intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á và bài học cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế "Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á và bài học cho Việt Nam" được nghiên cứu với mục tiêu: Nghiên cứu chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á, và từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách phát triển bảo hiểm thương mại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á và bài học cho Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG TRỌNG KHOA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Ngành: Kinh tế quốc tế Mã số: 9.31.01.06 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
  2. HÀ NỘI - 2024 Luận án được hoàn thành tại Học viện Khoa học Xã hội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Huy Hoàng TS. Nguyễn Bùi Nam Phản biện 1:.............................................................................................. Phản biện 2:............................................................................................. Phản biện 3:.............................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Học viện Khoa học Xã hội Vào hồi giờ ngày tháng năm Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết đề tài Bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội. Mọi quốc gia trên thế giới luôn đưa ra những giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy, khuyến khích hoạt động bảo hiểm phát triển, tăng số lượng các loại bảo hiểm bắt buộc, miễm giảm thuế thu nhập đối với người kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà bảo hiểm đầu tư… . Việt Nam là một trong những quốc gia đang có sự phát triển nhanh trong khu vực ASEAN. Sự mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng đã giúp thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng tiếp cận được với các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới, cung cấp các sản phẩm ngày càng đa dạng cho thị trường Việt Nam. Song, theo đánh giá từ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, chính sách bảo hiểm của Việt Nam hiện nay cũng đang chưa thực sự tạo ra nền tảng vững chắc để đảm bảo thị trường bảo hiểm thương mại phát triển một cách an toàn, bền vững. Mức độ thâm nhập và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng. Việc thực thi các chính sách bồi thường còn chưa được tốt, còn nhiều vướng mắc thủ tục hành chính, tính minh bạch chưa cao. Bên cạnh đó, sản phẩm bảo hiểm ở một số lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, thiên tai, rủi ro tín dụng và tài chính chưa có những chính sách bảo hiểm hợp lý. Chưa có nhiều những chính sách để phát triển các sản phẩm bảo hiểm vi mô – là các sản phẩm bảo hiểm dành cho những người yếu thế trong xã hội. Thị trường bảo hiểm Thái Lan và Singapore là hai thị trường sôi động hàng đầu trong Đông Nam Á. Chính vì vậy, việc học tập kinh nghiệm của các quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan và Singapore là cần thiết. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể có những định hướng và điều hỉnh hệ thống chính sách sao cho có thể khai thác được tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong tương lai. . Với những ý nghĩa cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài “Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại ở một số quốc gia Đông Nam Á và bài học cho Việt Nam” làm chủ đề nghiên cứu cho luận án tiến sĩ kinh tế. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á, và từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách phát triển bảo hiểm thương mại. Mục tiêu cụ thể: Khái quát và hệ thống hóa khung phân tích về chính sách phát triển BHTM, thực trạng tại một số nước ĐNA và Việt Nam, phân tích các mặt tích cực và hạn chế cũng như nguyên nhân của hạn chế trong chính sách phát triển BHTM tại một số nước ĐNA và rút ra bài học cho Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện CS cho VN. Câu hỏi nghiên cứu: CS phát triển BHTM của một số nước ĐNA hiện nay như thế nào? Có sự tương đồng hay khác biệt giữa CS BHTM của các nước hay
  4. 2 không? Có thể rút ra những bài học kinh nghiệm nào cho VN trong việc hoàn thiện CS phát triển BHTM 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách phát triển bảo hiểm thương mại ở một số quốc gia Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu CS PT BHTM của Thái Lan và Singapore ở phương diện hoạch định và thực thi chính sách, tập trung vào chính sách . Về không gian: Tập trung vào CS của Thái Lan và Singapore, là hai thị trường có mật độ BH và mức độ thâm nhập BH lớn nhất ĐNA.. Về thời gian: khoảng thời gian từ năm 2010 – 2022, là giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển thị trường BH VN giai đoạn 2011 – 2020 và thực hiện ban hành Luật kinh doanhh BH mới năm 2022.. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm, đặc biệt là các chính sách về phát triển bảo hiểm thương mại. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Ngoài việc sử dụng các phương pháp luận nghiên cứu, NCS còn sử dụng Các phương pháp nghiên cứu khoa học khác, cụ thể gồm: phương pháp phân tích thống kê, phương pháp nghiên cứu so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp thống kê mô tả, với các nguồn dữ liệu được lấy từ cơ quan quản lý bảo hiểm của các quốc gia Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Luận án cũng đã sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình, tập trung vào nghiên cứu các trường hợp của Singapore, Thái Lan, đây là hai thị trường bảo hiểm lớn nhất trong các quốc gia Đông Nam Á. Việc học tập kinh nghiệm của các quốc gia này sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện được hệ thống chính sách nhằm phát triển bảo hiểm của mình. Ngoài ra tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia đối với 4 nhà quản lý thuộc công ty bảo hiểm (trong đó có 2 công ty bảo hiểm nhân thọ và 2 công ty bảo hiểm phi nhân thọ), và 6 chuyên gia đến từ doanh nghiệp – đại diện cho người mua bảo hiểm. Nhận định của các chuyên gia sẽ được sử dụng để bổ sung vào các nhận định, đánh giá về thị trường bảo hiểm của Việt Nam, cũng như các chính sách phát triển bảo hiểm của Việt Nam, và làm căn cứ để đề xuất các giải pháp phù hợp. 5. Tính mới của Luận án * Đóng góp về mặt lý thuyết:
  5. 3 Luận án đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về chính sách phát triển bảo hiểm thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Luận án có sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia để đánh giá thực trạng chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. * Đóng góp về mặt thực tiễn: Luận án phân tích được kinh nghiệm chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Singapore và Thái Lan để làm các bài học cho Việt Nam trong việc điều chỉnh các chính sách phát triển bảo hiểm thương mại. Luận án cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 6. Kết cấu của Luận án Ngoài Mục lục, các danh mục hình, bảng, danh mục từ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu 4 chương, cụ thể sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Chương 2: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển bảo hiểm thương mại. Chương 3: Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của một số quốc gia Đông Nam Á. Chương 4: Thực trạng chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Trong Luận án đã nghiên cứu về các nội dung có liên quan đến đề tài luận án như. 1.1. Nghiên cứu liên quan đến bảo hiểm Nhiều nghiên cứu của của Nguyễn, H. Q. N. (2021), Nguyễn, Q. P. (2021), Huân, N. B. (2014), Hoàng, T. T. H. (2008), Nguyễn, H. H. N. (2022), Trịnh Thị Xuân Dung (2012), Nguyễn Tiến Hùng (2015), Hồ Công Trung (2015), Cummins và Venard (2008) .... đã có đề cập đến nội dung về bảo hiểm. 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách phát triển bảo hiểm thương mại * Phát triển bảo hiểm: Các nghiên cứu đề cập đến việc phát triển bảo hiểm chủ yếu được đề cập thông qua việc phát triển thị trường bảo hiểm (Trần, T. T. (2002)), phát triển các kênh phân phối (Bùi, P. T. (2013), Trần, T. N. Y. (2017)) phát triển các hoạt động như bancassurance của các công ty bảo hiểm thuộc các ngân hàng thương mại nhà nước (Nguyễn, T. T. T. (2014), Trần, T. N. Y. (2017), hoặc triển khai bảo hiểm vi mô tại Việt Nam (Nguyễn, T. V. (2022)). Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu này lại chưa đề xuất được các tiêu chí đánh giá phát triển bảo hiểm một cách cụ thể. * Chính sách bảo hiểm
  6. 4 Nhiều đề xuất về phát triển các sản phẩm bảo hiểm thông qua việc tạo ra các cơ chế đặc thù về chính sách bảo hiểm vi mô (Nguyễn, T. V. (2022), Ngô Anh Phương (2023), Đỗ Thị Diên (2017), Drechsler D. và Jütting, J. (2005), Hoàng Trần Hậu và Hoàng Mạnh Cừ (2011), Nguyễn Thị Thành Vinh (2023), Trần Vũ Hải (2014), Doãn Thanh Tuấn (2016), Phạm Thu Phương (2016), Chang và cộng sự (2013), Wat, S. S., & Tatiyakawee, K. (2000), Chow-Chua, C., & Lim, G. (2000), Pachanee, C. A., & Wibulpolprasert, S. (2006), Li, C. và cộng sự (2011). Các nghiên cứu về chính sách phát triển thị trường bảo hiểm của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng đã có những kết quả nhất định, tuy nhiên, chưa nghiên cứu nào đánh giá các chính sách phát triển thị trường bảo hiểm thương mại trên các tiêu chí nhất định, qua đó có thể đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát triển thị trường BH thương mại một cách bền vững. 1.3. Những điểm đã thống nhất về cơ sở lý thuyết, những khoảng trống nghiên cứu của Luận án 1.3.1. Những kết quả đạt được sự nhất trí qua các công trình nghiên cứu Thứ nhất: Các nghiên cứu trước đã nhấn mạnh vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Thứ hai: Các nghiên cứu nhất trí rằng tác động của chính sách của nhà nước có thể ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm thương mại. Thứ ba: Các nhà khoa học đều thống nhất ở một số nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách là chưa đủ mạnh để phát triển bảo hiểm thương mại. Thứ tư: dưới nhiều góc độ, lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học đã có những kiến giải, dự đoán, định hướng khác nhau về thực thi chính sách bảo hiểm thương mại. Đồng thời, trong các công trình nghiên cứu đề xuất những phương hướng và giải pháp; khuyến nghị cho chính phủ các nước nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới. 1.3.2. Những khoảng trống và hướng nghiên cứu tiếp tục của LA Có thể khẳng định, những kết quả của các nghiên cứu trước đáng thuyết phục nhưng trên thực tế, vẫn còn những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu, đó là: Thứ nhất: Tuy các nghiên cứu trước đó đề cập đến vai trò của chính sách lên phát triển bảo hiểm thương mại trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế song lại chưa đưa ra các tiêu chí để đánh giá việc thực thi chính sách nhằm phát triển bảo hiểm thương mại. Thứ hai: Chưa phân tích sâu các kết quả và hạn chế trong việc thực thi chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của các quốc gia Đông Nam Á như Singapore và Thái Lan cũng như điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống chính sách của các quốc gia. Thứ ba: Chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để đánh giá chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian
  7. 5 qua để từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp phù hợp cho việc hoàn thiện các chính sách này. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI 2.1. Cơ sở lý luận về bảo hiểm thương mại 2.1.1. Khái niệm bảo hiểm thương mại “bảo hiểm là một sự thỏa thuận, trong đó bên bảo hiểm sẽ cam kết sẽ bồi thường những thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm do rủi ro trong phạm vi bảo hiểm gây ra, bù lại người được bảo hiểm sẽ phải nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”. Ở trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, bảo hiểm thương mại được hiểu là một ngành được tạo ra bởi các doanh nghiệp bảo hiểm, kinh doanh các sản phẩm dịch vụ trên thị trường bảo hiểm thông qua các hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật nhằm mục đích sinh lời. 2.1.2. Các chủ thể tham gia bảo hiểm Các chủ thể tham gia bảo hiểm có thể bao gồm tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm và các đại lý, môi giới bảo hiểm. 2.1.3. Sản phẩm bảo hiểm thương mại Có nhiều cách phân loại sản phẩm bảo hiểm thương mại theo các tiêu chí khác nhau. Trong Luận án này, NCS phân loại dựa trên kỹ thuật bảo hiểm và chủ yếu chỉ phân tích dưới góc độ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. 2.1.3.1. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ: Phân loại các loại hình bảo hiểm nhân thọ theo phạm vi, dựa trên phạm vi, bảo hiểm nhân thọ được chia ra làm 5 loại là bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm hỗ hợp và bảo hiểm trả tiền định kỳ. 2.1.3.2. Bảo hiểm phi nhân thọ Theo Văn phòng Ủy ban Bảo hiểm Thái Lan (OIC), bảo hiểm phi nhân thọ là tất cả các loại bảo hiểm khác ngoài Bảo hiểm nhân thọ mà công ty bảo hiểm đồng ý bồi thường cho người được bảo hiểm số tiền có thể tính được mất mát hoặc thiệt hại do bất kỳ nguy hiểm nào. Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ thường rất đa dạng, nhiều chủng loại, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, như tài sản, trách nhiệm dân sự. 2.2. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển bảo hiểm thương mại 2.2.1. Khái niệm liên quan * Phát triển bảo hiểm thương mại Phương pháp nghiên cứu này được dựa trên các chỉ số cho thấy quy mô của thị trường bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế ở các nước thuộc Liên minh Châu Âu. nhất các chỉ số được sử dụng trong các nghiên cứu gần đây và thống kê quốc tế (Akinlo & Apanisile, 2014; Cristea và cộng sự, 2014; Bảo hiểm Châu Âu, 2016;
  8. 6 Ndalu, 2016; Olayungbo & Akinlo, 2016; Zouhaier, 2014) trong lĩnh vực bảo hiểm như sau: tổng phí bảo hiểm trên GDP, được gọi là mức độ thâm nhập bảo hiểm, và tổng phí bảo hiểm trên mỗi được bảo hiểm, được gọi là mật độ bảo hiểm. * Chính sách kinh tế: chính sách kinh tế được cho là những giải pháp hoặc công cụ mà nhà nước hoặc các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể của nền kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân. * Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại Trên cơ sở khái niệm về chính sách kinh tế, có thể thấy chính sách phát triển bảo hiểm thương mại chính là một hệ thống các giải pháp và công cụ của quản lý nhà nước nhằm phát triển bảo hiểm thương mại. 2.2.2. Vai trò của chính sách phát triển bảo hiểm thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Chính sách phát triển bảo hiểm thương mại có nhiều vai trò khác nhau như: (i) Vai trò trong công cuộc phát triển nền kinh tế quốc gia; (ii) Vai trò trong bảo hộ lao động xuyên quốc gia; (iii) Vai trò trong xuất nhập khẩu, tăng trưởng GNP; (iv) Vai trò trong duy trì và bảo vệ nền kinh tế trong khủng hoảng; (v) Vai trò trong hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.3. Cơ quan điều hành, giám sát kinh doanh bảo hiểm thương mại Tại nhiều nước trên thế giới, các cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm thường có chức năng về quản lý tài chính nói chung. Bởi, bảo hiểm cũng là một kênh huy động vốn lớn trong xã hội, do vậy việc quản lý và giám sát các dòng tiền được phân phối và luân chuyển vào, ra giữa các chủ thể trong nền kinh tế là rất quan trọng. 2.2.4. Hệ thống chính sách phát triển bảo hiểm thương mại Để quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm, các chính phủ cần ban hành một hệ thống các luật, quy định và hướng dẫn việc thực thi kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, bao gồm cả các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách của Nhà nước từ việc cấp phép hoạt động, hướng dẫn thi hành, cũng như giám sát hoạt động sẽ giúp thị trường bảo hiểm phát triển theo đúng mục tiêu chính sách. Các hoạt động hỗ trợ như đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý cũng như hợp tác quốc tế về bảo hiểm sẽ giúp bảo hiểm thương mại của các nước hội nhập vào thị trường bảo hiểm nói riêng và thị trường tài chính nói chung một cách hiệu quả. Các chính sách về phát triển bảo hiểm thường theo hướng: * Quy định về cấp phép hoạt động: * Các chính sách hướng dẫn thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm * Chính sách giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm của DN * Chính sách đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý * Chính sách tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hiểm
  9. 7 2.3. Tiêu chí đo lường kết quả chính sách phát triển bảo hiểm thương mại 2.3.1. Tiêu chí phát triển bảo hiểm thương mại Phát triển thị trường bảo hiểm được đo lường bởi các tiêu chí như + Mức độ thâm nhập thị trường: Chỉ số này được đo lường theo công thức bằng tổng phí bảo hiểm trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tính theo chỉ số %. + Mật độ bảo hiểm: được đo lường bởi phí bảo hiểm vi mô trên đầu người (tính bằng USD) (IAIS, 2017) Ngoài ra còn có thể đo lường bởi các chỉ tiêu như giá trị bảo hiểm bình quân, tỷ lệ thâm nhập vi bảo hiểm, tỷ lệ pham vi bảo hiểm, hoặc các chỉ tiêu như : doanh thu bảo hiểm, số tiền thu vào ngân sách nhà nước, số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thị trường, số lượng sản phẩm bảo hiểm được cung cấp. 2.3.2. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại * Đánh giá chính sách bảo hiểm thương mại * Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại Để đánh giá và so sánh các chính sách, cần có các tiêu chí rõ ràng, minh bạch để xác định và đo lường các chính sách theo một cách tiếp cận phù hợp (Netherlands Ministry of Foreign Affairs, 2009), trên cơ sở đó có thể nhận định các kết quả và hạn chế trong việc thực thi các chính sách trên thực tế. Có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề xuất các tiêu chí đánh giá chính sách trên nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Song, các tiêu chí này vẫn phù hợp khi đánh giá trong lĩnh vực bảo hiểm. Bên cạnh đó, một số tiêu chí khác được NCS đề xuất nhằm phù hợp với tính chất đặc thù của lĩnh vực bảo hiểm. Các tiêu chí đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại được đề xuất bao gồm: tính hiệu lực, tính an toàn, tính bền vững, tính hiệu quả, tính đa dạng, tính phù hợp và tính hội nhập. An toàn Hiệu lực Bền vững Chính sách Phát triển Hiệu quả BHTM Đa dạng Phù hợp Hội nhập Hình 2.1. Khung đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại Nguồn: tác giả đề xuất
  10. 8 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển bảo hiểm thương mại 2.4.1. Các yếu tố từ phía Nhà nước Hệ thống pháp luật về lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh vực bảo hiểm nói riêng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chung của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ, sự đồng bộ của hệ thống pháp luật với hệ thống luật pháp quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm. 2.4.2. Các yếu tố từ phía thị trường bảo hiểm thương mại Bao gồm các yếu tố từ phía doanh nghiệp bảo hiểm, chất lượng nguồn nhân lực trong ngành bảo hiểm, sự phát triển của công nghệ trên thị trường, đặc biệt là công nghệ AI. Chương 3 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á 3.1 Thực trạng chính sách phát triển bảo hiểm thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Thái Lan 3.1.1. Thị trường bảo hiểm thương mại tại Thái Lan 3.1.1.1. Giới thiệu về Thái Lan Thái Lan là một trong những quốc gia hàng đầu tại Đông Nam Á, trong khu vực biển Andaman và vịnh Thái Lan, có biên giới tiếp giáp với Myanmar, Campuchia, Lào và Malaysia. Thái Lan là một nền kinh tế hỗn hợp với chế độ quân chủ lập hiến, trong đó vừa cho phép quyền tự do tư nhân kết hợp với kinh tế kế hoạch tập trung và sự điều tiết của chính phủ, đứng đầu là thủ tướng (Globaledge.msu.edu, 2020). Thái Lan cũng là một trong những nền kinh tế đang phát triển mạnh hàng đầu ở Đông Nam Á, với thế mạnh về xuất khẩu gạo, trái cây và du lịch. 3.1.1.2. Doanh nghiệp bảo hiểm Thái Lan Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm Thái Lan không biến động nhiều qua các năm, tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ lại có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do có một số doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động không có hiệu quả nên đã bị tạm ngừng hoạt động hoặc rút giấy phép hoạt động. Điều này là cần thiết để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống bảo hiểm ở Thái Lan. Tại Thái Lan có 22 công ty bảo hiểm nhân thọ, 58 công ty bảo hiểm phi nhân thọ. hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Thái Lan chủ yếu phụ thuộc vào kênh phân phối của các đại lý bảo hiểm, dẫn tới chi phí cao hơn so với các nước khác và làm cho tỷ lệ ROE của các doanh nghiệp thấp hơn. Phần lớn các doanh nghiệp trong ngành là các doanh nghiệp nhỏ (chiếm 50%) hoạt động kém hiệu quả, đòi hỏi chính phủ cần có sự quan tâm và hỗ trợ cần thiết. Có thể thấy, hầu hết các công ty bảo hiểm nhỏ thường có tỷ lệ ROE thấp, thậm chí nhiều
  11. 9 doanh nghiệp còn bị âm, cho thấy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này khá kém. 3.1.1.3. Sản phẩm bảo hiểm Trong Kế hoạch Phát triển bảo hiểm Vol. 4 của Thái Lan, OIC hiện đang tập trung vào phát triển đa dạng các sản phẩm + Đối với Bảo hiểm Nhân thọ: Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sẽ nhấn mạnh hơn vào các sản phẩm bảo vệ như sản phẩm bảo hiểm sức khỏe, sản phẩm dành cho người cao tuổi và người đã nghỉ hưu nhằm cung cấp sự bảo vệ đa dạng và đáp ứng các nhu cầu cụ thể. + Đối với bảo hiểm Phi Nhân thọ: Có nhiều sản phẩm đa dạng hơn ngoài sản phẩm bảo hiểm xe máy. Các sản phẩm mới được phát triển để đáp ứng hành vi và nhu cầu cụ thể của người tiêu dùng. Đồng thời, nỗ lực phát triển các sản phẩm bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của người có thu nhập thấp và nông dân. 3.1.2. Cơ quan điều hành, giám sát kinh doanh bảo hiểm thương mại Văn phòng Ủy ban Bảo hiểm (OIC) là cơ quan quản lý bảo hiểm của Thái Lan hoạt động dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ Tài chính Thái Lan. Văn phòng OIC chịu trách nhiệm giám sát và thúc đẩy sự phát triển hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm, giám sát chất lượng, kiến thức và hoạt động của các đại lý và môi giới của cả thể nhân và pháp lý, người được bảo hiểm và người có quyền và lợi ích theo hợp đồng bảo hiểm để nhận được đầy đủ các quyền lợi kịp thời từ hệ thống bảo hiểm (OIC.or.th). OIC có bốn định hướng chiến lược chính, được nêu trong trang web của tổ chức này, mục tiêu chiến lược là (i) Xây dựng lòng tin của công chúng và khả năng tiếp cận hệ thống bảo hiểm; (ii) Xây dựng sự ổn định và khả năng cạnh tranh; (iii) Phát triển bảo vệ các quyền lợi liên quan đến bảo hiểm cho công chúng; (iv) Phát triển cơ sở hạ tầng bảo hiểm. 3.1.3. Hệ thống chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Thái Lan Hệ thống luật và hệ thống tòa án của Thái Lan rất phát triển. Hệ thống luật là sự pha trộn giữa luật dân sự và thương mại của Thái Lan, chịu ảnh hưởng của luật và quy chế chung của Anh và cả bởi thực tiễn ở lục địa Châu Âu, đặc biệt là Đức và Thụy Sĩ. Bộ luật Dân sự và Thương mại là bộ luật quan trọng nhất trong bốn bộ luật liên quan đến các vấn đề dân sự. Trong lĩnh vực bảo hiểm, các đạo luật về bảo hiểm nhân thọ LIA và bảo hiểm phi nhân thọ NLIA đóng vai trò quan trọng nhất, và do Ủy ban bảo hiểm và OIC chịu trách nhiệm giám sát bảo hiểm. * Quy định về cấp phép hoạt động: Theo Đạo luật Bảo hiểm, các tổ chức kinh doanh có thể xin giấy phép bảo hiểm chỉ giới hạn trong phạm vi công ty TNHH đại chúng được thành lập tại Thái Lan (Thai PLC) hoặc chi nhánh của công ty bảo hiểm nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được phép lựa chọn hoặc là kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ hoặc là bảo hiểm phi nhân thọ. Từ năm 1995, chính phủ
  12. 10 Thái Lan không thực hiện cấp giấy phép bảo hiểm mới. Tuy nhiên, hiện chính phủ đang xem xét các yêu cầu cấp phép với mục tiêu cho phép tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài và mở cửa thị trường cho những người mới tham gia tiềm năng cũng như nhất quán hơn với ICP. Tất cả những doanh nghiệp được cấp phép và phạm vi của giấy phép được công bố trên trang web của OIC. * Chính sách hướng dẫn thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm Văn phòng Ủy ban Bảo hiểm (OIC) đã thực hiện nhiều sửa đổi, bổ sung để hiện đại hóa và cải thiện luật bảo hiểm của Thái Lan. Các sửa đổi cũng cho phép OIC ban hành một số quy định mới quản lý hoạt động của các tổ chức trung gian bảo hiểm, bao gồm việc thu và nộp phí bảo hiểm, tiết lộ thông tin về hoạt động của các đại lý và nhà môi giới, v.v. * Chính sách giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm của DN Hoạt động giám sát kinh doanh bảo hiểm đã được chính phủ Thái Lan quan tâm trong nhiều năm qua. Thị trường bảo hiểm của Thái Lan đang phát triển. Nhiều sản phẩm và kênh phân phối đa dạng, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, làm cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trở nên phức tạp hơn. Các hoạt động giám sát tập trung vào các nội dung như: (i) phát triển và duy trì một đội ngũ giám sát hiệu quả; (ii) tăng cường các yêu cầu về quản trị và kiểm soát nội bộ; (iii) ban hành khung giám sát dựa trên rủi ro và các yêu cầu về an toàn vốn, định giá, dự phòng, đầu tư và tái bảo hiểm; (iv) tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác xuyên biên giới để tiến tới tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm. Cơ quan giám sát sẽ đánh giá về vốn, khả năng sinh lời và tính thanh khoản của tổ chức để xếp hạng rủi ro tổng hợp của tổ chức. OIC yêu cầu các công ty bảo hiểm nộp báo cáo tài chính, báo cáo tài chính và hoạt động hàng năm và hàng quý. Tất cả các báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán và báo cáo hàng quý phải được kiểm toán viên soát xét. * Chính sách đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Nhiều khóa đào tạo về bảo hiểm và công nghệ bảo hiểm được OIC tổ chức nhằm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm cập nhật kiến thức, các chính sách bảo hiểm mới, chủ động xây dựng các kế hoạch kinh doanh nhằm đáp ứng các rủi ro mới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng sẵn sàng cho hệ thống bảo hiểm để bảo vệ lợi ích của người dân. Một chuyên gia tính toán muốn hoạt động thì phải được cấp phép để xác nhận việc định giá trách nhiệm pháp lý hàng năm trên cả cơ sở tổng và ròng tái bảo hiểm. Giấy phép do OIC cấp và phải được gia hạn hai năm một lần. Phần lớn các nhà tính toán hành nghề ở Thái Lan đều tham gia đào tạo tại các hiệp hội tính toán được quốc tế công nhận như Hiệp hội các nhà tính toán ở Hoa Kỳ, Viện các nhà tính toán Úc (IAA), Viện và Khoa Nhà tính toán (IFoA) (Anh) hoặc CAS tại Hoa Kỳ Chính phủ Thái Lan cũng thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện hoặc đối thoại giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý để phổ biến tình hình môi trường
  13. 11 và bối cảnh kinh tế xã hội trên thực tế. Nhiều kiến thức khác nhau đã được chia sẻ và phổ biến tới các đối tượng khác nhau, từ cả khu vực công và tư nhân, cả trong lĩnh vực tà chính và lĩnh vực bảo hiểm. Trên website cũng ban hành các hướng dẫn về luật pháp, các kiến thức cần biết liên quan đến đại lý bảo hiểm nhân thọ, các quy tắc ứng xử và thực hành dịch vụ với trường hợp điển hình và đưa ra các lời khuyên về bảo hiểm nhân thọ cũng như phi nhân thọ. * Chính sách tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hiểm Hợp tác xuyên biên giới và Điều phối về Quản lý Khủng hoảng: OIC không chính thức tham gia vào tất cả các trường cao đẳng giám sát hoặc các nhóm quản lý khủng hoảng, các nhóm có trụ sở tại nước ngoài hoạt động ở Thái Lan, một phần do tỷ lệ kinh doanh trong nước của một số nhóm tương đối nhỏ so với nhóm trên một cơ sở hợp nhất. 3.1.4. Đánh giá các chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Thái Lan 3.1.4.1. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại tại Thái Lan + Tính hiệu lực: Hệ thống chính sách của Thái Lan đã bao quát được nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống kinh tế, từ các lĩnh vực như bảo hiểm xây dựng, đầu tư, sản phẩm nông nghiệp, bảo hiểm Covid. + Tính an toàn: Hệ thống luật pháp của Thái Lan quy định về tỷ lệ duy trì khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm với chỉ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu (bằng tổng vốn khả dụng/rủi ro vốn theo quy định) là 140% từ năm 2013. Về cơ bản, bảo hiểm Thái Lan vẫn đạt được mức an toàn vốn. + Tính bền vững: Thái Lan đã quy định thống nhất về cơ sở dữ liệu chung, tạo môi trường cạnh tranh về bảo hiểm cho các doanh nghiệp. Điều này đảm bảo cho thị trường bảo hiểm Thái Lan được phát triển một cách lành mạnh, giữ vững tính ổn định trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. + Tính hiệu quả Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, phí bảo hiểm trực tiếp của các công ty Thái Lan tăng 4,03% vào quý 4 năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020, đạt 262 tỷ Baht, trong đó hầu hết các loại hình bảo hiểm đều tăng, trong đó tăng nhiều nhất là bảo hiểm du lịch (tăng 31,4%), bảo hiểm vận tải hàng hóa (tăng 21,54%), bảo hiểm sức khỏe (tăng 19,87%). Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, phí bảo hiểm nhân thọ tăng bình quân 2,34% trong năm 2021 so với năm 2020, trong đó phí bảo hiểm đơn có mức độ tăng nhiều nhất là 30,15%. + Tính đa dạng: Tại Thái Lan, bảo hiểm xe máy theo trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba là bắt buộc đối với các chủ xe (Tilleke & Gibbins, 2013). Ngoài các sản phẩm bắt
  14. 12 buộc, gần đây OIC cũng đã khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng và phát triển các sản phẩm bảo hiểm cần thiết như bảo hiểm vi mô, bảo hiểm nông nghiệp để tài trợ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, vốn là một lợi thế của quốc gia này. Tuy nhiên, Thái Lan vẫn chưa thực sự cởi mở trong việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này do đây cũng là một lĩnh vực khá nhạy cảm. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến sự đa dạng trong việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm trên thị trường Thái Lan. + Tính phù hợp: Hệ thống luật pháp của Thái Lan đã có nhiều sự thay đổi để phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, các kế hoạch phát triển thị trường bảo hiểm đã được OIC điều chỉnh và đưa ra nhằm tương thích với các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của Thái Lan trong từng thời kỳ và sự thay đổi của thị trường bảo hiểm. + Tính hội nhập: Các quy định trong hệ thống Luật của Thái Lan cho thấy, ngay từ các điều kiện về thành lập, thực thi và giám sát các hoạt động của các công ty bảo hiểm, Thái Lan đã tiếp cận với hệ thống luật quốc tế để đảm bảo môi trường kinh doanh bảo hiểm đạt được những kết quả tốt. 3. 1.4.2. Kết quả đạt được Tỷ trọng đóng góp của các công ty bảo hiểm vào GDP của Thái Lan thường ở mức khoảng 5,3%. Sự tăng trưởng liên tục và ổn định của lĩnh vực bảo hiểm phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục và sự ổn định của khu vực cũng như khu vực tài chính rộng lớn hơn. 3.1.4.3. Hạn chế Bản thân nước này cũng phải đối mặt với nhiều bất ổn trong nội tại, như sự thay đổi về cơ cấu dân số dẫn đến Thái Lan đang bước vào thời kỳ xã hội già hóa, sự thay đổi môi trường và tốc độ thay đổi và tiến bộ của công nghệ đã gây áp lực phải thay đổi đối với các giao dịch thông thường. 3.1.4.4. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế Dân số già của Thái Lan tác động đến việc bán các sản phẩm truyền thống. Môi trường lãi suất thấp cũng đặt ra những thách thức đối với bảo hiểm nhân thọ. Các công ty bảo hiểm nhân thọ không thể khớp hoàn toàn thời hạn của tài sản và nợ phải trả, điều này gây ra sự biến động trong thu nhập, nhu cầu vốn và nguồn vốn. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Thái Lan cạnh tranh gay gắt và có một số lượng lớn các công ty bảo hiểm cho quy mô thị trường. OIC hiện chưa thực sự được độc lập trong các nhiệm vụ giám sát, mà vẫn phụ thuộc vào Bộ Tài chính trong một số trường hợp. Bởi vậy, hiệu quả quản lý giám sát của OIC chưa thực sự cao.
  15. 13 3.2 Thực trạng chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Singapore 3.2.1. Thị trường bảo hiểm thương mại tại Singapore 3.2.1.1. Giới thiệu về Singapore Singapore là một nền kinh tế có thu nhập cao với tổng thu nhập bình quân đầu người năm 2021 đạt 72.794 USD (WB, 2022). Đất nước này được đánh giá là một trong những nơi có môi trường pháp lý thân thiện với kinh doanh nhất thế giới (WB, 2018). 3.2.1.2. Giới thiệu thị trường bảo hiểm của Singapore Quy mô thị trường bảo hiểm chung của Singapore là 3,36 tỷ USD vào năm 2021. Thị trường dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) hơn 4% từ năm 2020 đến năm 2025 (Globaldata.com, 2022). Các ngành kinh doanh chính trong thị trường bảo hiểm nói chung Singapore là bảo hiểm xe máy, bảo hiểm PA&H phi nhân thọ, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm MAT, bảo hiểm tài chính và bảo hiểm khác. Bảo hiểm xe máy có thị phần cao nhất, tiếp theo là bảo hiểm PA&H phi nhân thọ và bảo hiểm tài sản. 3.2.1.3. Thị trường bảo hiểm thương mại của Singapore * Doanh nghiệp bảo hiểm Các công ty bảo hiểm có thể được cấp phép với tư cách là công ty bảo hiểm trực tiếp, các công ty tái bảo hiểm hoặc các công ty bảo hiểm bắt buộc, và mỗi loại hình công ty bảo hiểm phải tuân thủ các yêu cầu quy định khác nhau. Theo thống kê của Ngân hàng Trung ương Singapore (MAS), hiện nay có 26 công ty bảo hiểm nhân thọ hoạt động tại Singapore, trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có 62 công ty bảo hiểm và chi nhánh đang hoạt động. Doanh nghiệp bảo hiểm tại Singapore có thể được hình thành dưới các hình thức sau: công ty TNHH và công ty cổ phần. * Sản phẩm bảo hiểm Có thể thấy, tại Singapore bảo hiểm động cơ mô tô, bảo hiểm tài sản và sức khỏe là những loại hình bảo hiểm có tỷ trọng lớn trong tổng số các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ. Chỉ riêng ba loại hình sản phẩm này đã chiếm hơn 50% trong tổng doanh số kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm chung tại Singapore năm 2022. Bảo hiểm nhân thọ của Singapore đã công bố về doanh số của năm 2022 có sự tăng mạnh, lên tới 23% so với giá trị đạt được vào năm 2021. Các sản phẩm phí bảo hiểm đơn có sự gia tăng đáng kể (tăng 41%) so với cùng kỳ năm 2021, nguyên nhân chủ yếu là do sự phục hồi của nền kinh tế Singapore trong năm 2022. 3.2.2. Cơ quan điều hành, giám sát kinh doanh bảo hiểm thương mại Cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm tại Singapore là Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS). Các hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm được
  16. 14 điều chỉnh bởi MAS, được thành lập bởi Đạo luật Cơ quan Tiền tệ Singapore (Cap 186). Bên cạnh MAS, các cơ quan có thẩm quyền khác đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các công ty bảo hiểm và trung gian bảo hiểm bao gồm Hiệp hội Bảo hiểm Nhân thọ (LIA) và Tổng Hiệp hội Bảo hiểm (GIA) – là hiệp hội của các công ty bảo hiểm thương mại nói chung. 3.2.3. Hệ thống chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Singapore * Phạm vi chính sách: Hệ thống pháp luật của Singapore khá hiệu quả và minh bạch, lành mạnh, tạo ra động lực chính thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của đất nước này. Singapore được đánh giá là một trung tâm hàng đầu về bảo hiểm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, với hệ thống luật thành văn và thông luật (dựa trên các án lệ và các tập quán quốc tế). Luật chính điều chỉnh việc cung cấp bảo hiểm và kinh doanh tái bảo hiểm là Đạo luật Bảo hiểm (Cap. 142), được ban hành lần đầu vào năm 1966 và cho đến nay đã qua 39 lần sửa đổi, bổ sung. Ngoài Đạo luật Bảo hiểm, còn có các luật khác quy định các loại hình bảo hiểm cụ thể như bảo hiểm hàng hải (Cap 387) và bảo hiểm xe cơ giới (Cap 189), bồi thường thương tật khi làm việc (Cap 387). Tại Singapore, luật mẹ thường được bổ sung bằng các luật con, cũng như các chỉ thị, hướng dẫn, quy tắc được ban hành bởi cơ quan quản lý có liên quan, tất cả đều có hiệu lực pháp lý, ngoại trừ các hướng dẫn và các quy tắc (Hui Choon Yuen và Khoo Yuh Huey, 2020). * Quy định về cấp phép hoạt động: Tất cả các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm đều được điều chỉnh bởi Đạo luật Bảo hiểm và các quy định của MAS, nhưng theo những cách khác nhau và thông qua các cơ chế khác nhau tùy thuộc vào loại hình bảo hiểm. Mỗi pháp nhân muốn thực hiện kinh doanh bảo hiểm sẽ đều phải xin giấy phép theo Mục 8 của Đạo luật Bảo hiểm. Các pháp nhân này phải đáp ứng các yêu cầu về tài chính và khả năng thanh toán quỹ như quy định trong Đạo luật Bảo hiểm, đồng thời nộp đơn lên MAS để được cấp giấy phép (Govintharasah R. et al., 2022). * Chính sách hướng dẫn thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm Phạt vi phạm hợp đồng bảo hiểm Trong trường hợp các doanh nghiệp bảo hiểm không tuân thủ các yêu cầu về pháp lý thì theo quy định của Đạo luật Bảo hiểm có thể bị phạt tiền, phạt tù hoặc cả hai tùy thuộc vào nghĩa vụ cụ thể và mức độ vi phạm. Bồi thường tổn thất Khi xảy ra tổn thất và có thiệt hại kéo dài, người được bảo hiểm phải thông báo về việc yêu cầu bồi thường và nộp đơn yêu cầu bồi thường cho người bảo hiểm trong khung thời gian quy định. Đánh thuế phí bảo hiểm:
  17. 15 Singapore áp dụng cơ sở đánh thuế theo lãnh thổ. Do đó, chỉ thu nhập tích lũy trong hoặc có được từ Singapore hoặc thu nhập nhận được (hoặc được coi là nhận được) từ bên ngoài Singapore sẽ phải chịu thuế thu nhập Singapore. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành là 17%. Phí bảo hiểm chỉ được khấu trừ thuế nếu chúng là chi phí phát sinh toàn bộ và duy nhất để tạo ra thu nhập (Phần 26 và 43C của Đạo luật Thuế thu nhập (Cap 134). Tuy nhiên, một số công ty bảo hiểm có thể phải chịu các mức thuế suất khác nhau tùy thuộc vào loại hình kinh doanh bảo hiểm được thực hiện. Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm: Trong trường hợp người được bảo hiểm không hài lòng với công ty bảo hiểm của họ có thể gửi đơn khiếu nại lên Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Ngành Tài chính (FIDReC). FIDReC là một tổ chức độc lập cung cấp các dịch vụ giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và công ty bảo hiểm một cách thân thiện và không tốn kém. Quy trình FIDReC không áp dụng cho các công ty bảo hiểm liên quan đến các tranh chấp với các công ty tái bảo hiểm. * Chính sách giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp Hệ thống luật pháp về bảo hiểm của Singapore cung cấp một khuôn khổ pháp lý cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm (kể cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc, trung gian bảo hiểm và tái bảo hiểm). Khi thị trường bảo hiểm của Singapore phát triển, MAS đã tìm cách đảm bảo chế độ quản lý và giám sát của mình vẫn phù hợp với các hoạt động của thị trường bảo hiểm, tương ứng với các quy định và thông lệ trên thị trường quốc tế, đồng thời vẫn bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể trên thị trường. * Chính sách đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Người lao động tại các công ty bảo hiểm luôn được quan tâm đào tạo các kỹ năng để phát triển nghề nghiệp. Năm 2019, 23 công ty bảo hiểm đã đồng thời ký các thỏa thuận với Hiệp hội Nhân viên Bảo hiểm Singapore (SIEU) để thực hiện các sáng kiến đào tạo cho nhân viên của họ. Các sản phẩm bảo hiểm và công nghệ hỗ trợ bảo hiểm đang thay đổi nhanh chóng, bởi vậy, lực lượng lao động trong bảo hiểm cũng cần phải được đào tạo lại kỹ năng và tư duy phục vụ trong ngành (Joanna Seow, 2019). * Chính sách tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hiểm Singapore và Thái Lan đã thực hiện việc hợp tác trong lĩnh vực giám sát bảo hiểm. Thông qua hợp tác giữa Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) và Văn phòng Ủy ban Bảo hiểm (OIC) của Thái Lan, việc trao đổi thông tin và hỗ trợ giám sát bảo hiểm giữa hai cơ quan chức năng đã được đẩy mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển chung trong lĩnh vực bảo hiểm ở cả hai quốc gia (MAS, 2019). Bên cạnh đó, nhiều sáng kiến đã được thực thi nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính nỏi chung và bảo hiểm nói riêng.
  18. 16 3.2.4. Đánh giá các chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Singapore 3.2.4.1. Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển bảo hiểm thương mại tại Singapore + Tính hiệu lực Hàng năm số lượng hợp đồng mới có hiệu lực tăng lên, trong năm 2020, số lượng hợp đồng mới tăng hơn khoảng gần 200 nghìn hợp đồng, dẫn tới làm gia tăng số tiền bảo hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Điều này cho thấy các chính sách điều hành trong lĩnh vực bảo hiểm đang có hiệu lực, tạo điều kiện và có tác động kích thích sự phát triển của thị trường kinh doanh bảo hiểm. + Tính an toàn: Để thực hiện giám sát có hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp trên thị trường, năm 2020, MAS và Nhóm Chính phủ Kỹ thuật số và Quốc gia thông minh (SNDGG) đã cho ra đời Sàn giao dịch Dữ liệu Tài chính Singapore (SGFinDex), cơ sở hạ tầng kỹ thuật số công cộng đầu tiên trên thế giới sử dụng danh tính số của quốc gia và hệ thống chấp nhận trực tuyến được quản lý tập trung. + Tính bền vững: Đại dịch Covid -19 nổ ra cho thấy nhiều sự bất ổn trong nền kinh tế của các quốc gia, bao gồm cả Singapore. Hệ thống luật pháp của Singapore luôn tuân thủ hệ thống luật của Anh, do vậy đảm bảo được tính bền vững, ổn định cho các doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường Singapore và trên thị trường toàn cầu. + Tính hiệu quả MAS luôn khuyến khích thử nghiệm và đổi mới, do vậy, họ phát triển một khung quy định, trong đó cho phép các công ty thử nghiệm với các sản phẩm và dịch vụ fintech sáng tạo. Các hoạt động quản lý của MAS dẫn tới các chỉ tiêu về tổng tài sản cũng như chi tiêu bình quân đầu người chi cho bảo hiểm của Singapore đã tăng rõ rệt qua các năm. + Tính phù hợp: Tại Singapore tập trung khá nhiều các doanh nghiệp tài chính lớn trên thế giới. Chính vì vậy, việc quốc gia hóa các nguồn luật quốc tế cũng nhằm tạo ra khung pháp lý phù hợp, thuận tiện cho hoạt động của các tổ chức trên thế giới trên thị trường Singapore. + Tính hội nhập: Singapore không có quy định hạn chế về mức độ sở hữu của nước ngoài trong các công ty bảo hiểm, điều này cho thấy độ mở trong chính sách về bảo hiểm của Singapore. 3.2.4.2. Đánh giá chính sách bảo hiểm của Singapore * Kết quả đạt được Bảo hiểm nhân thọ vẫn phục hồi và đạt được thành tích đáng khen ngợi trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu gia tăng bất ổn do căng thẳng địa chính trị,
  19. 17 làn sóng COVID-19 tái diễn và áp lực lạm phát gia tăng. Nhu cầu mạnh mẽ của người tiêu dùng đối với bảo hiểm nhân thọ… từ sự tăng trưởng bền vững của các sản phẩm phí bảo hiểm đơn vốn vẫn được người Singapore ưa chuộng. Đối với hầu hết các công ty tái bảo hiểm, họ có xu hướng đặt trụ sở tại Singapore do các điều kiện thuế thuận lợi. Singapore là nơi đặt trụ sở của nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn và các công ty nằm trong danh sách Fortune 500 toàn cầu. * Hạn chế tồn tại Thị trường bảo hiểm của Singapore còn nhỏ, các công ty bảo hiểm đăng ký tại Singapore đến từ nhiều quốc gia và cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài (Christopher Chen, 2022). Chính vì vậy, điều này đã tạo ra những thách thức không nhỏ đối với cơ quan quản lý tài chính duy nhất là Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) trong việc triển khai và thực thi các tiêu chuẩn quản trị. 3.3. So sánh chính sách phát triển bảo hiểm thương mại của Singapore, Thái Lan 3.3.1. Điểm tương đồng Hệ thống chính sách của cả hai quốc gia đều hội nhập với hệ thống luật pháp của ASEAN và thế giới. Cả hai quốc gia đều có mức độ thâm nhập bảo hiểm khá lớn và là các thị trường bảo hiểm khá sôi động. Nhiều giải pháp của chính phủ đã giúp cho thị trường bảo hiểm phát triển một cách an toàn và hiệu quả. Hầu hết các nước đều có các cơ quan quản lý và giám sát cũng như thực hiện kế hoạch phát triển của ngành, có chú ý đến các vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm như các vấn đề về bảo mật thông tin, công nghệ số ứng dụng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. 3.3.2. Điểm khác biệt * Về xuất phát điểm: Hệ thống luật pháp của Singapore lấy hệ thống luật của Anh làm gốc, còn hệ thống luật của Thái Lan có sự điều chỉnh trong luật quốc gia Cơ quan quản lý của Singapore sẽ do Ngân hàng Trung ương quản lý còn tại Thái Lan là do Bộ Tài chính kiểm soát. * Độ mở trong chính sách bảo hiểm của các quốc gia Singapore không có hạn chế đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài nhưng đối với Thái Lan thì không có độ mở với các doanh nghiệp bảo hiểm mới. * Áp dụng công nghệ mới Tại Singapore, một sàn giao dịch dữ liệu tài chính của Singapore (SGFindex) đã ra đời nhằm cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cho kinh doanh bảo hiểm. Chính phủ Thái Lan cũng đã có quy định về việc cung cấp bảo hiểm kỹ thuật số nhưng chưa thực sự tạo ra sự đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp bảo hiểm. * Biện pháp hỗ trợ
  20. 18 Tại Thái Lan trong bối cảnh Covid, OIC đã ban hành nhiều biện pháp cứu trợ khác nhau cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm để ứng phó với COVID-19. Tuy nhiên, tại Singapore các chính sách hỗ trợ chưa thực sự rô ràng. * Quy định khác + Quy định về luật bảo vệ dữ liệu Thái Lan đã ban hành Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân, BE 2562 (PDPA) vào năm 2019, trong đó thiết lập các tiêu chuẩn về thu thập, sử dụng và tiết lộ dữ liệu cá nhân ở Thái Lan. Quy định của Singapore chặt chẽ hơn, cho phép tạo ra một hành lang pháp lý xử lý việc vi phạm các tiêu chuẩn về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Chương 4 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 4.1. Thị trường bảo hiểm Việt Nam 4.1.1. Các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có khoảng 70 doanh nghiệp đang hoạt động tích cực, ngoài 1 doanh nghiệp là công ty CP Môi giới bảo hiểm Đại Việt đang hoàn tất thủ tục giải thể. Trong số đó có 32 doanh nghiệp phi nhân thọ (chiếm 45,7% tổng số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam), 18 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (chiếm 25,7%), tái bảo hiểm (2,85%), môi giới bảo hiểm (25,7%). 4.1.2. Các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp tại Việt Nam * Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Trong số các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, sản phẩm bảo hiểm liên kết chung chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 52,9% tổng doanh thu theo sản phẩm), nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp chiếm tỷ trọng thứ hai (đạt 19,8%). Về số lượng hợp đồng, trong năm 2021, sản phẩm bảo hiểm chính khai thác mới đã tăng 14,25% so với năm 2020, đạt hơn 3,5 triệu hợp đồng. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (chiếm 56,67% (trong đó sản phẩm bảo hiểm liên kết chung là 43,3%, sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị là 13,4%). * Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ Đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, đối với nghiệp vụ bảo hiểm gốc, bảo hiểm sức khỏe chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng doanh thu toàn thị trường và tăng trưởng 2,7% so với cùng kỳ năm 2020. Bảo hiểm sức khỏe luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm, xét trên toàn thị trường phi nhân thọ. Năm 2022, bảo hiểm sức khỏe cũng chiếm hơn 34,6% tổng doanh thu bảo hiểm. 4.1.3. Doanh thu bảo hiểm tại Việt Nam Doanh thu bảo hiểm có sự tăng trưởng đều qua các năm, mặc dù có nhiều biến động trong năm 2020 so với năm trước đó, nhưng đến năm 2022, toàn ngành đều có sự phục hồi và tăng trưởng. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm nhân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2