nuôi thú y), … Về hệ thống quan lại Nam triều, đầu tỉnh là Tổng đốc. Quan lại dưới quyền Tổng đốc có Bố chánh, Án sát, Lãnh binh. Các cấp dưới gồm: huyện có Tri huyện; phủ có Tri phủ; tổng có Chánh, Phó tổng; xã có Lý trưởng, … * Về xã hội: Năm 1943, dân số tỉnh Hải Dương là 843.530 người và cả nước là 22.612.000 người. Trong đó, ở Hải Dương, dân tộc Kinh là 842.000 người (chiếm 99,81%), các dân tộc thiểu số là 1.298 người (chiếm 0,15%) và người nước ngoài là 232 người (chiếm 0,04%). Nhìn chung, nguồn nhân lực ở tỉnh Hải Dương dồi dào, siêng năng, chịu khó. Do làm nông nghiệp nên họ đã quen với sự lam lũ, một nắng hai sương. Phong tục thuần hậu chất phác, tính cộng đồng bền chặt. Đây là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp nơi đây. 2.2.2. Điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng * Điều kiện kinh tế: ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các ngành công nghiệp và thương mại trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã bước vào giai đoạn phát triển mới, khác căn bản với các thời kỳ trước đó. Sự phát triển này vừa tạo điều kiện cho những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương, vừa chịu sự tác động của những chuyển biến đó. * Cơ sở hạ tầng: Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy và đường sắt đều được đầu tư xây dựng và mở mang thêm. Nổi bật có đường thuộc địa số 5 từ Hà Nội chạy dọc tỉnh Hải Dương qua các huyện Cẩm Giàng, thị xã Hải Dương, Nam Sách, Kim Thành xuống thành phố Hải Phòng được đưa vào sử dụng từ năm 1904. 2.3. Sơ lược về tình hình nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn (1802 – 1883) 2.3.1. Chính sách ruộng đất Triều Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách khẩn hoang để mở rộng diện tích canh tác, tăng thu nhập của nhà nước, giải quyết mâu
- 11 thuẫn giữa nông dân và nhà nước phong kiến. Đặc biệt, các vua Nguyễn có chính sách bảo vệ và mở rộng diện tích ruộng đất công làng xã; ruộng đất tư được Nhà nước tôn trọng. 2.3.2. Tình hình ruộng đất nông nghiệp Theo thống kê của Bộ Hộ, vào thời Gia Long năm thứ 18 (1819), diện tích công tư điền thổ ở Hải Dương là hơn 535.500 mẫu ruộng trên tổng số đinh là hơn 23.900 người. Theo đó, bình quân ruộng đất của mỗi nhân đinh cuối triều Gia Long vào khoảng 22,4 mẫu/đinh. Ruộng đất công chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 10%); ruộng đất tư phát triển mạnh, song không có nhiều đại địa chủ như ở những tỉnh khác. 2.3.3. Hình thức tổ chức và kỹ thuật sản xuất * Hình thức tổ chức sản xuất Thời Nguyễn, hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp bao gồm nông dân làm ăn riêng lẻ và địa chủ phát canh thu tô. Hình thức tổ chức sản xuất này còn được duy trì trong kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 1945). Theo đó, địa chủ thường chia nhỏ ruộng đất để phát canh cho tá điền theo hình thức cấy rẽ. * Kỹ thuật sản xuất Việc đắp thêm đê mới, tu sửa đê cũ, khai thông các dòng nước, mở cống thoát nước ứ tắc được thực hiện hàng năm. Ở Hải Dương, lượng đê được đắp là 26.830 trượng. Tuy nhiên, hiện tượng vỡ đê, lụt lội vẫn xảy ra nhiều; Công cụ sản xuất vẫn còn rất thô sơ: cày, cuốc, liềm, gàu,... Người ta dùng ba loại phân chính: phân xanh, phân chuồng và phân người. 2.3.4. Kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp Nông nghiệp Hải Dương dưới triều Nguyễn chủ yếu là trồng lúa. Vụ mùa và vụ chiêm, diện tích cấy lúa còn hạn chế. Năng suất lúa thu hoạch rất thấp: dưới 1 tấn/ha/vụ. Ngoài ra còn trồng khoai, đậu, cau, thuốc lào… Chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa phát triển mạnh. Số lượng trâu, bò không nhiều. Hầu như nhà nào cũng nuôi vài con lợn, gà, vịt… chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu của địa phương chứ không phải để bán. * Tiểu kết chương 2 Hải Dương là tỉnh có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội để phát triển nông nghiệp. Thời nhà Nguyễn (1802 – 1883), kinh tế nông nghiệp Hải Dương vẫn là nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh và tự cung tự cấp. Thực trạng này nhanh chóng có sự thay đổi kể từ sau khi thực dân Pháp cai trị (1883 1945). Đặc biệt, sau khi chính quyền thuộc địa ban hành và thực thi những chính sách nông nghiệp.
- 12 Chương 3 KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 1883 1918 3.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách nông nghiệp của thực dân Pháp 3.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 – 1914) Trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, vốn đầu tư được tập trung chủ yếu vào hai ngành khai mỏ và giao thông vận tải, chiếm 77% tổng số vốn đầu tư của các công ty tư bản tư nhân. Số vốn đầu tư vào nông nghiệp ít nhất, chiếm 8% tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. 3.1.2. Tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp của thực dân Pháp Cơ quan quản lý nông nghiệp của tỉnh là Tòa Công sứ, do Công sứ người Pháp trực tiếp phụ trách. Trong Tòa Công sứ có một số kỹ sư, nhân viên kỹ thuật về canh nông, thủy lợi giúp Công sứ chỉ đạo nông nghiệp trong tỉnh. Sở Canh nông Bắc Kỳ đã cho thành lập ở Hải Dương trạm thí nghiệm chuyên nghiên cứu về lúa. 3.1.3. Chính sách ruộng đất Để phát triển kinh tế nông nghiệp, việc chiếm và khai thác đất là mục tiêu hàng đầu của thực dân Pháp. Chính quyền thuộc địa đã ban hành và thực thi chính sách cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, tổ chức sản xuất kinh doanh làm giàu. Do đó, quá trình thiết lập, khai thác đồn điền của thực dân Pháp ở Hải Dương đã diễn ra với tốc độ nhanh. Giai đoạn 1883 – 1918, tỉnh Hải Dương có 24 đồn điền của người Pháp với tổng diện tích là 10.160,5683 ha. 3.1.4. Chính sách thuế * Thuế thân: chính quyền thực dân Pháp đã tăng thuế mỗi suất đinh lên 2,5 đồng ở Bắc Bộ. * Thuế điền: Nghị định 20121913 của Thống sứ Bắc Kỳ đã đưa ra một quyết định đánh thuế chi tiết hơn. Thuế ruộng đất đánh theo loại hạng và theo năng suất của vụ thu. Đối với người bản xứ ở Bắc Kỳ, theo những quy định hiện hành trong giai đoạn này, thuế ruộng đánh thống nhất theo mẫu, không phân biệt vùng này hay vùng khác. 3.2. Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 1918 3.2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất nông nghiệp * Ruộng đất công làng xã Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất đã chuyển hẳn sang tay nhà
- 13 nước Pháp và chính quyền thực dân ở Hải Dương. Ruộng đất công làng xã được duy trì ở một mức độ nhất định nhưng ngày càng bị thu hẹp lại. * Ruộng đất tư hữu Nét nổi bật trong tình hình sở hữu ruộng đất của tỉnh Hải Dương giai đoạn này là sự hình thành chế độ sở hữu lớn về ruộng đất. Do chính sách ưu đãi trong việc thiết lập đồn điền của chính quyền thực dân, đã có rất nhiều tư bản Pháp sở hữu số lượng ruộng đất rất lớn, từ vài chục đến hàng nghìn ha như: Pivet (1.451,35 ha), Riehl (1.809 ha), Grandmange (500 ha), Amihat (130 ha), Levaché (615 ha), Lamothe (700 ha). Ở khu vực nông nghiệp làng xã, ruộng đất tư hữu chiếm tỷ lệ lớn. Tiêu biểu như làng Mộ Trạch (Bình Giang) diện tích ruộng tư “chiếm 66,4% diện tích canh tác”. 3.2.2. Hình thức tổ chức sản xuất Trong nền kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương đã xuất hiện hình thức tổ chức sản xuất mới, bóc lột nhân công lao động làm thuê, nhất là ở khu vực đồn điền. Nhưng trong khu vực sản xuất nông nghiệp làng xã và ngay cả trong khu vực đồn điền vẫn tồn tại hình thức tổ chức sản xuất sử dụng lao động tá điền, bóc lột dưới hình thức phát canh thu tô. 3.2.3. Kỹ thuật sản xuất Ở các phủ, huyện trong tỉnh, chính quyền đã cho xây dựng và tu bổ lại các đê điều, công trình tưới và tiêu nước nhằm tạo điều kiện cho nền nông nghiệp phát triển. Trong khu vực kinh tế đồn điền của các điền chủ người Pháp đã bắt đầu sử dụng phân hóa học, như đồn điền của điền chủ Pivet. Thực dân Pháp đã mạnh dạn du nhập một số giống cây trồng, vật nuôi mới như cà phê, cao su, thầu dầu, dê,… 3.2.4. Kết quả hoạt động sản xuất * Trong trồng trọt Khu vực kinh tế đồn điền: Hải Dương có 8 đồn điền của người Pháp dành riêng cho trồng trọt với diện tích là 1.250,3183 ha. Các đồn điền của người Pháp phát triển theo hai hướng chính là du nhập những cây trồng mới có giá trị kinh tế cao như cà phê, chè, cao su, thuốc lá… và duy trì, mở rộng các loại cây trồng bản xứ như lúa, khoai, ngô… Hai hướng trồng trọt này được thực hiện trên hai dạng đồn điền: chuyên canh và đa canh. Cây công nghiệp: trồng thử nghiệm cây cà phê, cao su. Năm 1907, đồn điền Pivet ở Đông Triều đã trồng cao su. Năm 1914, Hải Dương có 75.000 gốc 1.270.000 gốc cà phê ở Bắc Kỳ, chiếm 5,5%. Cây lương thực: Lúa là cây trồng chiếm ưu thế trên các đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Đồn điền của Riehl có diện tích 1.809 ha, Amihat với diện tích là 130 ha và 2 đồn điền của Levaché với tổng diện tích 615 ha, Lamothe với diện tích
- 14 700 ha chủ yếu trồng lúa. Ngoài ra còn trồng ngô, khoai, sắn,… Khu vực nông nghiệp làng xã: Cây lương thực: trồng lúa, ngô, khoai, sắn, đậu,… Trong đó, lúa là chủ yếu. Diện tích trồng lúa của tỉnh năm 1900 khoảng 172.000 ha. Diện tích trồng lúa ở Hải Dương ngày càng được mở rộng. Tính riêng vụ mùa năm 1913, tổng diện tích trồng lúa của tỉnh Hải Dương là 119.340,00 ha. Sản lượng lúa cả năm khoảng 240.000 tấn. Lương thực bình quân đầu người khoảng 267 kg/năm. Năng suất cả năm đạt khoảng 90 – 95 thúng/ha, tương đương 1.800 kg/ha. Các loại cây trồng khác như ngô, khoai lang, cây ăn quả, các loại, rau củ, đỗ đều có sản lượng tốt, nhưng chỉ sử dụng cho nhu cầu tại chỗ. Cây công nghiệp: tiêu biểu có thuốc lá (Vĩnh Bảo), bông (Ninh Giang), cau (Thanh Hà), cây dâu tằm (Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện). * Trong chăn nuôi Khu vực đồn điền: Có 5 đồn điền trên 50 ha kết hợp chăn nuôi với trồng trọt, tổng diện tích 5.267,2 ha. Trong chăn nuôi, gia súc (trâu, bò) là vật nuôi chính và được nuôi ở tất cả các đồn điền trên. Theo Tạ Thị Thúy, tỉnh có 580 trâu, bò, trong đó 200 của Roustan và 380 của Lamotte. Khu vực nông nghiệp làng xã: chăn nuôi chưa phát triển. Trâu, bò được nuôi ở các hộ gia đình, chủ yếu để lấy sức kéo. Lợn được nuôi phân tán ở hầu hết các gia đình để lấy thịt và tận thu phân bón. Gia được chăn nuôi ở khắp các phủ, huyện trong tỉnh. * Tiểu kết chương 3 Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 – 1918 đã có những chuyển biến bước đầu, song mức độ chuyển biến còn tương đối chậm. Nông nghiệp tỉnh Hải Dương đã bắt đầu hình thành hai bộ phận: khu vực kinh tế đồn điền của người Pháp và khu vực kinh tế nông nghiệp làng xã. Khu vực kinh tế đồn điền có những chuyển biến rõ rệt nhất. Sự du nhập phương thức sản xuất TBCN trong khu vực kinh tế đồn điền đã làm kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa, bước đầu phá vỡ tính chất tự cung tự cấp, khép kín của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, việc khai thác đồn điền đang ở giai đoạn thử nghiệm với những cố gắng của các cá nhân riêng lẻ chứ chưa có sự định hướng của chính quyền.
- 15 Chương 4 NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945 4.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai và chính sách nông nghiệp của thực dân Pháp 4.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919 – 1929) Trong cuộc khai thác thuộc địa này, ngành được ưu tiên nhất lại là nông nghiệp, chủ yếu là đồn điền cao su. Số vốn dành cho nông nghiệp chiếm khoảng 1/3 tổng số vốn đầu tư trong thời kỳ này. Do tác động trực tiếp của chính sách mở rộng vốn đầu tư và tăng cường trang thiết bị kinh tế nên các quan hệ TBCN càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, làm biến đổi nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. 4.1.2. Tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp của thực dân Pháp Cơ quan quản lý nông nghiệp của tỉnh là vẫn Tòa Công sứ, do Công sứ người Pháp trực tiếp phụ trách. Giúp Công sứ chỉ đạo nông nghiệp trong tỉnh có một số kỹ sư, nhân viên kỹ thuật về canh nông, thủy lợi. Trạm thí nghiệm tiếp tục nghiên cứu về giống, phân bón,... Các đồn điền hay các ấp sử dụng chế độ quản lý. Người chủ đất cho một diện tích từ 20 mẫu đến vài trăm mẫu giao cho một người quản lý, trong thời hạn từ 1 đến 3 năm. Người quản lý coi như một người tá điền thuê đất lớn rồi đem phần đất đó thành nhiều lô nhỏ để cho thuê hay cho cấy rẽ. Người quản lý chịu trách nhiệm về khoản tô của các tá điền. Ở các làng xã trong tỉnh có bộ phận chuyên trách gồm: Phó lý, Trương tuần, Tuần đinh có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, đời sống ở địa phương. 4.1.3. Chính sách ruộng đất Thực dân Pháp tiếp tục thực hiện chính sách cướp đoạt ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền sản xuất kinh doanh sản phẩm hàng hóa nông nghiệp. Những quy định về việc về việc cấp nhượng đất đã tạo điều kiện cho sự mở rộng kinh tế đồn điền ở Hải Dương và dẫn đến thực trạng số đồn điền của người Âu giảm nhiều và đồn điền của người Việt tăng lên. 4.1.4. Chính sách tín dụng nông nghiệp Ngày 7 – 11 – 1927, CPA tỉnh Hải Dương được thành lập và nhanh chóng trở thành một tổ chức tín dụng có vai trò lớn đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Tín dụng nông nghiệp đã đóng góp một vai trò nhất định trong quá trình chuyển biến nền kinh tế tiểu nông ở
- 16 Hải Dương sang nền kinh tế có những yếu tố TBCN. 4.1.5. Chính sách thuế * Thuế thân: Năm 1937, trước sự phản đối của đa số nhân dân, thực dân Pháp đã chia mức thuế ở Bắc Kỳ ra làm 14 bậc đánh theo mức thu hoạch của từng người. * Thuế điền: Cuối năm 1925, chính quyền bảo hộ chính thức đưa ra hai biểu thuế ruộng đất mới đối với Bắc Kỳ, trong đó có tỉnh Hải Dương. 4.1.6. Chính sách khuyến nông Ngày 8 – 4 1931, chính phủ Pháp đã ra đạo luật cho Đông Dương vay 250 triệu Fr. Đặc biệt, chính quyền còn đứng ra bảo lãnh cho các nông gia, điền chủ vay vốn với mức tối đa là 100 triệu Fr. Các điền chủ trồng lúa còn được chính phủ Pháp hỗ trợ tìm nguồn tiêu thụ lúa gạo. Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa cũng có những chính sách miễn giảm thuế cho nông dân khi gặp phải hạn hán, lũ lụt, mùa màng thất bát. 4.2. Những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1919 1945 4.2.1. Chuyển biến về sở hữu ruộng đất Ruộng đất công làng xã của tỉnh Hải Dương tiếp tục bị thu hẹp. Tỷ lệ ruộng đất công trong tỉnh tương đối thấp, chiếm 16,28%. Ruộng đất tư có sự phát triển mạnh. Địa chủ chiếm khoảng 6% dân số nhưng chiếm 60% ruộng đất. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển sở hữu lớn về ruộng đất ở Hải Dương, đặc biệt ở bộ phận kinh tế đồn điền. Tỉnh có 17 đồn điền, với tổng diện tích là 6.296,88 ha, diện tích canh tác là 1.792,66 ha. 4.2.2. Chuyển biến về hình thức tổ chức sản xuất Tỉnh Hải Dương có 99,2% chủ sở hữu canh tác trực tiếp, bộ phận làm với tá điền chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,8%. Khi người chủ đất có một diện tích tương đối lớn thì họ trực tiếp canh tác vụ mùa tháng 10 và để một vài mẫu cho thuê hoặc cho cấy rẽ vào vụ tháng 5. Hình thức sử dụng công nhân ăn lương thường được sử dụng trong các đồn điền trồng cà phê. Năm 1938, có 4,5 ha trồng cây cà phê với số lượng công nhân bản xứ là 50 người, tiền công dao động từ 0,25 0,35đ. 4.2.3. Chuyển biến về kỹ thuật sản xuất Nhiều đê điều, hệ thống tưới và tiêu nước đã được tu sửa, gia cố hoặc xây dựng mới như: đắp lại một con đê cũ chạy dọc theo sông Thái Bình trên địa phận tổng Trạm Điền (Chí Linh), giúp cho 5.000 mẫu ruộng cấy được vụ mùa. Cuối tháng 2 – 1926, ở Hải Dương đã xây dựng được trạm bơm nước ở xã Thượng Đô (Kim Thành). Nông dân Hải Dương sử dụng phân xanh trong nông nghiệp. “Việc
- 17 sử dụng phân xanh cho vụ mùa cho phép tăng năng suất từ 14 – 20%”. Ngoài ra, nông dân Hải Dương còn sử dụng phân hóa học. Sở Canh nông Bắc Kỳ đã cho thành lập ở Hải Dương trạm thí nghiệm chuyên nghiên cứu về lúa. Bên cạnh cây lúa, còn đưa những giống cây trồng, vật nuôi mới như: giống ngô canh nông; khoai tây Java, giống Heigenteimer và khoai tây Cao Bằng; giống sắn Camanioc; thuốc lá Cabot de Boue; giống lợn Mường Khương, cải thiện giống bò. Tính đến tháng 6 – 1936, có 3 bác sĩ thú y làm việc ở Hải Dương, Kẻ Sặt và Đông Triều. 4.2.4. Chuyển biến về kết quả hoạt động sản xuất * Trong trồng trọt Khu vực kinh tế đồn điền: Cây lương thực: Lúa là cây trồng chính tại các đồn điền. Năm 1939, diện tích trồng lúa là 1.681,50 ha trong tổng số 6.296,88 ha. Ngoài ra, các điền chủ còn trồng ngô (13,66), sắn (14,5 ha). Cây công nghiệp: diện tích trồng cà phê bị giảm sút. Sang những năm 1940, chỉ còn điền chủ Lamotte ở Bắc Mai trồng cà phê với diện tích 65 ha trong tổng số 30 điền chủ trồng cà phê ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, trong các đồn điền còn trồng trẩu, chè, … với diện tích không đáng kể so với cây lúa. Khu vực nông nghiệp làng xã: Cây lương thực: Nghề trồng lúa đã có sự chuyển biến đáng kể: Diện tích từ 195.488 ha (1931) tăng lên 254.000 (1936). Sản lượng và năng suất lúa cao nhất đạt 301.983 tấn (1931); 3.400,10 kg/ha (1934). Diện tích và sản lượng lúa ở Hải Dương luôn nằm trong số những tỉnh đứng đầu khu vực Bắc Kỳ. Điều này được minh chứng qua sự so sánh với diện tích và sản lượng lúa ở Nam Định và Thái Bình. Từ 1931 – 1940, diện tích ngô từ 395 ha tăng lên 1.670 ha và sản lượng từ 520 tăng lên 2.813 kg/ha; diện tích khoai lang từ 3.333 ha giảm còn 3.067 ha và sản lượng từ 10.499 giảm còn 9.250 kg/ha. Ngoài ra, người nông dân tỉnh Hải Dương còn trồng đậu đỗ, đậu tương, sắn, … Các loại cây công nghiệp: được trồng nhiều trong tỉnh là thuốc lá, cau, chè, mía, bông, cói, dâu tằm. * Trong chăn nuôi Hầu hết Công sứ Hải Dương đều cho rằng: Hải Dương là một tỉnh nghèo gia súc và không bao giờ trở thành một vùng chăn nuôi. Khu vực kinh tế đồn điền: Tỉnh Hải Dương chỉ có những đồn điền kết hợp chăn nuôi với trồng trọt. Chăn nuôi trong các đồn điền ở Hải Dương chủ yếu là chăn nuôi trâu, bò. Tiêu biểu như: đồn điền của De
- 18 Monpezat ở Nam Sách nuôi 107 con trâu; De Barbiaux ở Chí Linh nuôi 280 con bò, 70 con trâu. Khu vực nông nghiệp làng xã: Chăn nuôi lợn đặc biệt phát triển ở Hải Dương. Trâu, bò được nuôi nhiều trong tỉnh. Năm 1937, tỉnh có 14.810 con bò và 33.890 con trâu, 97.279 con lợn, con 148 ngựa, 450 con dê, 844.850 con gia cầm. Bên cạnh đó, Hải Dương cũng là tỉnh buôn bán gia súc tương đối lớn. * Tiểu kết chương 4 Giai đoạn 1919 – 1945, chính quyền thuộc địa Hải Dương đã có sự đầu tư lớn vào lĩnh vực nông nghiệp. Điều này đã tạo nên những biến chuyển kinh tế nông nghiệp mạnh mẽ hơn hẳn giai đoạn trước. Nông nghiệp tỉnh Hải Dương vẫn chia thành hai bộ phận: khu vực kinh tế đồn điền và khu vực kinh tế nông nghiệp làng xã. Sự du nhập phương thức sản xuất TBCN trong khu vực kinh tế đồn điền đã làm kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa, góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp, khép kín của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Chương 5 ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÔNG NGHIỆP ĐẾN TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI KỲ 1883 – 1945 5.1. Về một số đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương (1883 – 1945) Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời Pháp thuộc có một số đặc điểm nổi bật sau đây: Một là, mặc dù sở hữu nhỏ về ruộng đất chiếm ưu thế nhưng sở hữu lớn về ruộng đất bước đầu hình thành. Hai là, từ nền nông nghiệp chuyên canh lúa nước chuyển sang nền nông nghiệp đa canh, phát triển trồng trọt và chăn nuôi, song lúa vẫn là cây trồng chủ đạo. Ba là, kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương bước đầu phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Bốn là, kinh tế nông nghiệp Hải Dương có sự tồn tại của phương thức sản xuất phong kiến và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Năm là, khu vực kinh tế đồn điền có sự chuyển biến mạnh mẽ nhất trong nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Sáu là, kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương phản ánh rõ nét tính chất thuộc địa của nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc.
- 19 5.2. Tác động của nông nghiệp đến kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945 5.2.1. Tác động về kinh tế * Góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa Sự ra đời của quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp góp phần tạo ra khối lượng sản phẩm nông nghiệp lớn hơn trước, nền sản xuất hàng hóa được mở rộng hơn. Tuy nhiên, sự xâm nhập của phương thức sản xuất TBCN vào nông nghiệp đi đôi với quá trình mất đất, bóc lột nặng nề và làm bần cùng hóa người nông dân. Nông nghiệp Hải Dương có sự chuyển biến rõ rệt so với trước, nhưng đó là sự chuyển mình trong đau khổ. * Góp phần thúc đẩy một số ngành công nghiệp chế biến ở địa phương phát triển Góp phần phát triển công nghiệp chế biến rượu (năm 1904 thành lập nhà máy sản xuất rượu), dệt và chế biến thực phẩm (đặc biệt là nghề hàng xáo với 6.600 hộ). Các nghề thủ công như nghề ấp vịt, giết mổ gia súc, gia cầm; nghề đan lát,… có điều kiện phát triển. * Góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển Nội thương: Chợ là nơi nhân dân trong vùng trao đổi, mua bán nông sản và các hàng thủ công. Ở tất cả các phủ, huyện trong tỉnh đều có chợ. Những năm 1915 – 1916, đã có 220 chợ lớn nhỏ tạo thuận lợi cho sự trao đổi hàng hóa. Hoạt động xuất nhập khẩu: Hải Dương nằm giữa hai trung tâm có sức hấp dẫn là Hà Nội và Hải Phòng nên thương mại tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo. Các trung tâm thương mại lớn gồm: thành phố Hải Dương, Ninh Giang, Bảy Chùa, Yên Lưu, Kẻ Sặt và Mỹ Đông. Tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều đi qua Hải Phòng và từ đó được chuyển qua Hồng Kông hoặc vùng khác. Tính riêng năm 1935, tỉnh xuất khẩu được 13.000 tấn thóc gạo, 700 tấn ngô trong tổng số 776 tấn thu hoạch được, 100 tấn cám. * Sự phát triển của nông nghiệp, thương nghiệp đã đưa đến sự ra đời của các đô thị ở Hải Dương: Đầu năm 1930, nhiều đô thị mới được hình thành bên cạnh các tuyến đường sông, đường bộ như thành phố Hải Dương, Ninh Giang, Phả Lại, Kẻ Sặt, An Lưu, Bến Trại… Dân cư đông đúc, cửa hàng, cửa hiệu ngày một nhiều. Nơi đây đã có hàng nghìn thương nhân buôn bán các mặt hàng nông sản, thủ công trong nước và hàng công nghệ phẩm nhập khẩu, nhiều hiệu buôn lớn được hình thành.
- 20 * Tác động đến hoạt động dịch vụ vận tải: Kinh tế nông nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ hơn giai đoạn trước kéo theo sự phát triển của hoạt động dịch vụ vận tải, đặc biệt là dịch vụ đường thủy, nhằm vận chuyển chủ yếu các mặt hàng thóc gạo và rượu. 5.2.2. Tác động về xã hội * Sự biến động về dân cư và mở mang địa bàn cư trú Sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp đã tác động lớn đến sự gia tăng dân số và các luồng di dân và ngược lại. Dân số tỉnh Hải Dương từ 1900 đến 1943 tăng khoảng 138.000 người. Mật độ dân số từ 314 người/km2 (1900) tăng lên 375 người/km2 (1943). Diện tích canh tác theo đầu người từ 0,19 ha/người (1932) tăng lên 0,26 ha/người (1940). Song, sản lượng lúa tính trung bình theo đầu người ở tỉnh Hải Dương giảm từ 3,83 tạ/người (1932) xuống còn 2,49 tạ/người (1940). Điều đó cho thấy sản lượng lúa không đáp ứng được mức tăng dân số. Đây cũng là lý do khiến sự nghèo đói, bần cùng ngày càng tăng của người dân lao động ở tỉnh Hải Dương. Đồng thời dẫn đến hiện tượng hình thành các luồng di dân mới: di dân từ vùng đồng bằng lên phía bắc của tỉnh; di dân vào các nhà máy, hầm mỏ; di dân sang các tỉnh khác; di dân vào Nam Kỳ, Campuchia,… Tuy nhiên, sự di dân này vẫn chưa thể thỏa mãn được nhu cầu việc làm của nông dân tỉnh Hải Dương. Đồng thời việc tập trung dân cư quá đông ở vùng đồng bằng của tỉnh cũng chưa được giải quyết triệt để. Chính quyền thuộc địa Hải Dương đã khai thác đất đai hoang hóa ở vùng phía bắc của tỉnh (Chí Linh, Đông Triều) và chinh phục đất bãi bồi ở phía nam huyện Vĩnh Bảo và đông nam huyện Đông Triều. * Sự phân hóa giai cấp của xã hội nông thôn Hải Dương Sự phân hóa của giai cấp địa chủ: Thời kỳ thuộc địa, địa chủ ở Hải Dương chỉ chiếm khoảng 6% dân số nhưng chiếm 60% diện tích ruộng đất. Còn theo phân loại của cải cách ruộng đất: địa chủ chiếm 2,72% dân số, chiếm 13,55% diện tích ruộng đất. Đại đa số địa chủ đem ruộng đất phát canh thu tô. Tô có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Tuy nhiên, do chính sách độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị nên giữa đế quốc và địa chủ bản xứ vẫn có những mâu thuẫn về quyền lợi. Ở Hải Dương, ngoài những tên địa chủ cường hào, phản động làm tay sai cho đế quốc, còn có một số địa chủ vừa và nhỏ bị phá sản còn có tư tưởng yêu nước, phản ứng chống lại tư bản Pháp. Bộ phận này khi được vận động và giác ngộ cách mạng đã tham gia, ủng hộ cách mạng, hoặc cho con em đi theo cách mạng. Sự phân hóa của giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân ở Hải Dương bị phân hóa thành các tầng lớp: cố
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 268 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn