intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

146
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường, đánh giá thực trạng pháp luật, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM  KHOA HỌC XàHỘI VIỆT NAM  HỌC VIỆN KHOA HỌC XàHỘI            NGUYỄN NGỌC ANH ĐÀO PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ  KINH TẾ  TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG          Ở VIỆT NAM  HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 62.38.50.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
  2. Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội. Người hướng dẫn khoa học:  Người hướng dẫn: PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ Phản biện 1: GS.TS. Lê Hồng Hạnh Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng chấm luận án cấp  Học viện: Học viện Khoa học xã hội Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam
  3. ­  Thư viện Học viện Khoa học xã hội  NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN  ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐàĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Nguyễn Ngọc Anh Đào, “Căn cứ  xác định thiệt hại về   môi trường”, Tạp chí Tòa án nhân dân số  14 năm 2009, tr.40­ 43. 2. Nguyễn Ngọc Anh Đào,“ Pháp luật về  phí bảo vệ  môi   trường   đối   với   nước   thải   ở   Việt   Nam   hiện   nay” ,   Tạp   chí  Nghiên cứu Lập pháp số 6 năm 2010, tr.46­51. 3. Nguyễn Ngọc Anh Đào, “Hoàn thiện pháp luật về kiểm   soát, vận chuyển chất thải nguy h ại”,   Tạp chí Nghiên cứu  Lập pháp số 20 năm 2012, tr.51­56. 4. Nguyễn Ngọc Anh Đào,  “Thực hiện pháp luật về  sử   dụng  công   cụ   kinh   tế   trong  bảo   vệ   môi   trường”,   Tạp  chí  Nghiên cứu Lập pháp số 24 năm 2012, tr. 43 – 47.
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng xu thế chung của thế giới, là một quốc gia đang phát   triển, Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong xóa  đói, giảm nghèo, song lại phải đương đầu với những thách thức   lớn lao về môi trường. Những thách thức này đòi hỏi Đảng và Nhà   nước phải sớm tìm ra các giải pháp giải quyết có hiệu quả    các   vấn đề  môi trường  ở  Việt Nam. Môi trường với những đặc trưng  riêng, hậu quả  của hành vi gây ô nhiễm môi trường trong nhiều  trường hợp chưa thể gây ra những hiệu ứng tức thời; thiệt hại rất   khó xác định được và khó nhận biết hết, do đó phản  ứng của xã  hội sẽ  không quá gay gắt và kịp thời. Trong trường hợp này, việc  sử  dụng các công cụ  có tính chất kinh tế  để  tác động tới lợi ích   của các chủ thể sẽ mang lại kết quả tốt hơn là các biện pháp hành  chính. Trong bối cảnh trên, việc tăng cường sử  dụng các công cụ  kinh tế chính là biện pháp tương đối có hiệu quả trong bảo vệ môi  trường. Các công cụ  kinh tế  được xác định là một trong những   biện pháp được sử dụng để đạt mục tiêu bảo vệ môi trường thành  công. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp sử  dụng riêng biệt   mà cần phải sử  dụng kết hợp với các biện pháp khác như  biện  pháp hành chính, biện pháp giáo dục… Chính vì lí do trên, trong Chiến lược Bảo vệ  môi trường  quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ  tướng Chính phủ  phê duyệt tại Quyết định số  256/2003/QĐ­TTg  ngày 02/12/2003, một trong những giải pháp thực hiện chiến lược  được đưa ra là: “Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý   môi trường”. Đặc biệt, ngày 03/6/2013 Ban Chấp hành Trung ương   Đảng Cộng sản Việt Nam  đã ra Nghị  quyết 24­NQ/TW về  chủ  động  ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và  bảo vệ  môi trường đã đưa ra năm giải pháp quan trọng, đặc biệt  giải pháp thứ tư khẳng định “Quán triệt và vận dụng có hiệu quả   các nguyên tắc: người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc   phục   hậu   quả,   cải   tạo   và   phục   hồi   môi   trường;   người   được  
  5. hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để   đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.  Vì thế, việc nghiên cứu đề  làm sáng tỏ  những vấn đề  lý  luận, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường và đưa ra những giải pháp hoàn  thiện pháp luật về  sử dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi   trường là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả  về  mặt lý luận và  thực tiễn. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên   cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về pháp luật về sử dụng các  công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án Đề  tài “Pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong   bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” có mục đích làm sáng tỏ  những vấn đề  lý luận về  pháp luật sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường, đánh giá thực trạng pháp luật về sử dụng   các công cụ  này trong bảo vệ  môi trường, từ  đó đề  xuất phương  hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế trong bảo vệ môi trường. Để  đạt được mục đích đã nêu trên, các nhiệm vụ  nghiên   cứu của luận án được xác định cụ thể như sau: +  Làm   rõ  khái   niệm   công  cụ   kinh  tế   trong  bảo  vệ   môi   trường và pháp luật về sử dụng công cụ  kinh tế trong bảo vệ môi   trường. + Nghiên các tiêu chí cơ bản xác định mức độ phù hợp của   pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường. + Phân tích nội dung các quy định của pháp luật về  chính  sách tài trợ  để  quản lý và bảo vệ  môi trường; phân tích nội dung   các quy định của pháp luật n hóm công cụ kích thích lợi ích kinh tế;  phân tích nội dung các quy định của pháp luật về  nhóm  công  cụ  nâng  cao trách  nhiệm xã hội trong hoạt động bảo vệ môi trường;  phân tích nội dung các quy định của pháp luật về  chế  tài xử  phạt   trong bảo vệ môi trường.
  6. + Từ kết quả nghiên cứu thực trạng pháp luật về sử dụng  các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam đề xuất   giải pháp hoàn thiện pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu của luận án:  công cụ kinh tế trong  bảo vệ môi trường và pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong   bảo vệ  môi trường; các lý thuyết về  khoa học môi trường gồm   nguyên tắc  “Người gây ô nhiễm phải trả  tiền”  và  “Người thụ   hưởng phải trả tiền”; pháp luật thực định về sử dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường Việt Nam, kinh nghiệm thế giới   về  xây dựng pháp luật về  sử  dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc sử  dụng pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi  trường. ­ Phạm vi nghiên cứu: pháp luật về  sử  dụng công cụ  kinh  tế trong bảo vệ môi trường có thể được phân tích ở nhiều mức độ,  góc độ khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi một bản luận án không  thể  phân tích hết các vấn đề  đó. Với mục đích, nhiệm vụ  nghiên  cứu đã trình bày nêu trên thì ngoài việc đưa ra nhận thức chung về  pháp luật về  sử  dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường,   luận án chủ  yếu tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật  về sử dụng công cụ  kinh tế trong bảo vệ môi trường hiện hành ở  Việt Nam, các quy định của pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế  trong bảo vệ  môi trường  ở  một số  nước, từ  đó đưa ra kiến nghị  hoàn thiện các quy định của pháp luật về sử dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. 4. Những điểm mới của luận án Thứ  nhất, luận án đã giải quyết cơ  bản nhiều vấn đề  lý  luận về  pháp luật sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi  trường, cụ  thể: (i) khái niệm, đặc điểm, vai trò của công cụ  kinh  tế  trong bảo vệ  môi trường; (ii) khái niệm  pháp luật về  sử  dụng 
  7. các công cụ kinh tế  trong bảo vệ môi trường, các tiêu chí cơ bản,  nội hàm chủ  yếu, nguyên tắc cơ  bản, nguồn của pháp luật và các   yêu cầu tác động đến việc đảm bảo đối với pháp luật về sử dụng   các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường. Thứ  hai, bằng phương pháp luật so sánh, luận  án đã có  nhiều thành công khi đánh giá về  kinh nghiệm pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường của một số  quốc gia trên thế  giới và khái quát chỉ  rõ các bài học kinh nghiệm   có thể tiếp thu và các nội dung cần thận trọng và thách thức trong  bảo vệ môi trường ở Việt Nam Thứ  ba, phân tích và đánh giá một cách toàn diện và khách   quan về thực trạng pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong bảo  vệ môi trường ở Việt Nam. Từ đó, chỉ ra được những ưu điểm và   hạn chế  trong các quy định pháp luật về sử dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường  ở  Việt Nam làm cơ  sở  hoàn thiện pháp   luật về  sử dụng công cụ  kinh tế trong bảo vệ  môi trường ở  Việt   Nam hiện hành. Thứ tư, trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về  sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam,  luận án đã đề xuất các quan điểm, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện   pháp luật về  sử dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường  ở  Việt Nam hiện nay. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Trong bối cảnh hiện nay, có thể  coi luận án là công trình  khoa học nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật sử dụng công cụ kinh  tế  trong bảo vệ  môi trường  ở  Việt Nam. Những kết luận và đề  xuất, kiến nghị  mà luận án nêu ra có cơ  sở  khoa học và thực tiễn  đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật về sử dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường. Ngoài ra, những vấn đề  nghiên   cứu của luận án có thể được tham khảo để biên soạn giáo trình về  môi trường, cụ thể là phần pháp luật về  sử dụng công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường. 6. Bố cục của luận án
  8. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo  và phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết  và phương pháp nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận về pháp luật sử dụng các  công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường Chương 3. Thực trạng pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam Chương 4. Quan điểm, yêu cầu và giải pháp hoàn thiện  pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường   ở Việt Nam  CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu  Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và các  bài viết liên quan đến đề  tài này dưới nhiều góc độ  tiếp cận khác   nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác  nhau, kết quả nghiên cứu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên  cứu, cách tiếp cận vấn đề. Liên quan đến đề tài luận án, có thể kể  đến một số  công trình khoa học đã được công bố  được sắp xếp  theo các nhóm sau: Các công trinh nghiên c ̀ ưu vê vân đê bao vê môi ́ ̀ ́ ̀ ̉ ̣   trương trong qua trinh công nghiêp hoa ­ hiên đai hoa, nhăm h ̀ ́ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̀ ướng  tơi s ́ ự  phat triên bên v ́ ̉ ̀ ững cua Viêt Nam; n ̉ ̣ hóm những công trình  nghiên cứu về  từng CCKT trong BVMT. Nhìn chung nhóm những  công trình nói trên đã phân tích từng CCKT trong BVMT  ở  Việt   Nam và giải pháp của các CCKT đó. Việt Nam đã sử  dụng nhiều  biện   pháp   để   BVMT,   trong   đó   việc   sử   dụng   pháp   luật   về   các   CCKT trong BVMT cho đến nay vẫn được phát huy hiệu lực như  một trong những công cụ hữu ích trong việc phục hồi sự ô nhiễm   môi trường. Tuy nhiên, vấn đề  pháp luật về  sử  dụng các CCKT  
  9. trong BVMT  ở  nước ta khá mới mẻ, đã có một số  cuộc hội thảo,  bài viết liên quan đến từng CCKT trong BVMT.   Những bài viết  trên đã đánh giá, đóng góp ý kiến cho pháp luật về sử dụng CCKT   trong BVMT ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ  một bài tạp chí thì các tác giả không thể giải quyết được tất cả các  vấn đề  mang tính lý luận, thực trạng và giải pháp để  hoàn thiện  pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT. Nhưng các bài viết   này được nghiên cứu sinh tìm hiểu, phân tích để có cái nhìn chuẩn   xác hơn về  đề  tài và triển khai nội dung của đề  tài luận án.  Các  công trình nghiên cứu  ở  nước ngoài có một số  công trình đề  cập  từng khía cạnh khác nhau về sử dụng các CCKT trong BVMT 1.1.2. Mấy nhận định về tình hình nghiên cứu Nhìn chung, các bài viết và cuốn sách nêu trên chưa đề cập  một cách toàn diện pháp luật sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ  môi trường. Qua tìm hiểu về  tình hình nghiên cứu liên quan đến  chủ  đề  nghiên cứu  ở  trong và ngoài nước tiếp cận được, tác giả  xin đưa ra đánh giá bước đầu như sau:  ­ Dưới góc độ  kinh tế: các công trình khoa học nêu trên đã   làm rõ bản chất kinh tế của các CCKT trong BVMT.  ­ Dưới góc độ pháp luật: các công trình và bài viết nêu trên  chỉ dừng lại ở việc mô tả, diễn giải pháp luật mà chưa nêu lên các  vấn đề lý luận về pháp luật sử dụng các CCKT trong BVMT  ­ Ở Việt Nam, sử dụng các loại CCKT trong BVMT còn là   việc mới mẻ. Các công cụ  nay m̀ ới được quan tâm chú ý áp dụng  kể  từ khi Luật BVMT năm 1993 quy định trách nhiệm của các tổ  chức, cá nhân đóng góp tài chính cho bảo vệ  môi trường (Điều 7)  và theo Luật BVMT năm 2005 tại chương XI đưa ra các nguồn lực  BVMT.  Ở  Việt Nam cho đến nay chưa có một công trình nghiên  cứu về “Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ   môi trường ở Việt Nam hiện nay” một cách toàn diện và đầy đủ.
  10. 1.2.Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản   của nền kinh tế  thị  trường với mục đích điều hòa xung đột giữa   tăng trưởng kinh tế  và BVMT. Đó là các nguyên tắc sử  dụng các   yếu tố môi trường phải trả tiền; các học thuyết của chính cua khoa ̉   học   môi   trường   chỉ   ra   hai   nguyên   tắc   cơ   bản   trong   BVMT   là  nguyên tắc  “Người gây ô nhiễm phải trả  tiền”  (PPP) và nguyên  tắc  “Người   thụ   hưởng   phải   trả   tiền”   (BPP);   cũng   như   những  nguyên tắc thiên về  bản chất của quan hệ  pháp lý trong lĩnh vực   môi trường (mang tính bắt buộc hay tự  nguyện; vai trò của Nhà  nước, xã hội và doanh nghiệp). Ngoài ra, luận án còn được thực  hiện trên cơ  sở  các quan điểm của Đảng (Nghị  quyết 24­NQ/TW   ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung  ương 7 Khóa XI), Chiến lược   Bảo vệ môi trường của quốc gia có liên quan đến việc sử dụng các   công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi trường  ở  Việt Nam. Luận án  cũng được thực hiện trên cơ  sở  tiếp thu có chọn lọc một số quan   điểm, kinh nghiệm của các nước về pháp luật sử  dụng các CCKT  trong BVMT và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.  1.2.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ  thể  như: phương pháp hệ  thống, phương pháp phân tích và tổng  hợp,   phương   pháp   luật   học   so   sánh,   phương   pháp   thống   kê,   phương pháp lịch sử cụ thể, đặc biệt là phương pháp phân tích quy  phạm pháp luật. Để  hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết  hợp giữa các phương pháp trong từng phần của luận án, phương   pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử  dụng nhiều  nhất trong luận án. Đối với mỗi mục thì có một số  phương pháp  nghiên cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT SỬ DỤNG  CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
  11. 2.1. Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường: Khái niệm, đặc  điểm và vai trò 2.1.1.   Khái   niệm   công   cụ   kinh   tế   trong   bảo   vệ   môi   trường Cho đến nay trong các văn bản quy phạm pháp luật của   Việt  Nam chưa có một văn bản nào đưa ra định nghĩa thế  nào là  CCKT trong BVMT. Tại chương XI Luật BVMT năm 2005 mới chỉ  đưa ra các nguồn lực BVMT. Theo  đó, CCKT trong BVMT bao  gồm: ngân sách Nhà nước về BVMT; thuế môi trường; phí BVMT;  ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài  nguyên thiên nhiên; Quỹ BVMT và các chính sách ưu đãi và hỗ trợ  hoạt động BVMT. Từ  những khái niệm được nhìn nhận  ở  các góc độ  khác  nhau đã nêu trên có thể  rút ra hai điểm cơ  bản nhằm làm sáng tỏ  bản chất của CCKT trong BVMT với mục tiêu thực thi chính sách  về  môi trường là:  một  là,  CCKT trong BVMT hoạt động theo cơ  chế giá cả trên thị  trường thông qua việc thực hiện các hoạt động  môi trường, có thể đẩy cao hoặc hạ thấp chi phí, từ đó ảnh hưởng  tới lợi nhuận của DN;  hai là,  CCKT trong BVMT sẽ  tạo ra khả  năng lựa chọn cho các tổ  chức và cá nhân hành động sao cho phù   hợp với điều kiện của họ. 2.1.2. Đặc điểm của công cụ  kinh tế  trong bảo vệ  môi   trường Thứ  nhất, CCKT trong BVMT có tính linh hoạt và mềm  dẻo, tạo điều kiện cho các tổ  chức và cá nhân hành động sao cho   phù hợp với điều kiện của họ.  Thứ  hai,  CCKT trong BVMT có tính hiệu quả  về  BVMT,  nhất là trong nền KTTT.  Thứ  ba, CCKT trong BVMT có tính công bằng về  mặt xã  hội. Thứ  tư, CCKT trong BVMT có tính kích thích lợi ích kinh   tế. 
  12. Thứ  năm, CCKT bảo đảm BVMT gắn liền với hoạt động  sản xuất kinh doanh.  2.1.3.   Vai   trò   của   công   cụ   kinh   tế   trong   bảo   vệ   môi   trường Việc sử dụng các CCKT trong BVMT có các vai trò cụ thể  sau: Thứ   nhất,   so   với   các   công   cụ   quản   lý   và   BVMT   khác,  CCKT có một số ưu điểm nhất định và đã tạo điều kiện thuận lợi  cho việc áp dụng các CCKT trong quản lý và BVMT. Thứ  hai, các CCKT  trong BVMT co tac dung  ́ ́ ̣ điêu chinh ̀ ̉   ̉ hanh vi cua ng ̀ ươi gây ô nhi ̀ ễm theo hướng có lợi cho môi trường. Thứ  ba, các CCKT khuyến khích sự  năng động, sáng tạo  trong nghiên cứu và ứng dụng những quy trình công nghệ phù hợp   để giảm thiểu chất thải, qua đó tiết kiệm nguyên liệu, chi phí sản   xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh.  Thứ  tư, CCKT có thể  tạo sự  chủ  động cho các cơ  sở  sản  xuất, kinh doanh trong quá trình hoạt động, cũng như chủ động ứng  phó với các sự cố môi trường có thể xảy ra.  Thứ năm, sử dụng CCKT trong BVMT có thể làm giảm bớt  gánh nặng quản lý cho hệ  thống cơ  quan quản lý Nhà nước về  BVMT.  2.2.  Pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh tế  trong   bảo vệ  môi trường:  Khái niệm, nội hàm, các nguyên tắc, tiêu   chí và các nguồn 2.2.1. Khái niệm pháp luật về sử dụng các công cụ kinh   tế trong bảo vệ môi trường Quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật về sử dụng các  CCKT trong BVMT có rất nhiều quan hệ xã hội. Quan hệ  giữa con người với con người trong  điều chỉnh  pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT có thể là:
  13. ­ Quan hệ  giữa các cơ  quan nhà nước với nhau trong quá  trình xây dựng, thực hiện pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong   BVMT; ­ Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các chủ  thể  sử dụng các công cụ kinh tế trong BVMT; ­ Quan hệ  giữa các chủ  thể  trong quá trình sử  dụng các  CCKT trong BVMT.   Các quan hệ  trên đòi hỏi phải điều chỉnh bằng pháp luật.  Cần phải có nguyên tắc xử sự bắt buộc, được làm gì, không được   làm gì và làm như thế nào để hướng chúng đi theo một trật tự nhất   định, không thể  là mối quan hệ  tự  phát. Có như  vậy, môi trường   mới được bảo vệ. Pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong BVMT được quan   niệm là một bộ phận của pháp luật môi trường, bao gồm hệ thống   các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý về các chủ thể sử  dụng các CCKT, quyền và nghĩa vụ của các chủ  thể, trình tự, thủ   tục và hình thức xử  lý các vi phạm trong việc sử  dụng các CCKT   trong BVMT. 2.2.2. Nội hàm của pháp luật về  sử  dụng các công cụ   kinh tế trong bảo vệ môi trường Nói đến pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong BVMT là  đề  cập toàn bộ  các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt  động BVMT khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và  những hoạt động khác có liên quan. Hiện nay có nhiều quan niệm   khác   nhau   về   nội   hàm   pháp   luật   về   sử   dụng   các   CCKT   trong  BVMT. Tuy nhiên theo các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường thì  nội hàm pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT đang được  thừa nhận, bao gồm: Thứ   nhất,   các   quy   định   của   pháp   luật   về   sử   dụng   các  CCKT trong BVMT có liên quan đến các hoạt động của các DN, cơ  sở sản xuất, kinh doanh có tác động đến môi trường. Bộ phận này   là tập hợp các quy phạm pháp luật về  BVMT nói chung và pháp  luật về sử dụng các CCKT trong BVMT nói riêng có nội dung liên 
  14. quan trực tiếp đến hành vi của các chủ  thể  trong quá trình tiến  hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường,  cũng như quy định về việc thực hiện nghĩa vụ BVMT của các chủ  thể  tham gia quan hệ  sản xuất, kinh doanh có tác động đến môi  trường. Nhóm những quan hệ  này bao gồm: (1)Quy định của pháp  luật về  chính sách tài trợ  trong quản lý BVMT như: pháp luật về  ngân  sách  nhà   nước  trong  BVMT  và   pháp  luật   về  Quỹ  BVMT;  (2)Quy định của pháp luật về  nhóm các CCKT kích thích lợi ích  kinh tế  gồm: pháp luật về  thuế  BVMT; pháp luật về  phí BVMT;  (3)Quy   định   của   pháp   luật   về   nhóm   các   CCKT   nâng   cao   trách   nhiệm xã hội trong hoạt động BVMT bao gồm: pháp luật về  ký  quỹ  để  cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác   khoáng sản; pháp luật về  đặt cọc – hoàn trả;  pháp luật về  nhãn  sinh thái; Thứ hai, pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT bao  gồm các thiết chế  thực thi pháp luật BVMT nhằm đáp  ứng yêu  cầu, nhiệm vụ  trong giai đoạn hiện nay. Đây là toàn bộ  các quy  định của pháp luật về  chế  tài xử  phạt các hành vi vi phạm pháp  luật trong BVMT. 2.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng pháp luật   về sử dụng các CCKT trong BVMT Pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong BVMT được xây   dựng và tổ chức thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản đã được   quốc tế thừa nhận, bao gồm: ­ Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả  tiền (Polluter   Pays Principle – PPP) ­   Nguyên   tắc   người   hưởng   thụ   phải   trả   tiền   (Beneficiary Pay Principle –BPP) ­ Nguyên tắc kích thích lợi ích kinh tế ­ Nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính tập trung 2.2.4. Tiêu chí cơ bản xác định mức độ phù hợp của pháp   luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường
  15. Có nhiều tiêu chí khác nhau để xác định mức độ phù hợp của   pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong BVMT, tró đó có bốn tiêu  chí cơ  bản, đó là: (1)Tính toàn diện của pháp luật về sử dụng các  CCKT trong BVMT; (2)Tính đồng bộ của pháp luật về sử dụng các  CCKT trong BVMT; (3)Tính phù hợp của pháp luật về sử dụng các  CCKT  trong BVMT; (4) Pháp luật về  sử  dụng các CCKT  trong  BVMT phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Ngoài những tiêu chí cơ  bản nêu trên, pháp luật về  sử dụng   các CCKT trong BVMT được xây dựng và hoàn thiện trong xu thế  hội nhập, tiếp cận với trình độ, mặt bằng chung của các quốc gia  phát triển trên thế  giới còn đòi hỏi phải đáp  ứng một số  tiêu chí  khác đang đóng vai trò quan trọng và rất cần thiết trong thời điểm   hiện nay, đó là: tính minh bạch, tính công khai, tính dễ tiếp cận của  pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT. 2.2.5. Nguồn của pháp luật về  sử  dụng các công cụ  kinh   tế trong bảo vệ môi trường Nguồn của pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT bao   gồm hệ thống những văn bản pháp luật do nhiều cơ quan có thẩm   quyền của Nhà nước Việt Nam ban hành. Cũng như  nguồn của  nhiều ngành luật, lĩnh vực khác, nguồn của pháp luật về  sử dụng   các CCKT trong BVMT rất đa dạng về hình thức. Nhiều quy phạm  pháp luật được ban hành trong văn bản pháp luật chung và văn bản  pháp luật riêng về lĩnh vực môi trường. Chính vì vậy, việc xác định   nguồn của pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT có ý nghĩa  trong việc xác định hiệu lực của các quy phạm pháp luật. 2.3. Kinh nghiệm một số nước về pháp luật sử dụng các  công cụ  kinh tế  trong bảo vệ môi trường và gợi mở  cho Việt  Nam 2.3.1. Kinh nghiệm pháp luật về sử dụng các công cụ kinh   tế trong bảo vệ môi trường của một số nước trên thế giới
  16. ­  Kinh nghiệm sử  dụng pháp luật về  chính sách tài trợ  để   quản lý và bảo vệ môi trường Từ  các nguồn tài chính như  NSNN, Quỹ  BVMT, Nhà nước  hỗ  trợ  cho các tổ  chức, cá nhân một khoản tiền dưới nhiều hình   thức như: trợ  giúp, cho vay với lãi suất  ưu đãi, cấp không hoàn  lại…nhằm khuyến khích, giúp đỡ  họ  và làm thay đổi hành vi và  giúp họ hướng tới hoặc lựa chọn những hành vi không có hại hoặc  có hại ít tới môi trường. Nhà nước cũng có thể thay đổi chính sách   tài trợ, bảo trợ  giá tới các lĩnh vực  ảnh hưởng môi trường. Các  nước OECD thường sử dụng 3 hình thức trợ  cấp sau đây: (1) Trợ  cấp không hoàn lại; (2)Cho vay với lãi suất thấp; (3)Trợ  cấp qua   thuế. ­  Kinh nghiệm sử dụng pháp luật về nhóm các công cụ  kích   thích lợi ích kinh tế Thuế  và  phí  BVMT  là  công  cụ  kinh  tế  được  sử  dụng  kích  thích l ợi ích kinh tế.  Công  cụ  này  nhằm  hai  mục  tiêu  chủ  yếu  là  khuyến  khích  người  gây  ô  nhiễm  giảm  lượng  chất  thải  ra  môi  trường  và  tăng  nguồn  thu  cho NSNN thông qua việc đưa chi  phí  môi  trường  vào  trong  giá  thành  sản  phẩm  theo  nguyên  tắc  “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Hiện nay ở nhiều nước, khoản thu từ thuế môi trường được  sử dụng cho ngân sách chung của Chính phủ, còn khoản thu từ phí  môi trường sẽ dùng để chi cho hoạt động BVMT như: thu gom, xử  lý chất thải, hỗ trợ nạn nhân của ô nhiễm. ­ Kinh nghiệm sử dụng pháp luật về nhóm các công cụ nâng   cao trách nhiệm xã hội trong hoạt động BVMT ­ Kinh nghiệm sử  dụng pháp luật về   chế  tài xử   phạt vi   phạm pháp luật trong bảo vệ môi trường Chế   tài   xử   phạt   vi   phạm   pháp   luật   trong   bảo   vệ   môi  trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, hành vi của cá  nhân, tổ  chức trong các hoạt động có liên quan đến môi trường.  Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, việc áp dụng chế tài xử phạt   đủ  mạnh, đảm bảo sức răn đe sẽ  có tác dụng tích cực trong việc 
  17. thực thi pháp luật bảo vệ môi trường. 2.3.2. Bài học kinh nghiệm về  pháp luật sử  dụng các   công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam Kinh   nghiệm   của   nước   ngoài   về   sử   dụng   các   CCKT   vào  hoạch định chính sách môi trường cho thấy: đối với các nước đang  phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế  thị  trường như  Việt Nam, do điều kiện luật pháp, thể  chế  chưa   hoàn thiện, trình độ  dân trí chưa cao nên có nhiều vấn đề  đặt ra  cần cân nhắc kỹ trước khi xây dựng và vận dụng pháp luật về  sử  dụng các CCKT trong BVMT. Thứ  nhất, việc sử  dụng các CCKT trong BVMT phải được  thực hiện từng bước, cẩn trọng.  Thứ  hai, các vấn đề  liên quan tới thuế, phí và lệ  phí môi  trường Thứ ba, các tác động về mặt phân phối, trợ cấp Thứ tư, các vấn đề về thể chế, trách nhiệm pháp lý với môi  trường Thứ  năm, bài học về  sử  dụng chế  tài xử  phạt nhằm nâng  cao tính nghiêm minh của pháp luật và răn đe, phòng ngừa các hành  vi vi phạm pháp luật BVMT. Thứ  sáu, việc áp dụng các CCKT với tư  cách bổ  sung chứ  không phải thay thế  cho các công cụ  mệnh lệnh – kiểm soát và  kèm theo nó có thể sử dụng them công cụ trợ cấp tài chính.  Những bài học rút ra cho Việt Nam đã trình bày ở trên là dựa  trên cơ  sở  nghiên cứu kinh nghiệm của các nước thuộc OECD và  các nước đang phát triển đã sử  dụng CCKT trong BVMT. Đồng  thời căn cứ  vào thực trạng phát triển kinh tế, những vấn đề  môi  trường cấp bách ở Việt Nam, chúng ta cũng có những bài học đầu   tiên về  sử  dụng CCKT trong BVMT kết hợp với công cụ  mệnh   lệnh kiểm soát. Tuy nhiên về nội dung cũng như  hình thức, để  sử  dụng có hiệu quả các CCKT trong BVMT cần phải tiếp tục nghiên  cứu ở mức độ sâu sắc hơn những cơ sở, phương pháp luận và cách  
  18. thức áp dụng chúng vào thực tiễn nước ta, đặc biệt là trong giai   đoạn chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường.  CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ  KINH TẾ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 3.1. Pháp luật về  chính sách tài trợ  để  quản lý và bảo vệ  môi   trường 3.1.1. Pháp luật về  ngân sách Nhà nước trong bảo vệ   môi trường NSNN về BVMT là một bộ phận của NSNN, là kế  hoạch  tài chính trong đó dự liệu các khoản thu và chi tiền tệ của quốc gia   đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực  hiện trong năm để  đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ  quản lý và BVMT của Nhà nước. Đây là một trong những CCKT  để quản lý và BVMT.  3.1.2. Pháp luật về Quỹ Bảo vệ môi trường Quỹ BVMT là một CCKT hữu hiệu để  quản lý và BVMT,  là nguồn kinh phí dành cho hoạt động môi trường, hỗ  trợ  công tác  quản lý môi trường, xử  lý các chất ô nhiễm, thậm chí tạo ra các   phúc lợi môi trường, cải thiện chất lượng môi trường của ngành,  địa phương, khu vực hay quốc gia. Theo quan điểm kinh doanh thì   Quỹ  BVMT là một cơ  chế  tài chính trong hoạt động quản trị  kinh  doanh vì mục tiêu lợi nhuận và sự phát triển bền vững của DN. Về  phương diện pháp lý, Quỹ  BVMT là một tổ  chức tài chính được  lập ra để  hỗ  trợ  cho việc sử  dụng và bảo tồn nguồn tài nguyên  một cách bền vững. Tại khoản 1 Điều 115 Luật BVMT năm 2005  quy định: “Quỹ  BVMT là tổ  chức tài chính được thành lập  ở  TW,   ngành, lĩnh vực, địa phương để hỗ trợ hoạt động BVMT”. 3.2. Pháp luật về nhóm các công cụ kinh tế kích thích lợi   ích kinh tế
  19. 3.2.1. Pháp luật về thuế bảo vệ môi trường Trong lĩnh vực môi trường, thuế cũng là CCKT quan trọng để  quản lý và BVMT. Đây được coi là CCKT lâu đời nhất trong quản  lý và BVMT. Mặc dù đến cuối những năm 80 của thế  kỷ  XX các   Chính phủ mới quan tâm đến công cụ này nhưng ý tưởng sử dụng   nó đã xuất hiện từ  năm 1920 do nhà kinh tế  học Arthur C.Pigou   đưa ra. “Thuế  BVMT là khoản thu của NSNN, nhằm điều tiết các   hoạt động có  ảnh hưởng tới môi trường và kiểm soát ô nhiễm”.  Tại Điều 112 Luật BVMT năm 2005 quy định:  “Tổ  chức, hộ  gia   đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác   động xấu lâu dài đến môi trường và sức khoẻ  con người thì phải   nộp thuế  môi trường”. Mục tiêu của thuế  BVMT là tạo ra nguồn   thu cho NSNN lấy từ những người sản xuất, kinh doanh những sản  phẩm mà việc sản xuất và tiêu dùng chúng tiềm ẩn nguy cơ gây tác  động xấu tới môi trường để bù đắp các chi phí xã hội.  3.2.2. Pháp luật về phí bảo vệ môi trường Phí BVMT là một dạng CCKT được xây dựng trên nguyên   tắc PPP và BPP. Phí BVMT có mục đích khuyến khích các nhà sản  xuất, kinh doanh đầu tư  giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô  nhiễm theo hướng tích cực, có lợi cho môi trường. Ngoài ra, phí  BVMT còn có mục đích khác là tạo ra nguồn thu cho NSNN để đầu   tư, khắc phục cải thiện môi trường. Hiện nay, phí BVMT của Việt  Nam về cơ bản có hai loại là phí nước thải và phí rác thải đô thị. 3.3. Pháp luật về nhóm các công cụ nâng cao trách nhiệm   xã hội trong hoạt động bảo vệ môi trường 3.3.1.   Pháp   luật   về   ký   quỹ   để   cải   tạo,   phục   hồi   môi   trường trong hoạt động khai thác khoáng sản  Trong lĩnh vực môi trường, ký quỹ  cải tạo, phục hồi môi   trường trong hoạt động khai thác tài nguyên là một trong những   công cụ  kinh tế  hữu hiệu để  quản lý và BVMT. Ký quỹ  để  phục  hồi môi trường được quy định lần đầu tiên trong Luật Khoáng sản,  Điều  114  Luật   BVMT   năm   2005,   Khoản  2  Điều   2   Quyết   định  
  20. 18/2013/QĐ­TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/3/ 2013 về cải  tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ  phục hồi môi trường đối với   hoạt động khai thác khoáng sản.  Theo đó, “ký quỹ  cải tạo, phục   hồi môi trường trong hoạt động khai thác hoáng sản là việc tổ   chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản nộp một khoản tiền   vào Quỹ  BVMT Việt Nam hoặc Quỹ  BVMT của  địa phương để   đảm bảo công tác cải tạo, phục hồi môi trường”. 3.3.2. Pháp luật về đặt cọc – hoàn trả Hiện  tại  Nhà  nước  chưa  có  quy  định  cụ  thể  về  đặt  cọc­ hoàn  trả.  Hệ thống  đặt  cọc ­   hoàn  trả  xuất  hiện  có tính  tự  phát  trong  một  số  lĩnh  vực, chẳng hạn trong lĩnh vực đồ uống và nước  giải  khát,  hệ  thống  đặt  cọc  ­  hoàn  trả  đã  xuất  hiện tại  các  cửa  hàng  bán  bia  chai  Hà  Nội,  nước  giải  khát  đóng  chai  Cocacola,  Fanta…  Theo   đó  khách  hàng  phải  đặt  cọc  một  khoản  tiền  (2.000  đồng/chai  bia  Hà Nội)  trước  khi  mang  chai  bia  hoặc  nước  giải  khát  đã  mua  về  nhà  và  số  tiền  đặt cọc được trả lại chỉ khi  người mua trả cho chủ cửa hàng vỏ chai còn nguyên vẹn. 3.3.3. Pháp luật về nhãn sinh thái Nhằm  thúc  đẩy  D N   xây  dựng  nhãn  sinh  thái  cho  sản  phẩm  của mình,  năm  2009  Tổng  Cục  môi  trường  đã  khởi  động  Chương  trình  Nhãn  xanh Việt Nam đã được triển khai trên phạm  vi  toàn  quốc  từ  tháng  3  năm  2009  nhằm  mục  tiêu  liên  tục  cải  thiện và duy trì chất lượng môi trường sống thông qua giảm thiểu  sử dụng và tiêu dùng năng lượng, vật liệu cũng như các loại chất  thải  sinh ra  do  quá  trình  sản  xuất,  kinh  doanh  và  tiêu  dùng  các  sản  phẩm,  dịch  vụ  tiêu dùng phục vụ đời sống, năm 2011 sẽ mở  rộng  trên  toàn  quốc  và  do  Tổng  cục  Môi  trường  cấp.  Hàng  hoá  Việt Nam  sẽ được ghi nhãn  sinh thái theo tiêu chuẩn ISO 14024. 3.4.   Pháp   luật   về   chế   tài   xử   phạt   vi   phạm   pháp   luật   trong bảo vệ môi trường
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2