intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội Nhật Bản

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội Nhật Bản" hướng đến mục đích làm sáng tỏ Thiền tính trong thơ haiku trong mối tương quan với tranh mặc hội và thông qua việc so sánh đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai loại hình. Về cơ bản, mục đích nghiên cứu chính của luận án vẫn là khám phá những giá trị thẩm mĩ sâu sắc, độc đáo của thơ haiku.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội Nhật Bản

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN DIỆU MINH CHÂN NHƯ THIỀN TÍNH TRONG THƠ HAIKU VÀ TRANH MẶC HỘI NHẬT BẢN Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 9.22.02.42 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
  2. 2 HÀ NỘI ­ 2022 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI KHOA NGỮ VĂN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THỊ MAI LIÊN TS. NGUYỄN THỊ DIỆU LINH Phản biện 1: PGS. TS. ĐỖ THU HÀ ­Trường Đại học  KHXH&NV­ ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS. TS. PHÙNG NGỌC KIÊN – Viện Văn học Phản biện 3: PGS. TS. NGUYỄN THỊ MAI CHANH – Trường  ĐHSP Hà Nội Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp  tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng …. năm 2022.
  3. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam Trường Đại học Sư phạm Hà Nội DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ  LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.   Nguyen   Dieu   Minh   Chan   Nhu   (2021),   “Approaching   Classical   Japanese  Haiku Poetry through the Perspective of Ink Painting Art and Application to  Teaching Foreign Literature for Literature Pedagogy Students at Dong Thap  University,” Tạp chí Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 5(2),52­60. 2.   Nguyễn   Diệu   Minh   Chân   Như   (2022),   “Cảm   nghiệm   Thiền   trong   thơ  haiku và tranh mặc hội cổ  điển”,  Tạp chí khoa học trường Đại học Sư   phạm thành phố Hồ Chí Minh, 19(1), 31­41. 3. Nguyễn Diệu Minh Chân Như (2022), “The technique of emptiness in haiku  poetry and the white space in Japanese ink wash paintings”,  Tạp chí Khoa   học và Công nghệ Đại học Thái Nguyên, 227(4), 100­108. 4.   Nguyễn   Diệu   Minh   Chân   Như   (2021),   “Aesthetic   sensibility   of   ưabi   in  haiku poetry and Japanese classic ink wash paintitngs”,  Văn học và ngôn   ngữ trong thế giới đương đại –Bản sắc và hội nhập, Trường Đại học Sư  phạm Hà Nội, Khoa Ngữ  Văn, NXB. Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội, 504­ 517.
  4. 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài:  1.1. “Thi trung hữu họa; họa trung hữu thi ” là nhận định của Tô Đông  Pha   (1037  ­   1101)  dành  cho  những   bài   thơ   cũng   như   những   bức   họa   của  Vương Duy (701 ­ 761). Các nhà phê bình nghệ thuật trước giờ vẫn xem đó là  nhận định khái quát, đề cập đến tính khả dĩ  của mối liên hệ giữa thơ và họa,  ở Trung Quốc nói riêng và ở phương Đông nói chung. Thế nhưng làm rõ mối  liên hệ này lại là một công việc đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu. Cơ sở lí  luận của mối liên hệ đó là gì? Những biểu hiện cụ thể của nó ra sao? Xuất   phát từ  thôi thúc trên, tác giả  luận án muốn đi sâu vào tìm hiểu mối liên hệ  này, thông qua việc nghiên cứu hai thể loại nghệ thuật cụ thể: Thơ haiku và  tranh mặc hội 1.2. Thơ haiku (tiếng Nhật: ? ? , âm Hán Việt: Bài cú)la môt thê th ̀ ̣ ̉ ơ đăc̣   ́ ̉ ̣ ̉ ́ ̉ săc cua thi quôc Nhât Ban. Ngay nay, trong thê ki XXI, t ́ ̀ ừ môt thê th ̣ ̉ ơ  đăc̣   trưng cua Nhât Ban, th ̉ ̣ ̉ ơ  haiku đã lan toa theo h ̉ ương toan câu hoa. Đi ́ ̀ ̀ ́ ều đó  cho thấy, thơ haiku có giá trị rất lớn lao đối với đời sống tinh thần nói chung,   cũng như  đời sống văn học nói riêng của nhân loại. Vi vây, nghiên c ̀ ̣ ưu th ́ ơ  ́ ược linh hôn Nhât Ban vây.   haiku se năm băt đ ̃ ́ ̀ ̣ ̉ ̣ 1.3. Tranh măc hôi (sumi­e  ̣ ̣ ̀ ̣ ̀ ̉ ̣ ???) ­ cung con goi la tranh thuy măc ­ là m ̃ ột  loại tranh ve băng bút lông phô biên  ̃ ̀ ̉ ́ ở  Đông Á nhât la Trung Quôc va Nhât ́ ̀ ́ ̀ ̣  ̉ ̀ ̣ ̣ ̀ ̣ ̣ Ban, la môt loai hinh nghê thuât mang hôn côt Đông A noi chung va Nhât Ban ̀ ́ ́ ́ ̀ ̣ ̉   ́ ̀ ̉ ̣ ̣ ́ ̀ ́ ̣ ̀ noi riêng. Tim hiêu tranh măc hôi cho ta cai nhin thâu triêt vê tâm hôn Đông A, ̀ ́  ̣ tâm hôn Nhât Ban. ̀ ̉ 1.4. Thiền (tiếng Nhật: zen­shū (??) noi đây đu la Thiên na co nguôn gôc ́ ̀ ̉ ̀ ̀ ́ ̀ ́  từ Ch’an trong tiêng Trung. T ́ ừ Ch’an co nguôn gôc t ́ ̀ ́ ừ từ Dhyana trong tiêng ́   ̃ ̀ ̣ ự. Đên thê ki XII,Thi Sanskrit – co nghia la tich l ́ ́ ́ ̉ ền được truyền bá sang Nhật   Bản với công lao của Thiên s ̀ ư Eisai Myoan (1141 ­ 1215), và sau đó là Thiền   sư  Dogen (1192­1333). Sự  tâp trung tinh l ̣ ực tu Thiên đem lai hiêu qua trong ̀ ̣ ̣ ̉   ̣ ̃ ực. Vi thê ma Thiên thâm nhâp, lan toa vao moi ngo ngach cua đ moi linh v ̀ ́ ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ̣ ̃ ́ ̉ ời   ̣ sông văn hoa Nhât Ban, ́ ́ ̉  từ  đó làm nên tinh hoa của trà đạo, hoa đạo, kiếm  đạo, cung đạo, và, đặc biệt là thơ haiku và hội họa.  1.5.  Cung năm trong tr ̀ ̀ ương anh h ̀ ̉ ưởng cua Thiên tông, th ̉ ̀ ơ  haiku và  tranh mặc hội có mối tương giao sâu sắc. Với cốt tủy là tinh thần Thiền, cả hai 
  6. ngành nghệ thuật này đều có những cơ sở  chung có thể soi chiếu vào nhau ở  các phương diện như cảm thức thẩm mĩ, phương thức nghệ thuật và phương  diện tiếp nhận, cảm nghiệm. Trên cơ sở mối tương giao và những giá trị cốt  lõi của hai ngành nghệ  thuật này cùng với niềm đam mê của bản thân ở  cả  hai lĩnh vực thơ ca và hội họa Nhật Bản, chúng tôi đã tìm thấy động lực lớn  lao thôi thúc mình nghiên cứu đề tài Thiền tính trong thơ Haiku và tranh mặc   hộiNhât Ban ̣ ̉ , với mong  ước phát huy phần nào giá trị  cao quý của hai ngành  nghệ  thuật này trên phương diện khoa học và thực tiễn sang tac. Tuy nhiên, ́ ́   cho đên nay, nh ́ ưng công trinh nghiên c ̃ ̀ ứu khoa hoc so sanh hai linh v ̣ ́ ̃ ực nay  ̀ ở  Việt Nam thực sự con it oi, ch ̀ ́ ̉ ưa tương xưng v ́ ơi gia tri cua no. Xuât phat t ́ ́ ̣ ̉ ́ ́ ́ ư ̀ thực tê đo, chung tôi chon đê tai  ́ ́ ́ ̣ ̀ ̀ Thiên tinh trong th ̀ ́ ơ haiku va tranh măc hôi ̀ ̣ ̣  ̣ Nhât Ban ̉  lam đôi t ̀ ́ ượng nghiên cứu cho luân an cua minh. ̣ ́ ̉ ̀ 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hương t ́ ơi muc đich lam sang to Thiên tinh trong th ́ ̣ ́ ̀ ́ ̉ ̀ ́ ơ haiku trong   mối tương quan với tranh mặc hội và thông qua việc so sánh đối chiếu những  điểm tương đồng va khac biêt gi ̀ ́ ̣ ữa hai loại hình, kham pha thêm nh ́ ́ ững giá trị  thẩm mĩ sâu sắc, mới mẻ của thơ haiku.  2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án nghiên cứu bốn phương diện của vấn đề:  ­ Cơ sở lí luận và thực tiễn của mối tương quan giữa thơ ca và hội họa   trong văn hóa truyền thống Nhật Bản. ­ Những tương đồng và khác biệt về mặt cảm thức thẩm mĩ giữa thơ  haiku và tranh mặc hội.  ­ Những tương đồng và khác biệt về  phương thức biểu hiện của thơ  haiku và tranh mặc hội.  ­ Cảm nghiệm đối với tác phẩm tranh mặc hội và thơ haiku 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là điểm tương đồng và dị  biệt giữa  thơ  haiku và tranh mặc hội Nhật Bản với ba biểu hiện cụ  thể: Cảm th ức   thẩm mĩ Thiền, phương thức biểu đạt Thiền và nghệ  thuật cảm nghiệm   Thiền. Phạm vi khảo sát chủ  yếu của luận án là các tác phẩm thơ  haiku và 
  7. tranh mặc hội Nhật Bản trong giai đoạn cổ  điển (từ  thế  kỉ  XVII đến năm  1868)           4.Các hướng tiếp cận vàphương pháp nghiên cứu          Trong luận án, chúng tôi tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn   hóa, kết hợp với góc nhìn thi pháp học và mĩ học tiếp nhận.           Nhằm giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, chúng tôi áp  dụng những pháp sau đây mà tôi cho là phù hợp với đối tượng và lĩnh vực  nghiên cứu:Phương pháp so sánh loai hinh,  ̣ ̀ Phương phap liên nganh ́ ̀ , phương  pháp lịch sử  xã hội, phương pháp phân tích ­ tổng hợp, phương pháp khảo  sát, thống kê. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận án góp phần lam ro m ̀ ̃ ối tương quan giữa thơ ca và hội họa trong nền   nghệ thuật cổ điển phương Đông,             Thông qua việc khảo cứu các tác phẩm cụ thể, làm sáng tỏ  một số  vấn đề  lí luận về  Phương pháp nghiên cứu liên ngành và phương pháp so  sánh loại hình trong nghiên cứu văn học. Luận án cung cấp một vốn hiểu biết cơ  bản nhất, giúp độc giả  tiếp   nhận tốt các tác phẩm thi họa của nền văn hóa Nhật Bản bằng nghệ  thuật   cảm nghiệm. Luận án cung h ̃ ướng đến việc giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về  Thiền và văn hóa Thiền. 6. Đóng góp mới của luận án Luận án làm rõ mối tương quan giữa thơ  ca và hội họa trên phương  diện lí luận và khảo sát trên thực tiễn, làm rõ giao điểm giữa thơ  haiku và  tranh mặc hội. Thông qua nghiên cứu điểm chung này, luận án làm sáng tỏ  những đặc trưng độc đáo của cả hai thể loại thuộc hai ngành nghệ thuật.   Luận án khảo cứu những tác phẩm thơ  haiku và tranh mặc hội, là   những thể  loại rất đặc biệt của nghệ  thuật phương Đông nói chung, nghệ  thuật Nhật Bản nói riêng, và dựa trên việc phân tích giá trị tư tưởng và thẩm   mĩ, nghiên cứu phong cách biểu hiện của những tác phẩm cụ  thể, đề  xuất   một hướng tiếp cận hiệu quả  đối với những tác phẩm này, đó là tiếp cận  theo phương thức cảm nghiệm. 7. Kết cấu luận án
  8. ̀ ở đâu, Kêt luân, Tài li Ngoai phân M ̀ ̀ ́ ̣ ệu tham khảo và Phụ  lục, nôi dung ̣   ̉ ̣ ́ ược triên khai theo b chính cua luân an đ ̉ ốn chương như sau: Chương 1: Tổng quan vân đê nghiên c ́ ̀ ưú Chương 2: Cảm thức thẩm mĩ Thiền trong thơ haiku và tranh mặc hội Chương 3: Phương thức nghệ thuật Thiền trong thơ haiku và tranh mặc  hội Chương 4: Nghệ thuật cảm nghiệm Thiền trong thơ haiku và tranh  mặc hội. Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Giới thuyết khái niệm Thiền tính Thiền tính được tác giả luận án hiểu như là một phẩm tính của Thiền,   tồn  tại   một   cách  xuyên  thấm   ở   cả   phương  diện   cảm   thức   thẩm   mĩ   lẫn  phương thức sáng tác của tác phẩm, khu biệt các tác phẩm thuộc nghệ thuật  Thiền với các tác phẩm thuộc các dạng thức nghệ thuật khác không chịu sử  ảnh hưởng của Thiền. Những phẩm tính đó, về phương diện diện cảm thức  thẩm mĩ là: đề  cao vẻ đẹp giản phác nguyên sơ  cua tạo vật, được nhìn qua  cái nhìn trực tiếp thể hội, không thông qua tư duy suy lí. Các tác phẩm nghệ  thuật Thiền do vậy thường có khuynh hướng từ trong sự cô đơn tịch lặng mà  phát lộ  vẻ  đẹp sâu thẳm mang tính chất tâm linh. Từ  những đặc trưng sáng  tạo nghệ thuật và những đặc thù của tác phẩm thuộc nghệ thuật Thiền như  trên, người thưởng thức cũng phải có những cách thức tiếp nhận phù hợp. Ở  đây, trong luận án này, chúng tôi đề  xuất một phương thức tiếp nhận là  phương thức cảm nghiệm. 1.2. Tình hình nghiên cứu 1.2.1.Trên thế giới 1.2.1.1. Nghiên cứu mối tương quan thơ ca và hội họa Những câu hỏi về mối liên quan giữa hội họa và các ngành nghệ thuật  như  văn chương, trong lịch sử  nghệ  thuật của nhân loại,   được giải quyết  một cách cơ bản trong công trình nghiên cứu vể lịch sử hội họa của tác giả  Wendy Beckett.Công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất mối tương quan thơ  ca 
  9. và hội họa trên phương diện lí luận, là tác phẩm  Laocoon – an Essay upon   the Limits of Painting and Poetry  của Gothold Ephraim Lessing  (1729­1781)  được Ellen Frotingham dịch sang tiếng Anh năm 1873, đã nêu lên quan niệm  của tác giả trong sự phân biệt cốt lõi giữa thơ ca và hội họa. Ngoài ra, ta có   thể kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu người Nga như Văn học và   các loại hình nghệ thuật của A.N. Đimitriêva; Các loại hình nghệ  thuật của  V. Kôginốp. Đặc biệt, trong những năm cuối của thế  kỉ  hai mươi, giáo sư  triết học người Pháp, Francoise Jullien viết một công trình nghiên cứu về  điểm tương đồng giữa hội họa và thơ ca dựa trên tư tưởng và mĩ học Trung   Hoa.  1.2.1.2. Nghiên cứu tương quan thơ haiku và tranh mặc hội Từ cơ sở mối tương đồng về tính giản đơn, mà trong tập sách nhỏ  Hài  cú nhập môn, tác giả  Harold Henderson đã chỉ  ra mối tương quan chặt chẽ  giữa  thi pháp hư  không trong  thơ  haiku và  khoảng trống không bạch trong  tranh mặc hội. Donna Mann và Carol Beehler, hai nhà nghiên cứu viết chung  trong công trình Edo – Art in Japan 1615­1868 sự dung hợp giữa thơ ca và hội  họa Nhật Bản là  nghệ  thuật thi họa.  Đó là một hình thức nghệ  thuật chịu  ảnh hưởng sâu đậm của Thiền. Các công trình như  Japanese art  của  Joan  Stanley – Baker; The art of Japan của Elizabeth Benskin cũng chỉ  ra: Thi họa  là một hình thức đặc biệt của nền văn nghệ Nhật Bản, hình thành vào khoảng  từ thế kỉ thứ XII đến thế kỉ thứ XIV, và được tiếp tục phát triển dưới thời Edo,   khi thể  thơ  haiku ra đời, dưới sự   ảnh hưởng gần như  xuyên suốt của Thiền   tông.  1.2.1.3. Nghiên cứu Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội            Các học giả phương Tây trong thế kỉ XX, như Keneth Kraft, Andrew  Juniper, R. H. P Mason & J.G. Caiger, C. Eliot, nhìn chung, vẫn nêu lên cách  nhìn duy lí về  Thiền và  ảnh hưởng của Thiền đối với nghệ  thuật. Riêng  Eugen Herrigel, trong tập tiểu luận Thiền trong nghệ thuật bắn cung đã trình  bày một cách tiếp cận đối với văn hóa Thiền và nghệ thuật Thiền theo đúng   tinh thần của nó: đó là tinh thần thực chứng.Từ những công trình nghiên cứu  trên, người ta bước đầu chứng minh được những mối tương quan quan trọng  về giữa Thiền với thơ haiku và tranh mặc hội trong dòng chảy văn hóa Nhật  Bản. 
  10. 1.2.2.Ở Nhật Bản 1.2.2.1 Nghiên cứu mối tương quan thơ ca và hội họa Giáo sư Okakura Kakuzo trong tập tiểu luận  Ideals of the East đã chỉ ra  ra rằng, trong tiền đề  về  tính lưỡng lập của nền văn hóa nghệ  thuật  Nhật  Bản, thơ haiku là đặc sản văn hóa của người Nhật và mặc hội là yếu tố  du  nhập   từ   nền   văn   hóa   nghệ   thuật  ngoại   lai   là  Trung   Hoa.  Tác   phẩmZen   Brushwork của Tanchu Terayama đã chỉ ra thư pháp là một ngành nghệ thuật  chịu   sự   ảnh   hưởng   sâu   sắc   của   Thiền.  Các   nhà   nghiên   cứu   Nhật   Bản  khácnhư  Takashima   Shuji,   Noriyoshi   Tamaru,Noritake   Tsuda  cũng   đã   cung  cấp những phân tích cụ thể đối với những tác phẩm cụ thể thuộc  nghệ thuật  dung hợp giữa thơ ca, hội họa và thư pháp.  1.2.2.2. Nghiên cứu tương quan thơ haiku và tranh mặc hội Nhà nghiên cứu Kenneth Yasuda, trong công trình nghiên cứu về  hội  họa của Nhật Bản, một cũng chỉ ra đặc trưng và sức hấp dẫn mĩ học này của   tranh mặc hội, đặc biệt là cảm giác giản đơn cô tịch trong tranh với sự tương  đồng hết sức đặc biệt với tính chất wabi và sabi trong thơ haiku. Trong công  trình nghiên cứu của Ueda Makoto về thơ Basho, tác giả đã khẳng định: Cảm   giác   cô   tịch  chính   là   phong  vị   riêng   trong  thơ   Basho.   Takashima   Suji,   khi   nghiên cứu về tranh của Koetsu, đã chỉ  ra, thơ  haiku và tranh mặc hội, trong   một tác phẩm mà ông gọi là nghệ thuật dung hợp 1.2.2.3. Nghiên cứu Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội Các công trình nghiên cứu về Thiền  ở  ở Nhật Bản trong nhiều thập kỉ  gần đây hầu hết đều có liên hệ  với biểu hiện của Thiền trong nghệ thuật.   Trong  Thiền luận, tác giả  D. T. Suzuki đã khẳng định tầm quan trọng của  Thiền đối với đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của Nhật Bản nói chung,   và của Á Đông nói riêng, cũng như  nhấn mạnh đến yếu tố  kinh nghiệm cá  nhân của Thiền.  Luận điểm này được triển khai xuyên suốt trong các công  trình khác của ông như: Thiền và văn hóa Nhật Bản, Thiền học nhập môn,   Thiền­Pháp môn vô niệm.v.v..Tập tiểu luận  Trà  đạo  của Okakura Kakuzo  bàn rất rõ về  mối tương quan giữa Thiền, hội họa và thơ  ca và các ngành  nghệ thuật khác như cung đạo, trà đạo trong văn hóa nghệ thuật ở Nhật Bản.  1.2.3. Ở Việt Nam 1.2.3.1. Nghiên cứu mối tương quan thi họa
  11. Mối tương quan giữa thơ  ca và hội họa nói chung, đã được quan tâm  nghiên cứu ở Việt Nam trong những năm gần đây. Các công trình tiêu biểu có   thể  kể  đến như:  Văn học và các loại hình nghệ  thuật  của tác giả  Lê Lưu  Oanh. Giáo trình Lí luận văn học tập I, do Phương Lựu chủ biên cũng có đề  cập đến sự  tương đồng và khác biệt giữa văn học và hội họa. Đáng chú ý   trong nhóm các công trình nghiên cứu  ở  Việt Nam về vấn đề  mối liên quan  giữa thơ  ca và hội họa, ta còn có thể  kể  đến công trình nghiên cứu  Vương   Duy và Buson – “Thi trung hữu họa ” của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt Trinh.   Trong công trình này, tác giả  đã xem xét mối liên hệ  giữa thơ ca và hội họa  như một đặc trưng cơ bản của mĩ học phương Đông. 1.2.3.2. Nghiên cứu tương quan thơ haiku và tranh mặc hội Những công trình nghiên cứu về  thơ  haiku và tranh mặc hội  ở  Việt  Nam hiện nay hầu hết đều mang tính chuyên sâu trong từng lĩnh vực Về thơ  haiku, có thể  kể  đến các công trình tiêu biểu như: Giáo trình Văn học Nhật   Bản từ  khởi thủy đến 1868,  Câu chuyện văn chương phương đông  của tác  giả Nhật Chiêu; Hợp tuyển văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến giữa thế  kỉ   XIX  của tác giả  Mai Liên. Về  tranh thủy mặc, hay tranh mặc hội,  ở  Việt   Nam hiện nay có những công trình tiêu biểu như:  Tổng quan nghệ  thuật   Đông phương – Hội họa Trung Hoa  của Khải K. Phạm, Trương Cam Khải,   Hoài Anh và Nguyễn Thành Tống và Hội họa cổ Trung Hoa, Nhật Bản của  Hoàng Công Luận, Lưu Yến 1.2.3.3. Nghiên cứu Thiền tính trong thơ haiku và tranh mặc hội Ở  Việt Nam, các công trình nghiên cứu về  Thiền trong tranh mặc hội   chưa được công bố  nhiều. Chủ  yếu vẫn là các công trình nghiên cứu về  tương quan giữa Thiền và thơ trong văn hóa phương Đông nói chung và trong   văn hóa Nhật Bản nói riêng như:  Thi pháp thơ  Đường  của tác giả  Nguyễn  Thị  Bích Hải;  Nhật Bản trong chiếc gương soi  của  nhà nghiên cứu  Nhật  Chiêu; Nhật Bản từ mĩ học đến văn chương, tác giả Nguyễn Phương Khánh. Chương 2. CẢM THỨC THẨM MĨ THIỀN TRONG THƠ HAIKU VÀ TRANH MẶC HỘI           2.1.  Khái niệm cảm thức thẩm mĩ Thiền Bigaku (? ? ) là khái niệm được hình thành từ  thời Edo, tương  ứng với 
  12. khái niệm Aesthetic của phương Tây. Khái niệm này nêu lên một dạng nhận  thức về cái mà trong đó có sự ảnh hưởng một cách tổng hòa giữa các yếu tố  văn hóa, nghệ  thuật và tôn giáo mang màu sắc Nhật Bản. Một trong những   yếu tố tôn giáo ấy chính là Thiền với những yếu tố như sabi, wabi, yugen­ là  những cảm thức về cái đẹp của sự u huyền, tịch tĩnh và vẻ đẹp đơn sơ, mộc   mạc.  Thiền từ lâu đã thâm nhập vào nhiều phương diện trong đời sống văn  hóa Nhật Bản đến mức nó không chỉ tồn tại như một tông phái của Phật giáo  tại quốc gia này, mà như một thuộc tính văn hóa và tâm linh, mang đậm dấu  ấn của tinh thần và phong cách Nhật Bản. Rất nhiều tác phẩm thơ ca và hội   họa Nhật Bản đã trở  thành biểu hiện nghệ thuật cụ thể sinh động của tinh  thần Thiền, thở hơi thở của Thiền.  Các khái niệm wabi, sabi và yugen, cố nhiên, thuộc về các phạm trù mĩ  học Nhật Bản. Các cảm thức này đều có lịch sử hình thành cụ thể. Cảm thức   thẩm mĩ yugen hình thành vào thời kì Kamakura (1192 – 1333); cảm thức   thẩm mĩ wabi và sabi được hình thành vào thời kì Muromachi (1333 – 1603) .  Đây là các phạm trù mĩ học mang đậm bản sắc dân tộc, có nguồn gốc từ  Shinto –Thần đạo, một tôn giáo cổ của Nhật Bản, nhưng nhìn vào thời gian  xuất hiện của các phạm trù thẩm mĩ trên, ta thấy một sự thực rõ ràng rằng,   chúng xuất hiện gần như cùng một lúc với sự xuất hiện của Thiền tông trên  đất nước Phù Tang.  Phật   giáo   từ   Trung   Hoa   truyền   sang   Triều   Tiên   và   Nhật   Bản   vào   khoảng thế kỉ thứ VI. Thiền tông được xác định là hiện diện ở Nhật Bản còn   muộn hơn nữa: Khoảng thế  kỉ  thứ  XII, với các tên tuổi văn hóa lớn như  Thiền sư  Eisai, (Vinh Tây: 1141­1216); Thiền sư  Dogen (Đạo Nguyên:1200­ 1253); Thiền sư  Muju (Vô Trú: 1226­1312). Nói về  Shinto, hay Thần đạo, ta  thấy, mặc dù thuật ngữ  Shinto chỉ  xuất hiện  ở  Nhật Bản vào khoảng giữa  thế  kỉ  thứ  VI, nhưng, theo Murakami Shigeyoshi, tôn giáo này đã ra đời  ở  Nhật Bản vào thời kì đồ đá, và chứng cứ xác thực cho kết luận này là tượng  một người phụ nữ mang dấu ấn tôn giáo của Shinto đã được phát hiện ở khu  di tích Kamikuroiwa tỉnh Ehime, thuộc thời kì đầu kỉ  nguyên Jomon (8000  TCN – 300 TCN). Thần đạo có  ảnh hưởng xuyên suốt trong quá trình hình  thành và phát triển của dân tộc Nhật Bản cho đến tận thời kì hiện đại.
  13.            2.2. Cảm thức wabi (giản phác) trong thơ haiku và tranh mặc hội           2.2.1. Khái niệm wabi Tinh thần wabi trong thơ haiku thể hiện trước hết ở sự giản đơn của các  hình  ảnh, sự  vật. Về  mặt nguyên tắc thẩm mĩ mà nói, sự  hiện diện của cái  đẹp là không có giới hạn. Chính  ở  cái nhìn, cách cảm nhận của tác giả  đã  phát hiện ra cái đẹp, dù ở đâu, trong sự vật nào.  2.2.2. Thiên nhiên giản dị, đơn sơ  và con người chất phác, mộc mạc Những họa sĩ mặc hội theo Thiền phái, thường chọn những đề  tài rất đời  thường và đời thực để tái hiện trong tác phẩm của mình, nhằm thông qua đó,  biểu đạt tinh thần Thiền.  Tranh nhân vật trong mặc hội, cũng giống như  phong cảnh hay hoa điểu, luôn thấm đẫm tinh thần của sự  giản đơn. Con  người trong mặc hội Thiền phái luôn được biểu hiện với sự  chất phác bên  trong và sự gần gũi, thân thuộc trong phong cách biểu hiện bên ngoài.  Như  vậy, đứng về  phương diện cảm thức thẩm mĩ, cả  thơ  haiku cổ  điển và tranh mặc hội Nhật Bản đều có chung một đặc điểm: khả năng phát  hiện cái đẹp  ở  những sự  vật thường tình đơn giản nhất. Đây cũng chính là  tâm ý của Thiền.  2.2.3. Sự  giản lược ngôn từ   ở  thơ  haiku và chất liệu đơn sơ  trong   tranh mặc hội Tinh thần wabi thể  hiện  ở chất liệu. Chất liệu của thơ haiku là ngôn  từ. Ngôn từ  là chất liệu phi thực thể. Chất liệu của hội họa là đường nét,   màu sắc, giấy bút và mực. Đường nét, màu sắc vừa mang tính thực thể  vừa  phi thực thể. Giấy bút mực là chất liệu mang tính thực thể. Vậy, dị  biệt   trong tinh thần wabi của thơ  haiku và tranh mặc hội trước hết, nằm  ở  sự  khác biệt trên phương diện chất liệu. Thực vậy, trong thơ haiku, cảm thức thẩm mĩ này được biểu hiện bởi   sự  đơn giản của ngôn từ và sự giản dị của hình ảnh, nhịp điệu. Trong tranh   mặc hội, cảm thức thẩm mĩ wabi biểu hiện trước hết  ở  mặt chất liệu và   màu sắc: tranh bao giờ cũng chỉ gồm hai màu đen trắng, với hình ảnh đơn sơ,  giản lược đến cực hạn,  và chất liệu thì chỉ  bằng giấy mực, với sự  mong   manh tạm bợ mà hàm chứa màu sắc triết lí về sự vô thường của nó. Thế nên  một bức tranh mặc hội, hướng đến sự  vận động nhiều hơn là tĩnh tại, đặc  
  14. tính của vô thường, chỉ  có thể  hiển hiện rõ nhất trong sự  vận động, và sự  động, đến phiên nó, lại hàm chứa tinh thần wabi. Thơ ca, là nghệ thuật của ngôn từ, nên dù là những tác phẩm thơ kiệm  lời, nó vẫn cho phép tác giả trình bày những ý niệm trừu tượng một cách trực  tiếp bằng chất liệu được sử dụng để sáng tạo nên loại hình nghệ thuật này,   là ngôn từ. Trong khi đường nét và màu sắc, vốn là chất liệu của tranh mặc   hội, lại không cho phép tác giả  trực tiếp đề  cập đến những ý niệm trừu   tượng. Cùng biểu đạt một sự vật hiện tượng, nhưng tinh thần wabi của một   bức tranh không nằm ở ý niệm trừu tượng do ngôn từ chuyển tải như trường   hợp một bài thơ, mà ta có thể  cảm nhận tính chất của nét bút: cầu kì, công   phu hay thẳng thắn, dứt khoát, để minh bạch về tinh thần của nó. Tinh thần   wabi của tác phẩm trên thể  hiện qua đường nét chắc chắn, không phân vân   lưỡng lự. Sự đơn giản của đường nét đã ứng hợp một cách hoàn hảo với sự  đơn giản của nội dung bức tranh và từ  trong sự  cộng hưởng này, vẻ  đẹp  wabi được cấu thành. Cũng nằm trong trường ý niệm về  vẻ  đẹp của sự  giản đơn, cả  thơ  haiku và tranh mặc hội đều trình bày cho người thưởng giám nghệ thuật một  ấn tượng thị giác từ một cái nhìn vô tâm. Đó chính là cái nhìn đầy Thiền tính.   Nhưng ấn tượng thị giác này khi đi vào thơ haiku và khi đi vào tranh mặc hội   cũng rất khác nhau. Trong thơ haiku, hình ảnh của sự vật có thể được tuyệt  đối hóa. Gọi là tĩnh vật tuyệt đối bởi vì đấy là một hình ảnh phi hình dạng,  nó không bị giới hạn bởi một hình ảnh cụ thể nào.  Một bức tranh khác với một bài haiku. Hình  ảnh trong tranh nhận lấy   một sắc thể  dạng hình cố  định, bất biến. được tái hiện kèm theo một bối   cảnh cụ thể, nhưng điều mà nó gợi ra, chính là thần thái, là sức sống, là cái  vượt ra ngoài giới hạn của hình, điều này được khơi dậy thông qua cách vẽ  của tác giả. 2.3.  Cảm thức sabi (tịch tĩnh) trong thơ haiku và tranh mặc hội  2.3.1. Khái niệm sabi Theo từ điển Dagenkai, nguồn gốc đầu tiên của thuật ngữ sabi là động  từ nghĩa là hoang vắng, thô ráp. Theo đó, có các từ sabushiki và sappukei, với  hàm nghĩa thiếu sự quyến rũ, khó chịu. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy tính  từ  sabushi hoang vắng, yên lặng, gợi cho chúng ta ý niệm về  sự  cô độc của  
  15. đời sống. Tuy nhiên, từ sabi/sabu cũng liên quan đến các kí tự với ý nghĩa già   đi, cũ kĩ.  2.3.1. Không gian cô tịch, hoang sơ Trong nhiều tác phẩm thơ  haiku, tác giả  đã không cho thấy sự  hiện   diện của con người trong tác phẩm. Những tác phẩm này rất gần với thơ sơn  thủy của Trung Hoa. Cái thấy này phải là cái thấy của sơ tâm, cái thấy uyên  nguyên chưa bị  óc phân biệt chia chẻ giữa chủ thể và đối thể  xen vào. Mặt  khác, hội họa là nghệ thuật của sự vô thanh, nên xét ra, về bản chất, hội họa   đã ngầm chứa một khía cạnh, một phương diện nào đó của sự  tịch liêu.  Trong tranh mặc hội, thì tịch liêu, không chỉ  là phẩm chất mà đôi khi còn là  đối tượng biểu đạt của tác phẩm.  Có thể nói, trong thơ haiku và tranh mặc hội, sự tĩnh lặng là thống nhất  trọn vẹn từ nội tâm, đến ngoại cảnh.               2.3.2. Tinh thần tịch liêu trong thơ  haiku va tính vô thanh c ̀ ủa   tranh mặc hội Biểu hiện về  cảm giác sabi trong thơ  haiku chủ  yếu  ở  sự  lắng đọng  xúc cảm mà bài thơ  tạo ra. Khác với thơ  haiku, trong tranh mặc hội, người   nghệ  sĩ khó lòng có thể  miêu tả  âm thanh để  làm nổi bật sự  im vắng của  không gian. Tuy nhiên, tác phẩm tranh mặc hội, bằng sự đơn giản của các nét  vẽ đã thu hút tất cả sự tĩnh lặng vào bên trong mình và từ sự tĩnh mịch đó, nó  để cho hơi thở của sự sống nhẹ nhàng trỗi lên. Để  khắc họa cảm giác cô đơn tịch liêu, các nhà thơ  haiku  có thể  sử  dụng đến những hình  ảnh mang tính biểu tượng.  Trong tranh mặc hội, tuy  không có được lợi thế của việc sử dụng những biểu tượng mang tính ý niệm  như  trong thơ  ca, nhưng để  khắc họa nỗi cô liêu, người nghệ  sĩ lại có thể  tận dụng nghệ thuật phối cảnh không gian của nghệ thuật tạo hình.  Tính không, hay Vô, cũng được tranh mặc hội có một phương thức để  biểu đạt riêng so với thơ  haiku. Đó là các họa sĩ thường xuyên sử  dụng các  “lạc khoản”. Từ “lạc khoản”  ở đây tương đương với từ  yohaku trong tiếng   Nhật. Một bức tranh, dù là tranh phong cảnh, tranh tĩnh vật, hay tranh nhân  vật, toàn bộ  bức tranh đều có xu hướng được vẽ  kín bởi các chi tiết. Vì   người ta quan niệm nếu còn một chỗ  nào trên bức tranh không được vẽ, thì   toàn bô bức tranh được xem như là chưa hoàn thành. 
  16. 2.4. Cảm thức yugen (u huyền) trong thơ haiku và tranh mặc hội:             2.4.1. Khái niệm yugen Thời kì Kamakura (1193­1333) và Muromachi (1333­1573), văn chương Nhật  Bản thấm đẫm màu sắc u huyền (yugen). Qua niệm về cái đẹp, do đó cũng  khởi nguyên từ quan niệm cho rằng cuộc sống đời thường vốn ẩn chứa điều  thiêng liêng mầu nhiệm. Khi chạm đến ngưỡng cửa mầu nhiệm này, của  thiên nhiên, của đời sống, đôi khi, các nhà thơ  nhận ra một cách trực giác,   tính bất khả của ngôn từ, của suy nghĩ (bất khả tư nghì) 2.4.2. Vẻ  đẹp uyên áo của tâm biểu hiện qua thực tại sống động trong   nghệ thuật Một nhà thơ haiku, hay một họa sĩ tranh mặc hội, luôn ý thức rằng, anh  ta không thể chỉ  dừng lại  ở việc biểu đạt vẻ  bề  ngoài của thực tại. Ý thức   đó người Nhật gọi là Sei do, hay Kokoro mochi, tranh vẽ phải có thần. Tuy  không biểu hiện ở mức cao nhất như kịch Noh, nhưng cả thơ haiku và tranh  mặc hội Nhật Bản đều cho thấy vẻ đẹp của cảm thức thẩm mĩ yugen, một   cảm thức về vẻ đẹp sâu thẳm u huyền trong tinh thần của tạo vật. 2.4.3. Yugen: vẻ  đẹp thẳm sâu của ý tượng trong thơ  haiku va v ̀ ẻ  đẹp   uyên áo của các họa tiết trong tranh mặc hội: Công án Thiền là cuộc tương thoại giữa ý thức với tâm linh. Vẻ  đẹp yugen  trong một bài thơ  haiku nằm  ở  tính công án của những câu hỏi, hỏi nhưng  không phải dể trả lời mà để chạm đến giới hạn của tư duy biện biệt. Trong   đó, công án trong tranh mặc hội thường được tìm thấy ở những chi tiết phi lí,  mà nếu không nhạy bén, tinh tế, thì không thể  nhìn thấy được. Cái phi lí đó   vượt ra ngoài sự an trí của trí năng, nó không nằm trong cái khác thường, mà  nó nằm ngay trong đời thường.  Cảm thức thẩm mĩ yugen trong thơ haiku thường nảy sinh từ sự ngạc   nhiên bất chợt trước vẻ đẹp huyền nhiệm của những điều giản dị. Nhà thơ  chứng kiến khoảnh khắc của ngoại cảnh và tứ  thơ  nảy sinh, và tác phẩm  hiện   thành.   Trong   khi   đó,   cảm   thức   thẩm   mĩ   yugen   trong   tranh   mặc   hội   thường được gợi ra bởi sự  thẳm sâu của ngoại cảnh vào nội tâm để  trở  thành tâm cảnh. Khi họa sĩ cầm bút vẽ gió mưa, thì thời gian bức tranh hình  thành là khoảnh khắc. Nhưng để  có khoảnh khắc  ấy, nhà nghệ  sĩ cần trải   qua thời gian miệt mài để cho mưa gió thấm vào tâm hồn mình. 
  17. Có nhà họa gia tranh mặc hội đã khuyên ta: Hãy ngắm cây trúc trong  mười năm, sau đó, hãy vẽ. Chương 3. PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THIỀN TRONG THƠ HAIKU VÀ TRANH MẶC HỘI 3.1. Khái niệm phương thức nghệ thuật Thiền 3.1.1. Khái niệm chung Phương thức nghệ thuật Thiền được chúng tôi hiểu dựa trên cơ sở này.  Đó là cách thức mà người nghệ sĩ của nghệ thuật Thiền, dù là thi sĩ hay họa   sĩ, sử dụng để hoàn thiện nên hình thức của một tác phẩm mà nội dung của  nó nhấn mạnh đến sự  nhận thức trực tiếp về nội tâm và thực tại đời sống.   Vì đặc thù như  vậy, nên phương thức nghệ  thuật Thiền có những dấu  ấn   riêng  của   nó.   Những  dấu  ấn  đó  được   biểu hiện  qua   các  đặc  điểm  như:   Khoảng   trống   không   bạch   trong   tranh,   thi   pháp   hư   không   trong   thơ,   tính  khoảnh khắc và ý cảnh trong thơ cũng như trong tranh. Từ những đặc trưng   đó, mà tác phẩm, dù có thể  có hay không việc đề  cập đến tư  tưởng và chủ  đề Thiền trong Phật giáo, vẫn toát lên Thiền ý, Thiền lí và Thiền vị. 3.1.2. Khái niệm không bạch và hư không, khoảnh khắc và ý cảnh 3.1.2.1.  Khái niệm không bạch và hư không Hư  không, không bạch, là những phương thức nghệ thuật đặc sắc, có  nguồn cội từ  tư  tưởng triết học phương Đông, từ  triết lí sâu sắc của Phật   giáo, đặc biệt là Thiền tông. Đặc điểm này được thể hiện một cách độc đáo  trong thơ  ca và hội họa, từ  Trung Hoa đến Nhật Bản, và trở  thành một nét  đặc thù của thơ haiku và tranh mặc hội. Khi nói vê khoảng trống trong thơ  haiku, ta có thuật ngữ  hư  không.  Nhưng khi bàn về khoảng trống trong tranh mặc hội, ta có thuật ngữ  không  bạch.  Không bạch, khác  với  hư  không trong thơ  haiku,  đó không phải là  khoảng trống mang tính thi pháp, mà là một khoảng trống thực hữu, tham gia   vào cơ chế tạo hình của bức tranh.  3.1.2.2. Khái niệm khoảnh khắc Khoảnh khắc theo khái niệm cổ  nhất của triết học Phật giáo, là một  sát na, là một đơn vị nhỏ nhất về thời gian.  
  18. Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, đến thế  kỉ  thứ  VI, thì Thiền  tông ra đời. Phật giáo Thiền tông Trung Quốc có một khái niệm, mà về sau,   được hiểu tương đương với khái niệm Ksana trong Phật giáo nguyên thủy ở  Ấn Độ, đó là “Niệm”. “Một Niệm” vừa là một đơn vị  nhỏ  nhất trong tiến  trình tâm thức, vừa được hiểu như là một đơn vị thời gian.  Nếu hiểu tranh mặc hội hay thơ  haiku là con đường để  chứng nhập  trạng thái  của Thiền, như  cái cách mà người  ta  vẫn thường gọi  đối  với   những ngành nghệ thuật này. 3.1.2.3. Khái niệm ý cảnh Cảnh là thực tại khách quan. Nhưng ý cảnh lại có thể  được hiểu   là  không gian bên trong thể hiện sự thống nhất giữa suy nghĩ và cảnh vật, ranh  giới giữa chủ  thể và khách thể   ở  đây bị  xóa nhòa. Cũng như  trong hội họa,  tính phi biệt hóa giữa chủ  thể  và khách thể   ấy thấm đẫm không gian nghệ  thuật thơ haiku, nâng tầm mức của không gian nghệ thuật trong thơ ca thành  không gian của tâm thức. 3.2. Tính không trong thơ haiku và tranh mặc hội 3.2.1. Khả  năng khơi gợi của những khoảng trống và lối “chấm   phá” Xét về phương diện thẩm mĩ, khoảng trống trong thơ haiku không chỉ  là một phương thức để  biểu đạt cái đẹp, mà nhiều khi, chính khoảng trống   cũng trở thành đối tượng thẩm mĩ được miêu tả trong bài thơ. Trong tranh mặc hội, không bạch là biểu hiện rõ nhất của tư  tưởng   Thiền: Mọi sự  lưu xuất từ Không và trở  về  với tánh Không. Khoảng trống   trên tranh là khởi nguồn của sáng tạo  ở  người xem. Không cũng gợi ra ý  niệm về vô cùng, gợi ra ý niệm về sự biến dịch.  Hư không trong thơ haiku và khoảng trống không bạch trong tranh mặc   hội tương đồng với nhau ở chỗ, nó vừa là thủ pháp nghệ thuật, lại vừa là đối  tượng miêu tả; hư không đôi khi xuất hiện như một thành phần của thực tại   được tái hiện trong bức tranh hay trong bài thơ, và chính nó, tạo nên sinh khí,  tạo nên sức sống cho những sự  vật hữu hình. Cả  hai, hư  không trong thơ  haiku và khoảng trống không bạch trong tranh mặc hội, do vậy, đều là những  biểu hiện sinh động của triết lí Thiền và mang đậm dấu  ấn của văn hóa tư  tưởng phương Đông. 
  19. 3.2.2. Không bạch trong kết cấu của tranh mặc hội và hư  không   trong kết cấu thơ haiku Hư không trong thơ haiku co 3 biêu hiên: h ́ ̉ ̣ ư không bên ngoai bai th ̀ ̀ ơ do  thơ  haiku cực tiêu vê ngôn t ̉ ̀ ư, h ̀ ư  không giưa cac hinh anh trong bai va tinh ̃ ́ ̀ ̉ ̀ ̀ ́   ́ ượng trưng cua hinh anh. Trong khi đó, kho chât t ̉ ̀ ̉ ảng trống không bạch trong  tranh mặc hội cũng có ba biểu hiện, nhưng đặc trưng của mỗi biểu hiện   khác biệt về  tính chất so với hư không trong thơ  haiku. Đó là khoảng trống  thụ  động: Họa sĩ tạo ra khoảng trống  ấy bằng cách vẽ  những chi tiết xung  quanh và để trống ở giữa (vẽ mây nảy trăng), khoảng trống do chủ động vẽ  khiếm khuyết: Họa sĩ cố  ý bỏ  sót một vài chi tiết của hình  ảnh để  tạo nên   khoảng trống này, và khoảng trống do sư  mờ  nhạt của phối cảnh: Các chi  tiết trong bức tranh được vẽ  hòa vào nhau, không tách bạch nhau, tạo nên  “điểm mờ” giữa chúng.  Có thể nói, 3 biểu hiện này của tranh mặc hội dù  tương đồng về  tinh  thần, nhưng rõ ràng khác biệt về tính chất so với ba biểu hiện của hư không   trong thơ haiku.  3.3. Tính khoảnh khắc trong thơ haiku và tranh mặc hội 3.3.1. Sự trực nhận phi thời gian đối với thực tại hiện tiền Thơ haiku là thơ của khoảnh khắc. Trong khoảnh khắc mà nhà thơ trực   nhận thực tại thông qua những vũ điệu của thiên và đời sống, thở  bằng hơi   thở của đất trời, thể nhập đến mức không thấy có sự chia chẻ, tách biệt nào  giữa cái tôi của thi nhân với thực tại hiện tiền.  Cũng giống như  thơ  haiku, tranh mặc hội cảm nhận về  thời gian và  không gian một cách đặc biệt. Tranh mặc hội không sử  dụng phép thấu thị  như hội họa phương Tây. Lí do là điểm nhìn của người nghệ  sĩ khi tái hiện   thế giới nghệ thuật lên tranh không phải là điểm nhìn cố định. Như vậy, khi  ngắm   bức   tranh,   chỉ   trong   một   cái   nhìn   khoảnh   khắc   thoáng   qua,   người  thưởng giám nghệ thuật sẽ thâu tóm được cả  bốn mùa trong tầm mắt mình.  Điều này sẽ  thật khó hiểu đối với tư  duy duy lí, mang tính suy luận thông  thường, nhưng không lạ lẫm gì đối với cái nhìn của một Thiền giả. Trong trí   Bát Nhã vô phân biệt, thì cái giây phút và cái nghìn năm, là như nhau ­ “ nhất   niệm vạn niên.” 3.3.2. Khoanh khăc th ̉ ́ ực tai trong th ̣ ơ haiku va khoanh khăc nôi tâm ̀ ̉ ́ ̣  
  20. trong tranh măc hôi  ̣ ̣ Tính khoảnh khắc trong thơ haiku, là phút giây trực ngộ  trước một sự  tình vốn có, một thực tại hiện tiền, được biểu đạt theo trình tự thời gian của   bản chất kí hiệu ngôn từ. Điều này có sự  khác biệt lớn so với tính khoảnh   khắc trong tranh mặc hội, vốn là một phút giây sáng tạo chớp nhoáng, khi mà  chủ thể sáng tạo đồng nhất với chất liệu của bút mực, với tác phẩm, nhằm   vượt qua sự  khó khăn của nghệ  thuật hội họa là làm thế  nào để  từ  cái bất  động của bức tranh, gợi ra được những cử  động sống động đối tượng, của  sự vật, của đời sống.  3.4. Ý cảnh trong thơ haiku và tranh mặc hội 3.4.1. Tâm – canh t ̉ ương thông trong ý cảnh thơ haiku và tranh mặc   hội Thơ  haiku nói riêng, thơ  cổ  điển phương Đông nói chung, chú trọng ý  hơn lời. Văn hóa Trung Hoa vẫn có quan niệm: “ý ở ngoài lời” “có lời là vì   ý; được ý hãy quên lời”.Tranh mặc hội của Nhật hay thủy mặc của Trung   Hoa cũng thế, hình thức được đưa về mức tối thiểu để sức gợi tả về ý được  đạt đến mức tối đa.        Trong tinh thần tương tức, tương tục của Phật giáo Nhật Bản, thì một  bức tranh tức là một bài thơ  không lời; một bài thơ  tức là một bức tranh vẽ  lại bằng ngôn từ ý cảnh của thực tại, để ý cảnh tái sinh trong sự vô cùng của  lòng người đọc và của dòng chảy đời sống. Ý cảnh trong thơ  cho phép nhà  thơ xúc chạm đến những sự vật vô hình của cảnh Ý cảnh trong thơ haiku và trong tranh mặc hội cho phép sự dung thông,   dung hợp giữa những hình  ảnh, sự  vật thuộc về  thực tại và những ý niệm  thuộc về  thế  giới của tâm tưởng, cả  hai chiều kích đều có thể  đồng hiện   trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm một cách hài hòa không ngăn ngại. 3.4.2. Đồng nhất chủ  thể  và đối tượng trong ý cảnh thơ  haiku và  mờ hóa ranh giới hình tượng trong ý cảnh của tranh mặc hội Các nhà thơ haiku ít khi nêu ra một cách trực tiếp triết lí Thiền. Thiền  họa buổi đầu thường dùng việc vẽ  ý cảnh để  làm sáng tỏ  Thiền ý. Tranh  chăn trâu là một hệ  thống tranh vẽ  độc đáo trong Thiền họa, mở  đầu cho  truyền thống biểu lộ Thiền ý như vậy trong mặc hội.  Trên tinh thần vô ngã của Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng, thơ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1