intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ: Đặc điểm của từ ngữ lóng trên tư liệu của tiếng Hán và tiếng Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

31
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Đặc điểm của từ ngữ lóng trên tư liệu của tiếng Hán và tiếng Việt" nhằm phân tích, đối chiếu làm sáng tỏ đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa của từ ngữ lóng của tiếng Hán và tiếng Việt. Góp phần vào nghiên cứu tiếng lóng nói riêng, phương ngữ xã hội của ngôn ngữ học xã hội nói chung; góp phần vào tìm hiểu đặc trưng đặc trưng văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ: Đặc điểm của từ ngữ lóng trên tư liệu của tiếng Hán và tiếng Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ HOÀI TÂM ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ NGỮ LÓNG TRÊN TƯ LIỆU CỦA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9.22.90.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ
  2. 2 Hà Nội ­ 2022
  3. Công trình được hoàn thành tại:  Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Khang Phản biện 1: PGS.TS. Vũ Thị Thanh Hương  (Viện Ngôn ngữ học) Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Ngọc Hàm  (Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐHQGHN) Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Thị Thu Thuỷ                     (Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội  chấm luận án tiến sĩ họp tại............................................ vào hồi ......giờ......ngày......tháng......năm 2022.
  4. 4 Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam ­ Trung tâm Thông tin và Thư viện trường ĐH Sư phạm Hà Nội
  5. CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCÔNG BỐ     1. Nguyễn Thị Hoài Tâm, Quan niệm mới về tiếng lóng của giới Hán ngữ học   Trung Quốc. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 8 (238) 2015.     2. Nguyễn Thị Hoài Tâm, Phương thức cấu tạo từ ngữ lóng trong tiếng Việt.   Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 12 (306) 2020.     3. Nguyễn Thị Hoài Tâm, Đặc điểm của từ ngữ lóng tiếng Việt nhìn từ mặt ý   nghĩa và phạm vi sử  dụng.  Tạp chí  Từ  điển học và Bách khoa thư, số  1 (69)  2021.
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tiếng lóng là một khái niệm quen thuộc trong ngôn ngữ  học cũng như  trong đời sống. Tiếng lóng là ngôn ngữ  nói thông tục, mang đậm màu sắc địa   phương và phong vị dân gian. Phạm vi tồn tại của chúng gắn với các nhóm xã hội   khác nhau nên không được coi là ngôn ngữ chuẩn mực. 1.2. Theo lí thuyết của ngôn ngữ học xã hội về phương ngữ xã hội, xã hội tồn   tại các nhóm xã hội thì tương ứng sẽ có phương ngữ xã hội, tiếng lóng được coi là   một loại phương ngữ xã hội đặc thù. Vì phụ thuộc vào nhóm xã hội nên tiếng lóng  đang có chiều hướng phát triển mạnh. Xã hội Việt Nam và Trung Quốc từ những   thập kỉ 80 của thế kỉ 20 trở lại đây có nhiều thay đổi do tác động của nền kinh tế  thị trường và hội nhập quốc tế. Theo đó, sự phân hóa xã hội diễn ra rất mạnh, các  nhóm xã hội xuất hiện ngày một nhiều làm cho các biến thể ngôn ngữ  được hình  thành trong tiếng Việt và trong tiếng Hán cũng phát triển mạnh, trong đó có tiếng   lóng.  1.3. Trong tiếng lóng, từ  ngữ  đóng vai trò chính yếu. Nói cách khác, làm nên  tiếng lóng là các từ  ngữ  lóng. Từ  ngữ  lóng được các nhóm xã hội tạo ra vì thế  chúng mang đặc trưng của từng nhóm xã hội. Tuy nhiên, là bộ  phận từ  vựng của   một ngôn ngữ, từ ngữ lóng được hình thành không thể tách rời đặc điểm chung về  từ ngữ của mỗi ngôn ngữ. Vì vậy, việc chỉ ra đặc điểm về  cấu tạo và ngữ  nghĩa   của từ ngữ lóng là hết sức cần thiết. Điều này không chỉ góp phần nghiên cứu đặc   điểm từ  vựng ­ ngữ  nghĩa của một ngôn ngữ  mà còn giúp cho việc sử  dụng, học   tập ngôn ngữ với tư cách là một ngoại ngữ.  Xuất phát từ  những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề  tài “Đặc   điểm của từ ngữ lóng trên tư liệu của tiếng Hán và tiếng Việt”.  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận có liên quan đến tiếng lóng và từ  tư  liệu thu thập được, phân tích,  đối chiếu làm sáng tỏ  đặc điểm cấu tạo, ngữ  nghĩa của từ ngữ lóng của tiếng Hán và tiếng Việt.  Kết quả nghiên cứu góp phần vào nghiên cứu tiếng lóng nói riêng, phương ngữ 
  7. 2 xã hội của ngôn ngữ  học xã hội nói chung; góp phần vào tìm hiểu đặc trưng đặc   trưng văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ.  2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Những nhiệm vụ chủ yếu sau: 1)  Tổng quan tình nghiên cứu về tiếng lóng, hệ  thống hóa những quan điểm lí luận liên quan đến tiếng lóng; từ  đó, xây dựng   khung cơ  sở  lí luận cho luận án; (Bỏ  số  2 cũ) 2) Nghiên cứu, khảo sát đặc điểm  của từ ngữ lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt ở hai bình diện là hình thức cấu tạo   và nội dung ngữ nghĩa; 3) Thông qua việc khảo sát đặc điểm về  hình thức và nội   dung của từ  ngữ  lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt, luận án chỉ  ra những đặc  điểm chung của từ  ngữ  lóng cùng những đặc điểm riêng từ  ngữ  lóng trong mỗi   ngôn ngữ.  3. Đối tượng, phạm vi và tư liệu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Các từ  ngữ  lóng của tiếng Hán và tiếng Việt được thu thập từ  các cuốn từ  điển chuyên về từ  ngữ lóng tiếng Hán và tiếng Việt, các bài viết qua các phương  tiện truyền thông. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là khảo sát, nghiên cứu đặc điểm cấu tạo và ngữ  nghĩa   của từ ngữ lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt. Do vấn đề quan niệm từ ngữ lóng  nói riêng và tiếng lóng nói chung gắn với sự nhận diện còn khá phức tạp, nên trong  luận án này, chúng tôi giới hạn từ ngữ lóng thuộc bốn nhóm xã hội là: nhóm trộm   cướp, ma túy, mại dâm và buôn lậu. Lí do là vì, từ ngữ lóng của các nhóm xã hội   này vốn đã được khẳng định với quan niệm truyền thống là, từ ngữ lóng thuộc các  nhóm xã hội xấu trong xã hội 3.3. Tư liệu nghiên cứu  Nguồn ngữ liệu để  thu thập từ ngữ  lóng gồm: 1.472 từ  ngữ  lóng trong tiếng   Việt và 1.472 từ ngữ lóng trong tiếng Hán từ các cuốn từ điển và các văn bản báo   chí như:  ­ Nguyễn Văn Khang (2002), Tiếng lóng tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà  Nội.
  8. 3 ­ ???. ??????­????(New slang of China, New World Press) [M] ??????, 2006. (Lý Thục  Quyên – Li Shu Juan (2006), Tiếng lóng Trung Quốc mới Nhất – Đối chiếu Hán –   Anh (New slang of China, New World Press) [M], Nhà xuất bản Tân Thế giới). ­ ???.???????.???????, 2007. (Lục Tĩnh Trinh (2007), Đại từ điển tục ngữ, tiếng lóng  mới biên soạn, Nhà xuất bản Cổ tịch Triết Giang).  ­ Các bài báo in và báo mạng của các đơn vị  như: báo  Công an nhân dân, báo  An ninh thủ đô, báo An ninh thế giới... ­  Một số  phim chiếu trên truyền hình Đài truyền hình VTV1, VTV3; một số  trang diễn đàn trên phương tiện truyền thông như Facebook, Weibo… 4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp như: phương pháp thu thập ngữ liệu, phương   pháp miêu tả  ngôn ngữ  học, phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp   nghiên cứu định lượng; cùng các thủ pháp như: phân tích nghĩa tố, phân tích trường   nghĩa và biến thể từ vựng ­ ngữ pháp, các thủ pháp phân tích ngôn cảnh, thủ pháp   đối chiếu. 5. Đóng góp của đề tài 5.1. Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm rõ những thành tựu lí thuyết và thực  tiễn về tiếng lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt; làm rõ các đặc điểm cấu tạo và  đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt; đồng thời, đưa   ra những nhận xét về điểm giống và khác nhau của từ ngữ lóng trong tiếng Hán và   tiếng Việt; làm sáng tỏ  một số  đặc điểm cơ  bản của biến thể  ngôn ngữ  trong  cộng đồng người sử dụng tiếng Hán và tiếng Việt từ các cơ sở lí thuyết của ngôn  ngữ học xã hội. 5.2. Về  mặt thực tiễn:  Thông qua kết quả  nghiên cứu, luận án nhằm góp phần  vào việc tiếp cận, lý giải các từ  ngữ  lóng cũng như  việc sử  dụng chúng, nhất là  trong tình hình hiện nay  với sự  xuất hiện ngày càng nhiều các nhóm xã hội, các   biến thể ngôn ngữ  cũng theo đó ngày một đa dạng. Kết quả nghiên cứu của luận  án sẽ góp phần hữu ích trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt , nâng cao  hiệu quả sử dụng, dạy ­ học tiếng Hán và tiếng Việt. 6. Cấu trúc của luận án
  9. 4 Ngoài phần  Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được cấu trúc  thành 3 chương: Chương 1. Tổng quan về  tình hình nghiên cứu và cơ  sở  lí luận;  Chương 2. Đặc điểm cấu tạo của từ  ngữ  lóng (từ  tư  liệu tiếng Hán và tiếng   Việt); Chương 3. Đặc điểm ngữ  nghĩa của từ  ngữ  lóng (từ  tư  liệu tiếng Hán và  tiếng Việt).   CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu tiếng lóng  1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới  Xuất hiện từ  nửa cuối thế  kỉ  XX, Ngôn ngữ  học xã hội (NNHXH) quan tâm   nghiên cứu và lí giải một cách có hệ thống những diễn biến, biến động ngôn ngữ  dưới tác động của các nhân tố xã hội. Với tư cách là biến thể sử  dụng trong giao   tiếp khẩu ngữ, tiếng lóng là một loại phương ngữ xã hội. Các tác giả với các công  trình nghiên cứu về tiếng lóng trên thế giới như:  “Kansas University Slang: A new   generation”   (Dundes   Alan   và   Schonhorn   1963),  “The   language   of   the   teenage   revolution: the dictionary defeated” (Hudson,  1983) khi nghiên cứu xu hướng sử  dụng tiếng lóng của nhóm thanh niên trẻ trong xã hội đã nhận thấy có sự khác biệt  lớn giữa tiếng lóng với tiếng Anh chuẩn . v.v.;  The language of teenage groups ­   They don't speak our language  (Clem,  1976) nghiên cứu về  ngôn ngữ  của nhóm  thanh thiếu niên, cụ  thể  là các hiện tượng lệch chuẩn khi giới trẻ sử dụng tiếng   Anh Mỹ. v.v. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc và Việt Nam  1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc  Nghiên cứu về tiếng lóng là một trong những địa hạt thu hút khá nhiều các nhà  nghiên cứu Trung Quốc quan tâm tìm hiểu. Việc nghiên cứu tiếng lóng  ở  Trung  Quốc được tiến hành từ nhiều phương diện: nghiên cứu lí luận thuần túy, nghiên  cứu tiếng lóng trên các văn bản cổ, nghiên cứu tiếng lóng trên các phương tiện   truyền thông, chẳng hạn: ? ? ? ? ? ? ­ ? ? ? ?( ? ? ? Li Shujuan, 2006); ??????????????? (??? Yan  Wenpei).
  10. 5 1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam  Từ đầu thế kỉ XX, nhiều học giả trong và ngoài nước đã chú ý đến việc nghiên  cứu tiếng lóng ở Việt Nam. Một trong những nghiên cứu đầu tiên về tiếng lóng ở  Việt Nam là công trình L'argot annamite (Tiếng lóng Việt Nam) đăng trên tập san  trường Viễn Đông Bác Cổ  (EFEO) từ  năm 1905 của tác giả  J.N. Cheon. Tác giả  Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố  (1889­ 1947) từng có khảo luận  L'argot annamite de  Hanoi (Tiếng lóng Việt Nam ở Hà Nội) công bố năm 1925. Các xu hướng đánh giá  của các nhà nghiên cứu tiếng lóng là:  1/   Tiếng   lóng   là   hiện   tượng   không   lành   mạnh   trong   ngôn   ngữ,   tiếng   lóng  thường chỉ  tồn tại  ở  một xã hội phân chia giai cấp và sẽ  dần tiêu biến đi, do đó,  cần phải có thái độ bài trừ tiếng lóng một cách triệt để cũng như phải loại bỏ nó  ra khỏi ngôn ngữ  văn hóa (Nguyễn Văn Tu 1976; Nguyễn Kim Thản, Nguyễn  Trọng Báu,1982, v.v.). 2/ Cần có thái độ trọng thị và chấp nhận những tiếng lóng tốt, tích cực, để bổ  sung cho ngôn ngữ toàn dân (Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh, 1979; Nguyễn Thiện   Giáp, 2002, v.v.) 3/ Nghiên cứu toàn diện về tiếng lóng từ góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội  (Nguyễn Văn Khang, 2002). Theo tác giả, “lóng” là một biến thể   đặc thù của  NNHXH; khái niệm “tiếng lóng” được đi sâu tìm hiểu trên các phương diện nguồn   gốc;   phân  biệt   tiếng  lóng   với   biệt  ngữ,  tiếng   nghề   nghiệp,  uyển   ngữ;  những  phương thức tạo từ của từ ngữ lóng tiếng Việt và chức năng của chúng trong mối   quan hệ với tiếng Việt nói chung. 1.2. Cơ sở lí luận   1.2.1. Phương ngữ xã hội 1.2.1.1. Khái niệm phương ngữ xã hội Khi nào còn tồn tại các nhóm xã hội thì ngôn ngữ còn tồn tại các phương ngữ  xã hội. Có bao nhiêu nhóm xã hội thì có bấy nhiêu phương ngữ  xã hội. Sự  hình   thành của phương ngữ  xã hội vì vậy có liên quan chặt chẽ  đến thuộc tính xã hội   của người giao tiếp. “Mỗi một thành viên trong xã hội sẽ  được xếp vào các giai   tầng xã hội khác nhau trên cơ  sở  hàng loạt các tiêu chí như: giới tính, tuổi tác,  
  11. 6 nghề nghiệp, thành phần xuất thân, trình độ văn hóa...  Các đặc điểm về  giai tầng xã hội có tác động trực tiếp và tạo nên các đặc   điểm về ngôn ngữ trong sử dụng” (Nguyễn Văn Khang, 2012). 1.2.1.2. Biến thể ngôn ngữ, biến thể chuẩn và phi chuẩn Tác giả  Nguyễn Văn Khang (2012) cho rằng, “biến thể  ngôn ngữ  là các hình   thức tồn tại và biến đổi của ngôn ngữ, là các biểu hiện của ngôn ngữ  được sử   dụng phổ biến trong hoàn cảnh xã hội giống nhau với các đặc trưng xã hội giống   nhau”. Biến thể  ngôn ngữ  có các hình thức biểu hiện hết sức phong phú với các   cấp độ khác nhau. Cho đến nay, còn có rất nhiều ý kiến khác nhau về chuẩn ngôn   ngữ. Tuy nhiên, phần lớn các tác giả đều thống nhất: chuẩn ngôn ngữ có thể được  hiểu là những chuẩn mực được cộng đồng xã hội chấp nhận và phù hợp với quy   luật nội tại của ngôn ngữ. Trái với chuẩn là phi chuẩn, lệch chuẩn. Tuy nhiên,  thực tế chứng minh, lệch chuẩn không có nghĩa là sai. Sự phát triển của ngôn ngữ  nhiều khi có thể  biến đổi các hiện tượng lệch chuẩn, phi chuẩn trở  thành chuẩn  mực sau một thời gian sử dụng.  Vậy nên, rất khó để  phân định rạch ròi như  đúng và sai trong ranh giới giữa   chuẩn và phi chuẩn, lệch chuẩn.  1.2.1.3. Cộng đồng giao tiếp Cộng đồng giao tiếp là một phần quan trọng nhất của cộng đồng xã hội “là  một   tập   hợp   nhóm   người   cùng   giao   tiếp  với   nhau   bằng   một   ngôn   ngữ”   (L.  Bloomfield ). Cộng đồng giao tiếp là một cộng đồng xã hội dân cư sử dụng chung   một ngôn ngữ  hoặc một số  hình thức ngôn ngữ  nhất định nào đó. Trong đó, đặc   điểm chung về  phương tiện giao tiếp ­ ngôn ngữ  chính là sợi dây kết nối cộng   đồng ngôn ngữ đó.  1.2.1.4. Lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ Giao tiếp là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ, bởi lẽ ngôn ngữ sinh ra   nhằm thực hiện chức năng giao tiếp. Quá trình giao tiếp được coi là quá trình vận  dụng và lựa chọn sử  dụng ngôn ngữ. Theo đó, “lựa chọn được coi là một trong   những bản chất của việc sử  dụng và lí giải ngôn ngữ. Sự  lựa chọn ngôn ngữ   được tiến hành ở bất cứ tầng diện nào của ngôn ngữ như: ngữ âm, ngữ  pháp, từ  
  12. 7 vựng... bởi chỉ cần một sự  biến đổi nhỏ   ở  trong một tầng diện sẽ  tạo nên một ý   nghĩa dụng học sâu sắc” ( Nguyễn Văn Khang, 2012). 1.2.1.5. Thái độ ngôn ngữ  Bàn   đến lựa chọn ngôn ngữ  không thể  không nhắc   đến thái  độ  ngôn ngữ  (TĐNN). TĐNN là sự  đánh giá về  giá trị và khuynh hướng hành vi của một cộng  đồng hay cá nhân đối với một ngôn ngữ hoặc một hiện tượng ngôn ngữ. Có ba thái  độ ngôn ngữ thường được nhắc đến là thái độ trung thành ngôn ngữ, thái độ kì thị  ngôn ngữ và thái độ tự ti ngôn ngữ. 1.2.2. Một số vấn đề về từ, ngữ và nghĩa của từ 1.2.2.1. Từ, ngữ a) Từ: Từ là một đơn vị quan trọng của ngôn ngữ và thu hút được rất nhiều sự  quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, cả  trong tiếng Hán và  tiếng Việt còn chưa có cách nhìn thống nhất. Có thể thấy, từ là đơn vị mặc nhiên   tồn tại và sẵn có trong mọi ngôn ngữ, từ trong tiếng Hán và tiếng Việt có tính bất   biến về hình thức biểu đạt; Từ được cấu tạo theo các phương thức: Phương thức  cấu tạo từ đơn (thông qua việc tác động vào hình vị  làm cho nó có đặc điểm ngữ  pháp và ý nghĩa từ  vựng); Phương thức ghép (tác động kết hợp hai hoặc hơn hai   hình vị  cùng tính chất với nhau theo một trật tự  nhất  định để  tạo ra từ  mới);   Phương thức láy (tác động vào một hình vị  cơ  sở  làm xuất hiện một hình vị  láy  giống với nó toàn bộ hay bộ phận). b) Ngữ:  ở đây muốn nói đến là ngữ  cố  định “có tính bền vững về  từ  vựng và   ngữ pháp” (Diệp Quang Ban).  Xét về mặt cấu tạo từ và ngữ có cấu tạo khác nhau về số lượng các thành tố.   Tuy nhiên, xét về  mặt ý nghĩa, nghĩa của từ  và ngữ  là tương đương nhau ­ cùng  biểu thị  (định danh) một sự  vật, hiện tượng. Trong phạm vi luận  án, chúng tôi   quan niệm từ ngữ lóng gồm cả từ lóng và ngữ lóng. 1.2.2.2. Nghĩa của từ Nghĩa của từ là nội dung tinh thần mà từ biểu hiện. Nó được hình thành do sự  kết hợp và tác động của nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố nằm ngoài ngôn  ngữ  như: sự  vật, hiện tượng trong thực tế khách quan, tư  duy người sử  dụng và 
  13. 8 nhân tố nằm trong ngôn ngữ (chức năng tín hiệu học, hệ thống cấu trúc của ngôn  ngữ). Các loại nghĩa của từ  gồm: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu  thái. 1.2.3. Tiếng lóng và các khái niệm liên quan 1.2.3.1. Khái niệm tiếng lóng Hiện còn có các cách nhìn khác nhau về  tiếng lóng. Trong phạm vi luận án,   chúng tôi quan niệm, tiếng lóng là một hiện tượng ngôn ngữ  có những đặc điểm   cơ  bản sau: (1) Tiếng lóng là một biến thể của NNHXH, gắn liền với một nhóm   xã hội cụ  thể, do nhóm xã hội đó tạo ra, sử  dụng, thể  hiện rõ nét bản sắc của  nhóm xã hội đó; (2) Tiếng lóng có phạm vi sử  dụng hạn chế, phi chính thức; (3)  Tiếng lóng mang tính chất lâm thời, xuất hiện nhanh chóng và dễ thay đổi, có thể  mất đi cũng nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng có một số  ít từ  ngữ  lóng thâm nhập   được vào đời sống ngôn ngữ  của toàn dân, được chấp nhận và trở  thành nhân tố  mới trong trong ngôn ngữ toàn dân; (4) Tiếng lóng không còn mang tính bí mật và   ngày càng được mở rộng phạm vi nghĩa.  1.2.3.2. Phân biệt tiếng lóng với các khái niệm liên quan Liên quan đến tiếng lóng là biệt ngữ, thuật ngữ, tiếng nghề  nghiệp, từ  nghề  nghiệp, uyển ngữ, v.v. Bên cạnh những điểm giống nhau, giữa chúng có những  khác biệt nhất định. 1.2.3.3. Đặc điểm của tiếng lóng Với tư  cách là phương ngữ  xã hội, tiếng lóng không tạo cho mình một hệ  thống ngữ âm hay ngữ pháp riêng mà sự khác biệt chủ yếu là ở từ vựng với các nét  nghĩa lóng mới hoàn toàn hoặc “chồng lên” nét nghĩa vốn có. Những từ  ngữ  lóng  được xây dựng trên cơ  sở  trước hết là làm phân cách “cái được biểu đạt” của nó  với “cái được biểu đạt” của những từ ngữ thường dùng và cùng với đó là “đưa cái   được biểu đạt mới” vào. Vì thế người nghe buộc phải giải mã và đương nhiên chỉ  có những thành viên trong cùng nhóm xã hội mới giải được mã đó.  Như vậy các phát ngôn lóng sẽ  có những đặc điểm sau: Về cấu trúc, các phát  ngôn lóng được xây dựng trên mô hình câu của tiếng Hán và tiếng Việt, trong đó  từ ngữ lóng chỉ chiếm một bộ phận chứ không phải là tất cả.  Về ngữ nghĩa, nội  
  14. 9 dung phát ngôn thường là khó hiểu, hoặc không thể hiểu nổi. Về văn hóa, những  giá trị, bối cảnh và đặc sắc văn hóa được chứa đựng trong tiếng lóng.  1.3. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên  cứu từ ngữ lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt, cụ thể là, tìm hiểu tình hình nghiên  cứu tiếng lóng của các ngôn ngữ  khác nhau trên thế giới và đi sâu cụ  thể  vào tìm  hiểu các nghiên cứu về  tiếng lóng của tiếng Hán và tiếng Việt. Trên cơ  sở  tổng  quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi nhận thấy, chưa có  công trình nào nghiên cứu về đặc điểm từ  ngữ  lóng trên tư  liệu của tiếng Hán và  tiếng Việt.  Dựa trên hệ  thống lí luận của các tác giả  đi trước, chúng tôi có cơ  sở  lý luận  vững chắc để tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu đặc điểm từ ngữ lóng trên tư  liệu   tiếng Hán và tiếng Việt để chỉ ra đặc điểm của từ ngữ lóng về mặt cấu tạo, ngữ  nghĩa và đặc trưng văn hóa của nhóm đối tượng sử dụng trong cộng đồng.  Từ  đó luận án góp thêm những minh chứng cụ  thể  trong việc bổ  sung vào lí  luận về phương ngữ xã hội và đáp ứng các yêu cầu thực tiễn về chuẩn hóa và giáo   dục tiếng Hán và tiếng Việt trong cảnh huống mới, cũng như  chỉ  ra những điểm   tương đồng và dị biệt trong tiếng lóng của tiếng Hán và tiếng Việt. CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TỪ NGỮ LÓNG  (TỪ TƯ LIỆU TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT) 2.1. Đặc điểm cấu tạo từ ngữ lóng tiếng Hán 2.1.1. Đặc điểm chung về cấu tạo từ ngữ lóng tiếng Hán 2.1.1.1. Đặc điểm về thành tố cấu tạo    Xét từ  góc độ  các nhóm xã hội (như  trộm cướp, ma túy, mại dâm, buôn lậu)   với 1.472 từ ngữ lóng trong tiếng Hán, có thể phân loại như sau: Bảng 2.1. Từ ngữ lóng tiếng Hán thuộc các nhóm xã hội xét theo số lượng   thành tố cấu tạo Nhóm xã  Số lượng từ tố cấu tạo Tổn Tỉ lệ hội Một Hai Ba Từ 4  g (%) từ  từ tố từ  từ 
  15. 10 tố  tố tố trở  lên Trộm  31,7 115 231 79 42 467 cướp 3% 26,4 Ma túy 96 195 61 37 389 3% Mại  21,4 72 162 55 26 315 dâm 0% Buôn  20,4 67 151 58 25 301 lậu 4% 1.47 100 350 739 253 130 Tổng số 2 % (%) 23,7 50,20 17,1 8,83 100 8% % 9% % % Dựa trên kết quả thống kê này, có thể đưa ra một số nhận xét về số lượng các  từ  ngữ lóng thuộc các nhóm xã hội như  sau: từ ngữ lóng thuộc nhóm xã hội trộm  cướp   có   số   lượng   lớn   nhất:   467  (31,73%),  thuộc   nhóm   xã   hội   ma   túy:  389(26,43%), thuộc nhóm xã hội mại dâm: 315 (21,40%), thuộc nhóm xã hội buôn  lậu có số  lượng thấp nhất: 301 (20,44%); Về số lượng các từ ngữ  lóng phân loại  theo số lượng các từ tố: các từ ngữ lóng gồm 2 từ tố chiếm số lượng rất lớn: 739   (50,20%), gồm 1 từ tố: 350 (23,78%), gồm 3 từ tố: 253 (17,19%) và từ ngữ lóng từ  bốn từ tố trở lên có số lượng thấp nhất: 130 (8,83%).      Nguyên nhân của hiện tượng trên: Thứ nhất, giữa các nhóm từ ngữ lóng có sự  chênh lệch không lớn một mặt phản ánh sự tồn tại khách quan và sự tương tác của  các nhóm xã hội phi pháp này. Bên cạnh những từ  ngữ  lóng sử  dụng riêng trong  nội nhóm thì còn có bộ  phận từ  ngữ  lóng dùng chung trong các nhóm.  Thứ  hai,  trong từng nhóm xã hội có sự chênh lệch nhau giữa số lượng từ tố cấu tạo nên từ  ngữ lóng. Các hiện tượng này bước đầu cho thấy con đường hình thành của tiếng   lóng trong tiếng Hán rất đa dạng và có sức sản sinh cao. Bảng 2.2. Từ ngữ lóng tiếng Hán xét theo đơn vị từ vựng
  16. 11 Nhóm xã  Số lượng từ tố cấu  Tổn Tỉ lệ Từ  Từ  Ngữ hội g (%) Trộm  56 74 337 467 31,7 Ma túy 29 46 314 389 26,4 Mại dâm 31 59 225 315 21,4 Buôn lậu 32 54 215 301 20,4 Tổng số 148 233 1.091 1.47 100 Phần trăm   10,05 15,83 74,12 2 % 2.1.1.2. Đặc điểm về từ loại  % % % Về mặt từ loại, tiếng lóng trong tiếng Hán có thể được chia thành:  ­ Từ: Các từ lóng là danh từ có 241 từ, chiếm 14,54%; (2) là động từ có 116 từ,   chiếm 7,88%.  (3) là tính từ có 51 từ, chiếm 3,46%;  ­ Ngữ: Các ngữ lóng là ngữ danh từ có 556 ngữ, chiếm 37,77%; ngữ động từ có   417 ngữ, chiếm 28,33%; là ngữ tính từ có 118 ngữ, chiếm 8,02%.    2.1.2. Đặc điểm cụ thể về cấu tạo từ ngữ lóng tiếng Hán  2.1.2.1. Từ lóng đơn tiết trong tiếng Hán 1) Về mặt cấu tạo: các từ lóng tiếng Hán cũng được cấu tạo từ 1 từ tố (hình  vị) bằng các phương thức từ hoá hình vị (148 từ đơn). 2) Về mặt nguồn gốc, từ lóng đơn tiết tiếng Hán được chia thành từ  bản ngữ  (115 từ), ví dụ: ? cướp; ? kiếm được khoản tiền lớn và từ ngoại lai (33 từ), ví dụ: ?,  ? ketamin, ? fuck. 3) Về mặt từ loại: 77 từ đơn là danh từ, ví dụ: ? hàng lậu, ? ngực phụ nữ; có 53  từ đơn là động từ, ví dụ:  ? phạt,  ? bị bắn chết; có 18 từ đơn là tính từ, ví dụ:  ? phê  thuốc, ? chảnh, ? đẹp trai, ? xì... 2.1.2.2. Từ lóng phức trong tiếng Hán Được hình thành từ hai phương thức ghép và trùng điệp (láy).  a) Các từ lóng là từ  ghép chiếm ưu (201 từ), xuất hiện trong các nhóm xã hội:  trộm cướp, ví dụ: trộm cướp: ??? nhà tù; ma túy: ??, ?? thuốc lắc; mại dâm: ??, ??, ? gái  làng chơi; buôn lậu: ?? chuồn, chạy trốn; ?? hang ổ, tụ điểm băng nhóm... b) Các từ  lóng có cấu tạo trùng điệp (láy) gồm 32 từ. Ví dụ:   ??  tỏi, chán  chường;  ?? đàn ông; ?? mông. Về  nguồn gốc, có 192 từ  phức có nguồn gốc là từ  bản ngữ, ví dụ:  ?? bộ phận sinh dục nam,  ?? ra tù; có 41 từ phức tiếng Hán là từ có 
  17. 12 nguồn gốc ngoại lai, ví dụ: K ? Ketamin; E ? thuốc lắc; MB ?? motherfucker. 2.1.2.3. Ngữ lóng trong tiếng Hán Về số lượng các từ tố, các ngữ lóng tiếng Hán được chia thành: ngữ lóng có 2  từ  tố:  651/1.472 (42,29%);  có  3 từ  tố: 289/1.472 (19,63%); từ  4 từ  tố  trở  lên:  151/1.472 (10,26%). Trong các nhóm xã hội có sự chênh lệch nhau về số lượng các   ngữ  lóng: thuộc nhóm xã hội ma túy trộm cướp: 337/1.472 (22,89%); thuộc nhóm  xã   hội   ma   túy   314/1.472   (21,53%);   thuộc   nhóm   xã   hội   mại   dâm:   225/1.472   (15,29%); thuộc nhóm xã hội buôn lậu: 215/1.472 (14,613%).  2.2. Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ lóng tiếng Việt  2.2.1. Đặc điểm chung về cấu tạo của từ ngữ lóng tiếng Việt 2.2.1.1. Đặc điểm về thành tố cấu tạo 
  18. 13 Bảng 2.3. Từ ngữ lóng tiếng Việt thuộc các nhóm xã hội xét theo số lượng thành tố cấu tạo Số lượng từ tố cấu tạo Tỉ lệ Nhóm xã hội Một Hai Ba Từ 4 từ  Tổng (%) từ tố từ tố từ tố tố trở lên Trộm cướp 104 216 54 51 425 28,87% Ma túy 101 211 55 51 418 28,40% Mại dâm 80 182 43 39 344 23,37% Buôn lậu 69 145 36 35 285 19,36% Tổng số 354 754 188 176 1.472 100% Phần trăm  24,05% 51,22% 12,77% 11,96% 100% (%)        ­  Xét  theo nhóm  xã hội:  nhóm xã hội trộm cướp có  số  lượng lớn nhất:   425/1.472 (28,87%); nhóm xã hội ma túy: 418/1.472 (28,40%); nhóm xã hội mại  dâm: 344/1.472 (23,37%); thuộc nhóm xã hội buôn lậu: 285/1.472 (19,36%); Từ  ngữ lóng gồm 2 từ tố có số lượng lớn: 754/1.472 (51,22%); gồm 1 từ tố: 354/1.427   (24,05%);   gồm   3   từ   tố:   188/1.472   (12,77%)   và   từ   4   từ   tố   trở   lên:   176/1.472   (11,96%).  2.2.1.2. Đặc điểm về từ loại  ­ Từ  lóng là danh từ: 147/1.472 (9,99%), động từ: 105/1.472 (7,13%), tính từ:   44/1.472 (2,99%); Ngữ  lóng là ngữ  danh từ: 651/1.472 (44,23%), ngữ   động từ:  460/1.472 (31,25%), ngữ tính từ: 65/1.472 (4,41%).     ­ Về mặt phương thức cấu tạo, phần lớn từ ngữ lóng trong tiếng Việt được hình  thành trên cơ sở cấu tạo từ của tiếng Việt: sử dụng ngay các đơn vị từ vựng vốn có  của tiếng Việt và cấp thêm cho chúng một nghĩa mới ­ nghĩa lóng. Ví dụ:  bệnh viện   (nhà tù), cơm trắng (ma tuý). Về mặt nguồn gốc, từ ngữ lóng tiếng Việt được cấu  tạo chủ yếu từ các đơn vị có nguồn gốc thuần Việt; từ ngữ lóng gốc ngoại chiếm tỉ  lệ thấp. 2.2.2. Đặc điểm cụ thể về cấu tạo từ ngữ lóng tiếng Việt 2.2.2.1. Từ lóng đơn trong tiếng Việt Từ lóng đơn trong tiếng Việt có 122/1.472 ( 8,29%). Xét về mặt nguồn gốc, có  63 từ  lóng là từ  thuần Việt: 51.64%  (mổ, tép, rau, dính…); 43 từ  lóng là từ  Hán 
  19. 14 Việt: 35.25% (thạch, yêu, cửu, lậm), 17 từ  lóng là từ   Ấn Âu: 13,93%  (some, đô,  ken, swing). Xét về  mặt từ  loại, có 69 từ  đơn là danh từ  (thạch, đoàn, vé), 38 từ  đơn là động từ (dính, bắn, chịch), 15 từ đơn là tính từ (xộp, khủng)... 2.2.2.2. Từ lóng phức trong tiếng Việt Từ   lóng   phức   trong   tiếng   Việt   gồm   từ   ghép   và   từ   láy,   trong   đó:   từ   ghép:  259/1.472 (17,60%),  từ  láy:  4/1.472 (0,27%).  Xét về  mặt nguồn gốc, các từ  lóng  phức trong tiếng Việt đa dạng về  nguồn gốc, chẳng hạn: từ  thuần Việt: 71, từ  Hán Việt: 107, từ có nguồn gốc Ấn Âu: 38 (xăng xanh, sêm sêm, ô ran sếch). 2.2.2.3. Ngữ lóng trong tiếng Việt Các ngữ  lóng theo nhóm xã hội có sự  chênh lệch nhau ít. Cụ  thể: ma túy:  311/1.472   (21,13%),   tr ộm   c ướp:   306/1.472   (20,79%),   m ại   dâm:   259/1.472  (17,06%), buôn lậu: 211/1.472 (14,33%). Xét về mặt từ loại, ngữ danh từ chi ếm  tỉ  lệ  cao nhất: 326/1.472 (47,80%), ng ữ   động từ  chiếm: 287/1.472 ( 42,08%),   ngữ  tính từ  : 69/1.472 (10,12%). Xét về  mặt nguồn gốc, có 229 ngữ  danh từ  có  nguồn gốc thuần Việt; có 401 ngữ Hán Việt và  52 ngữ lóng gốc Ân – Âu. 2.3. Nhận xét      (1) Có thể  nhận thấy, các từ  ngữ  lóng trong cả  hai ngôn ngữ  tiếng Hán và   tiếng Việt đều dựa trên các phương thức cấu tạo từ, ngữ của mỗi ngôn ngữ. Đó   là, có thành tố  là các từ  tố  để  tạo nên từ  đơn, từ  ghép và các ngữ  danh từ, ngữ  động từ  và ngữ  tính từ. Các từ  ngữ  lóng là láy trong tiếng Việt, trùng điệp trong   tiếng Hán chiếm một số  lượng không đáng kể; (2) Các từ  ngữ  lóng trong tiếng   Hán cũng như  trong tiếng Việt đều tận dụng các từ  ngữ  nước ngoài và dựa vào  cách phỏng âm, mô phỏng meme để tạo nên các từ lóng; (3) Trong tiếng Việt, còn   có hiện tượng như thay đổi ít nhiều về phụ âm đầu để tạo ra từ ngữ lóng (nhị: bị;  lục: mục) hoặc “hòa vần” để  tạo ra từ  ngữ  lóng (bát:bét, súng: séng); (4) Có thể  tạo từ ngữ lóng bằng vỏ ngữ âm xa lạ: Tạo từ ngữ lóng bằng cách gán cho vỏ ngữ  âm xa lạ một nét nghĩa mới ­ nét nghĩa mặc định chỉ do các thành viên trong nhóm   mới có thể hiểu; (5) Nhiều từ ngữ lóng vốn là từ song tiết được bỏ bớt một thành  tố cấu tạo, thường giữ lại thành tố bị mờ nghĩa, không được sử dụng độc lập; (6)  Đối với tiếng Hán, từ  ngữ  lóng còn được tạo ra dựa vào tính tượng hình của các  chữ Hán. 2.4. Tiểu kết chương 2
  20. 15 Chương 2 tìm hiểu các đặc điểm của tiếng lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt   trên các phương diện: đặc điểm tạo từ  ngữ  lóng, phương thức tạo từ  ngữ  lóng.  Dựa trên sự  phân loại từ  ngữ  lóng, chúng tôi đã lần lượt phân tích đặc điểm cấu  tạo của từ lóng và ngữ lóng trong tiếng Hán và tiếng Việt trên các phương diện từ  loại, nguồn gốc và mô hình cấu tạo.  CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ LÓNG  (TỪ TƯ LIỆU TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT) 3.1. Đặc điểm chung về ngữ nghĩa của từ ngữ lóng (Từ tư liệu tiếng Hán và  tiếng Việt) 1) Với tư  cách là phương ngữ  xã hội, tiếng lóng không tạo cho mình một hệ  thống ngữ âm hay ngữ pháp riêng mà sự  khác biệt chủ  yếu là ở  mặt từ  vựng. Sự  khác biệt này được thể hiện ở các từ ngữ lóng. Những từ ngữ lóng được xây dựng   trên cơ sở trước hết là làm phân cách “cái được biểu đạt mới” với “cái được biểu   đạt” của những từ ngữ thường dùng. Như vậy các phát ngôn lóng sẽ có những đặc  điểm trùng là: Về cấu trúc, các phát ngôn lóng được xây dựng trên mô hình câu của  tiếng Hán và tiếng Việt, trong đó từ  ngữ  lóng chỉ  chiếm một bộ phận chứ  không  phải là tất cả; Về ngữ nghĩa: nội dung phát ngôn thường là khó hiểu, hoặc không  thể hiểu nổi bởi tính “đóng”, “nội bộ nhóm” về nghĩa của từ ngữ ngữ lóng. 2)  Ở  chương 2, chúng tôi đã trình bày đặc điểm cấu tạo của các từ  ngữ  lóng  trong tiếng Hán và tiếng Việt có liên quan đến đặc điểm ngữ  nghĩa của chúng.   Chẳng hạn, muốn trở  thành nghĩa của từ  ngữ  lóng thì chúng buộc phải chuyển   nghĩa (chuyển từ  nghĩa ngữ  văn sang nghĩa lóng). Bên cạnh đó, từ  ngữ  lóng còn   được tạo ra từ các vỏ ngữ âm vốn không có nghĩa lóng, nhờ được cấp thêm nghĩa   lóng để trở thành từ  ngữ lóng. Cũng vậy, không ít các từ  ngữ  lóng được tạo ra từ  các từ ngữ tiếng nước ngoài nhờ cấp thêm nghĩa hoặc nét nghĩa. Đặc biệt, từ ngữ  lóng, do phạm vi nghĩa có tính “ cá biệt hóa” nội nhóm cao, đảm bảo tính bảo mật   nên rất được các nhóm đối tượng xã hội đen (nhóm đối tượng có xu hướng vi   phạm pháp luật) sáng tạo và sử dụng. 3) Trong sự phát triển nghĩa của từ, người ta thường nhắc đến khái niệm “ mở  rộng nghĩa” và “thu hẹp nghĩa”. Tuy nhiên, chúng tôi muốn dùng khái niệm “khái 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2