Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự
lượt xem 5
download
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự" nhằm khảo sát, đánh giá các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam; Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện lý luận, quy định pháp luật và góp phần thực hiện hiệu quả CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự
- VIỆN HẦN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Trần Ngọc Minh CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9380104 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - Năm 2023
- Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Võ Khánh Vinh. 2. PGS. TS. Nguyễn Đức Hạnh. Phản biện 1: PGS.TS.Phạm Văn Lợi Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đình Nhã Phản biện 3: PGS.TS. Trương Quang Vinh Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội, số 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội vào hồi………..….giờ…………phút, ngày………tháng …..năm..................................... vào hồi………..….giờ…………phút, ngày………tháng……….năm……………….. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện quốc gia Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Tạp chí, kỷ yếu TT Tên công trình Năm Tên tạp chí công bố 1 Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật 2019 Tạp chí khoa học có phản biện của Liên bang TTHS Việt Nam. Nga, những vấn đề cấp thiết của khoa học hiện đại, số 3/2019, ISSN 1680 - 2721; tr.84 - 86. 2 Người bào chữa với tư cách là chủ thể của 2019 Tạp chí Luật và pháp luật Liên bang Nga, số hoạt động chứng minh trong luật TTHS 8/2019, ISSN 2073-3313; tr. 87 - 89. Việt Nam. 3 Hoàn thiện quy định pháp luật về biện 2021 Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối pháp ngăn chặn giữ người trong trường cao, số 13/2021, ISSN 0866 - 7357; tr. 34 - 38. hợp khẩn cấp 4 Chủ thể buộc tội theo quy định của pháp 2022 Tạp chí Luật và Pháp luật Liên bang Nga, số luật TTHS Việt Nam 5/2022, ISSN 2073-3313; tr. 229 - 232. 5 Đối tượng chứng minh trong vụ án hình 2022 International Journal of Law Management & sự gây rối trật tự công cộng theo quy định Humanities, Volume 5/issue 4, ISSN 2581- của pháp luật Việt Nam 5369;https://doij.org/10.10000/IJLMH.11337; tr. 605 - 620. 6 Tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về 2022 Tạp chí Khoa học kiểm sát, Trường Đại học tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định kiểm sát Hà Nội, số 01/2022, ISSN 2354 - của Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ 063X; tr. 122 - 128. sung năm 2021) 7 Chức năng buộc tội trong điều tra vụ án hình 2022 Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số 08/2022, sự trong pháp luật của một số nước trên thế ISSN 0866 - 756X; tr. 26 - 33. giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam 8 Hoàn thiện quy định pháp luật về cơ quan 2022 Tạp chí Khoa học kiểm sát, Trường Đại học được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt kiểm sát Hà Nội, số 04/2022, ISSN 2354 - động điều tra của Công an nhân dân. 063X; tr. 20 - 26. 9 Hoàn thiện pháp luật về biện pháp thu 2022 Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số 12/2022, thập chứng cứ thực hiện chức năng buộc ISSN 0866 - 756X; tr. 48 - 54. tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 10 Bàn về khái niệm chức năng buộc tội 2022 Hội thảo quốc tế Đại học Moscow thuộc Bộ trong Tố tụng hình sự Việt Nam Nội vụ của Liên bang Nga; tr. 188 - 190. 11 Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp 2023 Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS cao, số 9/2023, ISSN 0866 - 7357; tr. 33- 39 năm 2015 12 Hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn 2023 Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số 10/2023, chặn nhằm nâng cao hiệu quả chức năng ISSN 0866 - 756X buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án 13 Góp ý sửa đổi, bổ sung chế định người 2023 Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 2015. cao, số 21/2023, ISSN 0866 - 7357 2. Đề tài, giáo trình, sách tham khảo TT Tên công trình Loại Tác giả Mã số, cấp Thời gian Kết quả hình quản lý nghiệm thu 1 Bảo đảm quyền con người trong Sách Tham 1398/QĐX 2015 Đã đưa vào khởi tố, điều tra vụ án xâm tham gia B- sử dụng phạm an ninh quốc gia”, Nxb khảo NXBCAN CAND, 2015. D. 2 Giáo trình Luật TTHS; tr. 465 - Giáo Tham 2018 Đã đưa vào 496. trình gia sử dụng
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Về lý luận, còn tồn tại nhiều quan điểm khoa học không thống nhất về CNBT. Có những quan điểm cho rằng CNBT chỉ xuất hiện trong giai đoạn truy tố và xét xử và thẩm quyền thực hiện CNBT chỉ thuộc về Viện kiểm sát (VKS), mà chưa đánh giá đúng việc thực hiện chức năng này trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS và sự tham gia của các chủ thể buộc tội (CTBT) khác như Cơ quan điều tra (CQĐT), Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra... Về quy định của BLTTHS hiện hành về CNBT trong những giai đoạn này vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: chưa xác định rõ các chủ thể của CNBT, chưa phân định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các chủ thể thực hiện CNBT với chủ thể thực hiện các chức năng khác trong TTHS; chưa xác định rõ nội dung, phạm vi CNBT; vị trí của các chủ thể thực hiện CNBT so với các chủ thể thực hiện CNBC chưa có sự tương xứng để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện hiệu quả… Về thực tiễn, việc thực hiện CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS hiện nay chưa phát huy hết hiệu quả trong việc phát hiện nhanh chóng, kịp thời, chính xác mọi tội phạm, vẫn còn tình trạng buộc tội oan, sai trong khởi tố, điều tra, bắt, giam giữ, bức cung, mớm cung, nhục hình, tình trạng bỏ lọt tội phạm, trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra khi không đủ chứng cứ để buộc tội dẫn đến việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tư pháp còn có những hạn chế nhất định như: trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn hạn chế dẫn đến những sai phạm trong quá trình tiến hành tố tụng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả thực hiện CNBT, cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện về CNBT trong TTHS nói chung và CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS nói riêng. Với những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài “Chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra VAHS” làm luận án tiến sĩ. 1
- 2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, quy định pháp luật TTHS và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS đưa ra những giải pháp hoàn thiện lý luận và góp phần bảo đảm thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS đúng đắn, hiệu quả. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện các mục đích trên, đề tài phải giải quyết được các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: - Nghiên cứu tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án; - Phân tích, làm rõ lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, bao gồm: khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, ý nghĩa, nội dung, chủ thể, nguyên tắc, những yếu tố tác động đến CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; - Khảo sát, đánh giá các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; - Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam; - Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện lý luận, quy định pháp luật và góp phần thực hiện hiệu quả CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về CNBT và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; khảo sát quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam để minh chứng cho những luận điểm khoa học trong phần lý luận. Luận án không khảo sát thực tiễn thực hiện CNBT đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. 2
- Về chủ thể: Đề tài tập trung khảo sát thực tiễn thực hiện CNBT của hai chủ thể thực hiện CNBT chủ yếu trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS là CQĐT và VKS, không khảo sát thực tiễn thực hiện CNBT của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và các CTBT không mang tính nhà nước. Về thời gian, địa bàn: Về thời gian: Đề tài khảo sát quy định của pháp luật TTHS về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS từ năm 1988 (thời điểm từ khi có BLTTHS năm 1988 - BLTTHS đầu tiên của Việt Nam) đến năm 2023. Về thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, luận án khảo sát trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2013 (từ khi có Hiến pháp năm 2013) đến hết năm 2022. Về địa bàn: Đề tài khảo sát thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS trên phạm vi cả nước. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận án Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê; Phương pháp tổng kết thực tiễn; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp so sánh, đối chiếu; Phương pháp nghiên cứu điển hình. 5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án Thứ nhất, Luận án đưa ra hệ thống lý luận khoa học về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS góp phần làm phong phú và hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, luật TTHS nói riêng. Thứ hai, Luận án đưa ra cái nhìn về thực tiễn trong việc thực hiện CNBT thông qua việc khảo sát thực tiễn pháp luật TTHS từ năm 1988 đến nay và thực tiễn thi hành pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS của CQĐT và VKS; chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Thứ ba, Luận án đã đưa ra những nhóm giải pháp thiết thực, đặc biệt là các giải pháp về pháp luật, trong đó kiến nghị sửa đổi các điều luật cụ thể liên quan đến 3
- CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS như: phân định các chủ thể tố tụng theo CNTT, xác định rõ vai trò của các CTBT, hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn, các biện pháp thu thập chứng cứ thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án Luận án đã bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; có giá trị tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu, học tập về khoa học luật TTHS và có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả thực tiễn xây dựng và thi hành pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. 7. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận án được kết cấu thành 4 chương, bao gồm: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Những vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam. Chương 4: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện đúng chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Luận án khảo sát một số công trình nghiên cứu về CNTT và một số vấn đề liên quan đến CNTT của một số nước như Nga, Mỹ, Anh, Trung Quốc…Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan tới đề tài luận án khá đa dạng, là nguồn tư liệu giúp NCS nghiên cứu, so sánh trong quá trình làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Đề tài đã khảo sát và hệ thống các công trình trong nước có liên quan đến CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS theo các nhóm sau: - Nhóm các công trình nghiên cứu về CNTT nói chung - Nhóm công trình nghiên cứu về các CNTT khác trong mối quan hệ với CNBT. 4
- - Nhóm công trình nghiên cứu về các yếu tố cơ bản của TTHS có liên quan đến CNBT như mô hình tố tụng, các nguyên tắc cơ bản của TTHS, chứng cứ và chứng minh liên quan đến CNBT. - Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về CNBT trong TTHS. - Nhóm công trình nghiên cứu về những khía cạnh cụ thể của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS như vị trí, vai trò, chủ thể của CNBT, mối quan hệ giữa các CTBT, chủ thể bị buộc tội, cách thức thực hiện CNBT. 1.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 1.3.1. Những thành tựu đạt được Các công trình đã công bố nghiên cứu về CNTT hoặc nghiên cứu về các CNTT khác trong mối quan hệ với CNBT, cũng như nghiên cứu cụ thể từng khía cạnh của CNBT có ý nghĩa trong việc xây dựng hệ thống lý luận và là cơ sở để NCS tiếp tục khảo sát, làm rõ hơn các vấn đề về thực tiễn quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, trên cơ sở đó tiếp tục đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện CNBT trong TTHS nói chung và CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS nói riêng trong thời gian tới. 1.3.2. Những vấn đề còn tồn tại Thứ nhất, về lý luận CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS Một là, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về hệ thống lý luận CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Hai là, trong các công trình đã nghiên cứu vẫn còn một số vấn đề lý luận chưa thống nhất và cần tiếp tục làm rõ. Thứ hai, về thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS Một là, các công trình đã nghiên cứu chưa có công trình nào khảo sát đầy đủ, hệ thống các quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Hai là, một số công trình được nghiên cứu có đề cập đến một vài khía cạnh của thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT của một số chủ 5
- thể được nghiên cứu đã lâu, do vậy, hiện nay đã có nhiều sự thay đổi về các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Thứ ba, về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS Một là, chưa có công trình nào đưa ra hệ thống các giải pháp có tính đồng bộ, chuyên sâu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Hai là, một số công trình có đề cập đến một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CNBT ở một khía cạnh nào đó thì thời gian nghiên cứu cũng đã lâu, do vậy, một số giải pháp, kiến nghị được đưa ra hiện không còn phù hợp với thực tiễn. 1.3.3. Những vấn đề cần tiếp tục giải quyết của đề tài Một là, Luận án bổ sung và xây dựng một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò và ý nghĩa của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS; Nguyên tắc, phạm vi; chủ thể; nội dung của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Hai là, tiếp tục khảo sát thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS từ năm 1988 đến nay, đặc biệt là các quy định pháp luật TTHS hiện hành. Đồng thời khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS ở Việt Nam từ năm 2013 đến nay của CQĐT và VKS. Trên cơ sở đó, đưa ra những đánh giá về kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế liên quan đến CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Ba là, trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, trên cơ sở quan điểm, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với vấn đề hoàn thiện lý luận, pháp luật và cơ chế thực hiện CNBT trong TTHS Việt Nam, NCS cần tiếp tục nghiên cứu đưa ra hệ thống các giải pháp bảo đảm thực hiện đúng CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, đặc biệt là các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. 1.4. Giả thuyết nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu Luận án được triển khai với các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau: - Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tại Việt Nam hiện nay như thế nào? 6
- Giả thuyết nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát các nghiên cứu đi trước liên quan đến CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, cho thấy còn nhiều quan điểm khác nhau về CNTT, CNBT. Đồng thời, chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện lý luận về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. - Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng quy định của pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS ở Việt Nam được thể hiện như thế nào? Giả thuyết nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS có sự thay đổi, phát triển gắn với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của từng thời kỳ lịch sử, ngày càng có nhiều tiến bộ và đang tiếp tục được hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định liên quan đến CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. - Câu hỏi nghiên cứu: Thực tiễn thi hành pháp luật trong khởi tố, điều tra VAHS của các CTBT tại Việt Nam hiện nay được thể hiện như thế nào? Giả thuyết nghiên cứu: Thực tiễn thi hành pháp luật trong khởi tố, điều tra VAHS của các CTBT đã đạt được những kết quả tích cực nhưng vẫn còn tồn tại, hạn chế cần khắc phục. + Câu hỏi nghiên cứu: Cần có giải pháp nào để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và giúp việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS được đúng đắn, hiệu quả? Giả thuyết nghiên cứu: Hiện nay, chưa có các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò và ý nghĩa của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 2.1.1. Khái niệm chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Khái niệm chức năng tố tụng hình sự Chức năng TTHS là những phương diện (hay những dạng) hoạt động mang tính định hướng cơ bản của TTHS nhằm phân định các hoạt động của các chủ thể tố 7
- tụng được tiến hành trong phạm vi, giới hạn nhất định của quá trình giải quyết VAHS bảo đảm đạt được mục đích tố tụng đặt ra. Khái niệm chức năng buộc tội trong Tố tụng hình sự Do còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “buộc tội” như đã phân tích, nên khi đề cập đến khái niệm CNBT cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Tổng hợp những phân tích về khái niệm CNBT, tác giả đưa ra định nghĩa về CNBT như sau: CNBT là chức năng cơ bản của TTHS phân định thẩm quyền của các CTBT trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đưa ra cáo buộc về trách nhiệm hình sự đối với chủ thể bị buộc tội được tiến hành từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và kết thúc khi có bản ản kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc có thể kết thúc sớm hơn trong một số trường hợp do luật định. Khái niệm chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS là CNTT phân định thẩm quyền của các CTBT trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đưa ra cáo buộc về trách nhiệm hình sự đối với chủ thể bị buộc tội bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận nguồn tin về tội phạm cho đến khi CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra bản kết luận điều tra và gửi hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố hoặc có thể kết thúc sớm hơn trong một số trường hợp do luật định. 2.1.2. Đặc điểm của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Thứ nhất, CNBT là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS, có mối quan hệ mật thiết với các CNBC và CNXX. Thứ hai, CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS tồn tại trong suốt giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS. Thứ ba, CNBT là cơ sở phân định thẩm quyền của các CTBT. 2.1.3. Vị trí, vai trò và ý nghĩa của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 2.1.3.1. Vị trí, vai trò của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự - Vị trí, vai trò của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS với mục đích, nguyên tắc cơ bản của TTHS, mô hình tố tụng, địa vị pháp lý của các chủ thể TTHS + Vị trí, vai trò của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 8
- với mục đích, nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Xét trong mối quan hệ tổng thể các yếu tố chủ yếu cấu thành hệ thống TTHS thì mục đích và nguyên tắc của TTHS có vai trò quyết định đối với CNTT nói chung và CNBT nói riêng. + Vị trí, vai trò của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự với mô hình tố tụng Cách thức tổ chức và thực hiện các CNTT nói chung và CNBT nói riêng đóng vai trò quyết định mô hình tố tụng. + Vị trí, vai trò của CNBT với địa vị pháp lý của các chủ thể TTHS Chức năng tố tụng nói chung và CNBT nói riêng có vai trò quyết định đối với địa vị pháp lý của các chủ thể TTHS. - Vị trí, vai trò của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS so với CNBC và CNBT trong các giai đoạn truy tố, xét xử + Vị trí, vai trò của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS so với CNBC Về lý luận cũng như trên thực tế cho thấy, CNBT xuất hiện là nhu cầu tất yếu khách quan, là tiền đề cho sự xuất hiện của CNBC. + Vị trí, vai trò của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS so với CNBT trong các giai đoạn tố tụng khác Trong mối quan hệ với CNBT trong giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử thì CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS là cơ sở để thực hiện CNBT trong những giai đoạn này. 2.1.3.2. Ý nghĩa của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Chức năng buộc tội nói chung và CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS nói riêng tồn tại nhằm thực hiện mục đích của TTHS. Chính vì vậy, CNBT có ý nghĩa lớn lao cả về mặt chính trị, xã hội và về mặt pháp lý. 2.2. Nguyên tắc, nội dung, chủ thể của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 2.2.1. Nguyên tắc của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Những nguyên tắc của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS là những nguyên tắc cơ bản của TTHS thể hiện phương châm, định hướng chi phối việc thực hiện 9
- CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, được các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm thực hiện trên phương diện xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Để quá trình giải quyết VAHS đảm bảo khách quan, toàn diện, đạt được mục đích đặt ra của TTHS đòi hỏi việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS phải tuân thủ nhiều nguyên tắc khác nhau. Trong đó phải kể đến những nguyên tắc quan trọng, có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS như: Nguyên tắc suy đoán vô tội; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; Nguyên tắc tranh tụng; Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần về một tội phạm; Trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS và một số nguyên tắc khác. 2.2.2. Nội dung của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 2.2.2.1. Các hoạt động thực hiện chức năng buộc tội mang tính nhà nước - Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, hoạt động thu thập chứng cứ chủ yếu do CQĐT thực hiện với sự kiểm sát chặt chẽ của VKS. Khi tiến hành thu thập chứng cứ, CQĐT có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người có liên quan…Đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thể sử dụng các biện pháp trên để thu thập chứng cứ tuy nhiên phạm vi sử dụng những biện pháp này hẹp hơn so với CQĐT. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, thông thường VKS không trực tiếp tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ như CQĐT, mà việc thu thập chứng cứ của VKS chủ yếu thông qua hoạt động kiểm sát các biện pháp thu thập chứng cứ của CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Chẳng hạn như VKS thu thập chứng cứ trong quá trình kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, khám xét…Trong một số trường hợp cần thiết, VKS có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ thực hiện CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS. Sau khi thu thập chứng cứ, các CTBT chưa thể sử dụng ngay những chứng cứ 10
- này vào việc buộc tội mà còn phải tiến hành kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đây là vấn đề mang tính nguyên tắc trong TTHS. - Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích ngăn chặn sự trốn tránh, đối phó của người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các hoạt động buộc tội khác như: các hoạt động thu thập chứng cứ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can…; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng là cơ sở pháp lý làm phát sinh tư cách chủ thể bị buộc tội. Trong giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra VAHS, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn chủ yếu do CQĐT tiến hành, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp ngăn chặn nhất định để thực hiện CNBT. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được đặt dưới sự kiểm sát chặt chẽ của VKS thông qua việc phê chuẩn các lệnh, quyết định của những cơ quan này. Trong trường hợp cần thiết, VKS cũng có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp ngăn chặn nhất định để thực hiện CNBT. - Ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc buộc tội Trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, để thực hiện CNBT, các cơ quan buộc tội mang tính nhà nước có thể ra các quyết định buộc tội chủ yếu sau: + Quyết định khởi tố VAHS, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố VAHS + Quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can + Ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố 2.2.2.2. Các hoạt động thực hiện chức năng buộc tội không mang tính nhà nước Việc thực hiện CNBT của các chủ thể này khá mờ nhạt, chủ yếu mang tính chất hỗ trợ cho việc buộc tội của các CTBT mang tính nhà nước, được thực hiện thông qua quyền được đưa ra các tài liệu, chứng cứ để làm rõ hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm hoặc thực hiện quyền buộc tội trong trường hợp đặc biệt đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại. 2.2.3. Chủ thể của chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 2.2.3.1. Chủ thể buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 11
- Chủ thể buộc tội trong khởi tố, điều tra VAHS là các cơ quan và cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS nhằm đưa ra cáo buộc về TNHS đối với người bị buộc tội và chứng minh tính có căn cứ, hợp pháp của cáo buộc đó. Như vậy, căn cứ vào tính chất, vai trò của các CTBT có thể chia CTBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS thành hai nhóm: 1 - Các CTBT mang tính nhà nước: CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS; 2 - Các CTBT không mang tính nhà nước: Bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại. Do hình thức buộc tội chủ đạo của TTHS Việt Nam là buộc tội công tố, do vậy, các CTBT mang tính nhà nước đóng vai trò chủ đạo, trong đó vai trò chủ yếu thuộc về CQĐT và VKS. 2.2.3.2. Chủ thể bị buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Từ khái niệm về CNBT trong TTHS như đã phân tích có thể hiểu: chủ thể bị buộc tội là những chủ thể bị cáo buộc về hành vi phạm tội, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy, có thể xác định, trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS, chủ thể bị buộc tội bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. 2.3. Quy định pháp luật về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự của một số nước trên thế giới và ý nghĩa đối với tố tụng hình sự Việt Nam 2.3.1. Quy định pháp luật về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự của một số nước trên thế giới. 2.3.1.1. Pháp luật Trung Quốc Chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra VAHS được thể hiện rõ nét thông qua chức năng của các cơ quan buộc tội mang tính quyền lực Nhà nước đó là CQĐT, VKS. Trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc thực hiện CNBT với mục đích là phát hiện và trừng trị người phạm tội, CNBC mờ nhạt, đồng thời không có sự phân định rõ ràng giữa các chủ thể trong việc thực hiện CNTT. Trong đó trách nhiệm chứng minh VAHS thuộc về cơ quan có thẩm quyền của nhà nước, người bị buộc tội có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội. 2.3.1.2. Pháp luật Nhật Bản 12
- Kết cấu của BLTTHS Nhật Bản cho thấy TTHS Nhật Bản theo mô hình tố tụng tranh tụng có pha trộn thẩm vấn. Pháp luật Nhật Bản không có sự phân chia rõ ràng các chủ thể theo CNTT. Tuy nhiên phân tích pháp luật TTHS Nhật Bản có thể thấy trong giai đoạn điều tra, có hai chủ thể buộc tội chính là CQĐT của cảnh sát (Cảnh sát tư pháp) và Viện công tố. 2.3.1.3. Pháp luật Liên bang Nga Chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra của pháp luật Liên bang Nga được thể hiện rõ ràng với sự phân định các chủ thể theo CNTT, đặc biệt là CTBT. Vai trò buộc tội trong giai đoạn điều tra chủ yếu thuộc về CQĐT với nhiều thẩm quyền độc lập và đặc biệt pháp luật trao nhiều quyền hơn cho ĐTV - những người trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng, giúp thuận lợi hơn cho quá trình điều tra VAHS. Đồng thời, pháp luật Liên bang Nga cũng tiếp thu những yếu tố tiến bộ của tranh tụng, tạo nhiều điều kiện hơn để CNBC được thực hiện ngay trong giai đoạn điều tra VAHS. 2.3.1.4. Pháp luật Cộng hòa liên bang Đức Luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức cho phép Cảnh sát, Cơ quan công tố phát hiện, thu thập cả các tình tiết, chứng cứ gỡ tội và những tình tiết quan trọng cho việc xác định hậu quả pháp lý của bị can đã thể hiện sự không phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS như trong mô hình tố tụng tranh tụng. 2.3.1.5. Pháp luật Mỹ Mô hình TTHS của Mỹ là mô hình tố tụng tranh tụng. Pháp luật của Mỹ phân chia các giai đoạn tố tụng làm 3 giai đoạn: Giai đoạn điều tra sơ bộ; Giai đoạn truy tố; Giai đoạn xét xử. Mối quan hệ giữa cảnh sát và công tố tương đối độc lập, CQĐT không chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan Công tố, tuy nhiên những cơ quan này lại có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Do phương pháp tố tụng được sử dụng trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS là phương pháp đối tụng nên Luật sư và công tố viên có quyền bình đẳng trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ. 2.3.2. Ý nghĩa đối với tố tụng hình sự Việt Nam Thứ nhất, với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở nước ta hiện nay, cần tiếp tục duy trì và phát triển việc thực hiện CNBT theo mô hình TTHS pha trộn thiên về thẩm vấn, tiếp tục tăng cường yếu tố tranh tụng phù hợp nhằm đảm bảo hơn tính công khai, dân chủ, bình đẳng trong TTHS. 13
- Thứ hai, cần phân định hợp lý quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của TTHS. 2.4. Các yếu tố tác động đến chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự - Yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội - Yếu tố về pháp luật - Yếu tố con người Chương 3 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 3.1.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 3.1.1.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Sau gần 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm 1988 đã trở thành căn cứ pháp lí để CQĐT, VKS và chủ thể khác thực hiện CNBT mang lại những hiệu quả tích cực hơn so với thời kỳ trước đó. BLTTHS năm 1988 cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng cường việc thực hiện CNBC trong TTHS với việc thể chế hóa quyền bào chữa rộng hơn so với Hiến pháp năm 1980 khi cho phép bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, chứ không chỉ dừng ở việc bảo đảm quyền bào chữa trong phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, những quy định của BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như: quy định về quyền hạn, trách nhiệm của các CTBT chưa rõ ràng; chưa phân định rõ thẩm quyền của CQĐT, VKS, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra với những người tiến hành tố tụng trong những cơ quan này; việc phân định thẩm quyền của các CTBT chưa có sự rõ ràng, đặc biệt là vai trò của VKS và CQĐT trong 14
- giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS; chưa có sự thống nhất trong quy định của BLTTHS với nhau và giữa quy định của BLTTHS với các văn bản quy phạm pháp luật TTHS khác; các hoạt động thực hiện CNBT chưa được quy định rõ ràng, chặt chẽ, đầy đủ, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố VAHS… 3.1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Trải qua hơn 10 năm thi hành, BLTTHS năm 2003 đã thể hiện sự tiến bộ so với BLTTHS năm 1988, khẳng định vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập trong quy định về CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS như: Chưa phân định rõ ràng các chủ thể theo CNTT; Chưa xác định đầy đủ chủ thể bị buộc tội, còn thiếu một số quyền quan trọng bảo đảm cho người bị buộc tội, người bào chữa thực hiện tốt CNBC; ĐTV, KSV là những người trực tiếp thực hiện CNBT nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế; Quy định về một số BPNC trong TTHS còn chưa đầy đủ, cụ thể; Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận chứng cứ từ dữ liệu điện tử thu thập từ mạng internet, từ các thiết bị điện tử; Các biện pháp thu thập chứng cứ vẫn còn thiếu, chưa đầy đủ, chặt chẽ… 3.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự * Nhận xét chung: BLTTHS hiện hành đã kế thừa và tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định liên quan đến việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS, được thể hiện cụ thể ở những điểm sau: Thứ nhất, phạm vi của CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS đã được xác định rõ ràng hơn thông qua các quy định thể hiện rõ CTBT trong TTHS nói chung và trong khởi tố, điều tra VAHS nói riêng, các quy định về thẩm quyền áp dụng các 15
- hoạt động buộc tội cũng được quy định rõ ràng hơn trong từng giai đoạn, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố. Thứ hai, cơ cấu tổ chức của các CTBT mang tính Nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung rõ ràng, cụ thể hơn về vị trí, vai trò của các cơ quan này, đặc biệt là vị trí, vai trò của VKS trong việc thực hiện CNBT trong giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra VAHS. Thứ ba, BLTTHS hiện hành tiếp tục kế thừa và bổ sung các quy định của BLTTHS năm 2003 trong việc phân định rõ thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thứ tư, quyền con người của người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội được bảo đảm tốt hơn. 3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam 3.2.1. Kết quả thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 3.2.1.1. Kết quả thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Thứ nhất, kết quả thực hiện CNBT của CQĐT đạt hiệu quả cao cả về số lượng và chất lượng buộc tội. Điều này thể hiện ở số lượng tố giác, tin báo về tội phạm, KNKT được thụ lý, giải quyết, số vụ án được khởi tố sau khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, KNKT, cũng như tỉ lệ số vụ án, số bị can được giải quyết so với số các vụ án, bị can đã khởi tố, tỉ lệ các vụ án, bị can đề nghị truy tố so với các vụ án, bị can đã giải quyết và tỉ lệ các vụ án, bị can VKS truy tố so với các vụ án, bị can được đề nghị VKS truy tố đều đạt tỉ lệ cao. Thứ hai, việc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra VAHS của CQĐT được tiến hành đạt hiệu quả cao đối với nhiều loại tội phạm. Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng trong tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, việc thực hiện CNBT đã đạt hiệu quả cao đối với nhiều loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về tham nhũng, chức vụ. 16
- Thứ ba, việc thực hiện CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS chủ yếu do CQĐT của CAND tiến hành, ngoài ra còn có sự tham gia của CQĐT của VKSNDTC và CQĐT trong QĐND. 3.2.1.2. Kết quả thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát Viện kiểm sát đã thực hiện tốt CNBT của mình trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS thông qua việc kiểm sát chặt chẽ các hoạt động buộc tội của CQĐT, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định liên quan đến việc buộc tội của CQĐT, bảo đảm cho các quyết định buộc tội của CQĐT được thực hiện chính xác, hạn chế tình trạng buộc tội không có căn cứ hoặc bỏ lọt tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong quá trình thực hiện CNBT trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS. Thứ nhất, VKS đã thực hiện kiểm sát chặt chẽ các hoạt động thu thập chứng cứ của CQĐT đảm bảo việc tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ của CQĐT được tiến hành đầy đủ, khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Thứ hai, VKS đã kiểm sát chặt chẽ căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, không phê chuẩn hoặc ra quyết định hủy bỏ đối với các lệnh, quyết định không có căn cứ. Thứ ba, VKS đã thể hiện vai trò chủ đạo trong việc đưa ra những quyết định buộc tội cuối cùng thông qua việc hủy bỏ các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can không có căn cứ. 3.2.2. Những hạn chế, bất cập trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và tổ chức thực hiện chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 3.2.2.1. Những hạn chế, bất cập trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chức năng buộc tội trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự. - Hạn chế, bất cập trong quy định về nguyên tắc thực hiện CNBT trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Một là, về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Hai là, về nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS. - Hạn chế, bất cập trong quy định về chủ thể của CNBT trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự Thứ nhất, Luật TTHS nước ta chưa phân định rõ các chủ thể tố tụng theo chức năng tố tụng. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn