Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)
Chia sẻ: Dangthingocthuy Dangthingocthuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30
lượt xem 5
download
Luận án thực hiện nghiên cứu nhằm hướng đến các mục tiêu: tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MINH ANH QUAN HỆ DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH NHÂN HỌC Mã số: 62 31 03 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1: PGS.TS.VƯƠNG XUÂN TÌNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 2: TS. TRẦN VĂN HÀ
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Tập thể hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS.VƯƠNG XUÂN TÌNH 2. TS. TRẦN VĂN HÀ Người phản biện 1:PGS.TS. Nguyễn Văn Chính Người phản biện 2:PGS.TS. Nguyễn Duy Bính Người phản biện 3:PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam Số 477 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Vào hồi………………… Ngày……..tháng……năm 2014 Có thể tìm luận án này tại:
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Vấn đề nghèo đói của người Khơ Mú ở bản Cha, xã Chiềng Lương, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Tạp chí Dân tộc học số 2 năm 2006, tr. 4550. 2. Vài nét về tình trạng đói nghèo của người Nùng ở xã Liên Sơn, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Xã hội học số 1 năm 2006, tr. 77 82. 3. Vài nét về hôn nhân hỗn hợp ở một xã miền núi Bắc Việt Nam (Viết chung với Nguyễn Thị Thu), Tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006, tr. 3643. 4. Biến đổi tập quán ăn uống của người Dao Thanh Phán ở Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. (Viết chung với TS. Trần Văn Hà), Tạp chí Dân tộc học số 2 năm 2007, 43 52. 5. Infuence of Socio – Cultural Factors on Food Security of the Tho People (A case Study of Ke Mui Village, Giai Xuan Commune, Tan Ky District, Nge An Province) (Viết chung với TS. Trần Văn Hà), Anthropology Review No.2 (9) 2006, page. 68 88. 6. The Transfofmation of Rituals in Two Mien Villages in Nothreast VietNam (viết chung với TS. Trần Văn Hà). Trong: " Living in a Globlized World Ethnic Minorities in the Greater Mekong Subregion”, Mekong Press. 2008. 7. Đám ma truyền thống của người Cao Lan ở Lập Thạch, Phú Thọ, Văn Hóa Nghệ Thuật, số 294, tháng10 năm 2008, tr. 87 90. 8. Lễ cưới truyền thống của người Cao Lan, Văn Hóa Nghệ Thuật, số 303, tháng 9 năm 2009, tr. 73 75. 9. Hôn nhân truyền thống của người Nùng Phàn Slình, Văn hóa Nghệ thuật, số 327, tháng 9 năm 2011, tr. 21 26. 10. Tín ngưỡng thờ cúng của người Nùng Phàn Slình ở vùng cao biên giới (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, Tỉnh Lạng Sơn), Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 (147), năm 2012, tr. 49 57. 11. Tương trợ cộng đồng trong cưới xin và tang ma của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Dân tộc học, số 5&6 (179), năm 2012, tr. 35 45.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ trong xã hội Việt Nam truyền thống và đương đại từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hoá học,... Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng những chính sách thiết thực đối với vấn đề phát triển nông thôn nông nghiệp nông dân nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong quá trình đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay, vai trò và chức năng của quan hệ dòng họ ở cả người Kinh (Việt) và các tộc người thiểu số cũng đang có một số đổi thay. Sự thay đổi này được biểu hiện ở liên kết dòng họ, cơ chế vận hành trong các tổ chức dòng họ. Tuy nhiên, vai trò của quan hệ dòng họ trong đời sống xã hội vẫn rất quan trọng, cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu. Luận án này lấy quan hệ dòng họ của người Nùng ở Việt Nam là đối tượng nghiên cứu. Người Nùng sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có đặc điểm văn hóa riêng, nên việc nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung trong luận án là điều khó có thể thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi chỉ lựa chọn một nhóm địa phương của người Nùng trong địa bàn một huyện để khảo sát nhóm Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Đây là nhóm Nùng có dân số đông nhất trong các nhóm Nùng của huyện, cư trú chủ yếu ở các xã vùng biên và có quan hệ dòng họ xuyên biên giới. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)” làm đề tài luận án tiến sĩ nhân học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Một là, tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; Hai là, xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; Ba là, tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những hoạt động liên quan đến quan hệ dòng họ và mối quan hệ của cá nhân, gia đình dòng họ trong các lĩnh vực: tín ngưỡng, tương trợ, hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa…
- Tập trung nghiên cứu mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang diễn ra hiện nay và trong một số trường hợp, có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986). Địa bàn nghiên cứu là người Nùng Phàn Slình ở xã Gia Cát, xã Thụy Hùng và xã Thanh Lòa của huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 4. Nguồn tài liệu của luận án Nguồn tài liệu chủ yếu của luận án là từ tài liệu điền dã do chính nghiên cứu sinh thu thập tại thực địa các điểm nghiên cứu trong suốt thời gian từ năm 2007 2013. Tài liệu báo cáo của các ban, ngành ở cấp tỉnh, huyện, xã. Kế thừa các nguồn tài liệu đã công bố về dòng họ và quan hệ dòng họ, đặc biệt là những công trình công bố về dân tộc Nùng và nhóm Nùng Phàn Slình của các học giả trong và ngoài nước từ trước đến nay. 5. Đóng góp của luận án Trên cơ sở nghiên cứu ba chiều của quan hệ dòng họ, luận án trình bày một cách toàn diện về cấu trúc và mối quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình ở huyện vùng cao biên giới tỉnh Lạng Sơn trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của nước ta; Góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của quan hệ dòng họ đến phát triển kinh tế xã hội và quan hệ tộc người của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên cứu; Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay. 6. Bố cục luận án Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội dung chính được trình bày trong 6 chương: Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và khái quát địa bàn nghiên cứu. Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và tương trợ Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở Chương 6: Kết quả và bàn luận. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ
- 1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trên thế giới và quan hệ dòng họ của người Kinh (Việt) Nghiên cứu dòng họ là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về quan hệ xã hội của tộc người trong bất cứ xã hội nào, vì vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài như Maine, McLennan và Morgan, LéviStrauss và RadcliffeBrown, Grant Evans... Lévi Strauss đã xây dựng nên một lý thuyết về cấu trúc thân tộc, trong đó hạt nhân là vấn đề “lớp hôn nhân”… Ở Việt Nam, dòng họ cũng được đề cập từ khá sớm. Thời kỳ phong kiến, những ghi chép về dòng họ chủ yếu được tìm thấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc, các bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... Trước năm 1945, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo như của Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Pierre Gourou… Từ năm 1945 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ từ góc độ sử học và dân tộc học như Trần Từ, Trần Quốc Vượng, Phan Đại Doãn, Đặng Nghiêm Vạn... đề cập đến từ bốn góc độ: Một là, dòng họ người Việt là quan hệ huyết thống, có mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhưng không cùng chung một ngôi nhà, không ăn chung một bếp và các gia đình duy trì quan hệ ngang nhau; Hai là, phần lớn các nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu cấu trúc và chức năng của dòng họ, nhất là dòng họ thuộc bên nội (phụ hệ); Ba là, nghiên cứu những yếu tố liên quan đến dòng họ quan hệ lãnh thổ, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ tín ngưỡng, thậm chí còn liên quan đến vấn đề văn hóa, khoa cử, quyền lực…; Bốn là, xu thế phục hưng dòng họ… Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình đi sâu phân tích sự tác động, ảnh hưởng của các nhân tố địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế xã hội, mặt bằng văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, sự cố kết dòng họ, dòng họ trong mối quan hệ với quyền lực, vị trí của nó trong đời sống của cộng đồng cư dân và so sánh những vấn đề đó trong dòng họ người Kinh (Việt) và các tộc người ở Việt Nam. 1.1.2. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số ở Việt Nam và người Nùng Phàn Slình 1.1.2.1. Các công trình chuyên khảo về quan hệ dòng họ Trong số những công trình nghiên cứu về dòng họ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phần lớn tập trung vào các dân tộc có dân số lớn như Tày, Thái, Hmông, Mường, Êđê... Cầm Trọng khi nghiên cứu về người Thái ở Tây Bắc đã làm rõ được mối quan hệ giữa 3 nhóm ải nọng, lúng ta, nhính xao (“ba họ”). Qua các nghiên cứu có thể thấy rằng, ở mỗi một tộc người đều có sự khác nhau về tổ chức dòng họ nhưng có vai trò rất lớn trong xã hội truyền thống và hiện nay ở các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ đều chi phối đến mọi mặt đời sống của từng gia đình, từng thành viên cộng đồng cũng như quá trình tộc người ở nước ta.
- 1.1.2.2. Nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng và nhóm Nùng Phàn Slình Đến nay công trình nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình còn ít ỏi, chủ yếu là những nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống, lễ nghi, tôn giáo, ngôn ngữ (Nguyễn Thị Ngân, 2011), Hoàng Thị Niên, 2011, Lê Minh Anh, 2012…Tóm lại, việc nghiên cứu dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở nước ta còn chưa được quan tâm đúng mức, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, thiếu vắng một công trình có hệ thống và nghiên cứu thực nghiệm về lĩnh vực này. Đa số nghiên cứu là những vấn đề có liên quan như nghi lễ, tín ngưỡng, tôn giáo, gia đình, lịch sử tộc người… Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, những vấn đề liên quan đến quan hệ dân tộc xuyên biên giới/xuyên quốc gia đang đặt ra cho việc xây dựng nông thôn mới, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ an ninh biên giới... những yêu cầu mới, đòi hỏi sự cần thiết phải đi sâu nghiên cứu hơn nữa vấn đề này. 1.2. Lý thuyết nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi áp dụng lý thuyết chức năng của Bronislaw Malinowsh, Radcliffe Brown và lý thuyết vốn xã hội (Social Capital) của Na Lin. 1.3. Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích 1.3.1. Phương pháp điền dã dân tộc học Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu chủ đạo được triển khai để thực hiện nghiên cứu này. Đồng thời, thông qua nghiên cứu tham dự, chúng tôi áp dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập dữ liệu định tính. Thảo luận nhóm cũng được triển khai nhằm thu thập thông tin ở cấp cộng đồng tại 3 điểm nghiên cứu. 1.3.2. Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội như là một tập hợp các phương pháp chọn mẫu, thu thập và xử lý nguồn dữ liệu. Các khái niệm và lý thuyết được làm cơ sở để mô tả và phân tích mối quan hệ giữa các thành viên, vai trò của các thành viên chủ chốt trong cộng đồng dòng họ (actor trong mạng lưới). Từ đó, tìm hiểu các quy luật hình thành và biến chuyển của những mối quan hệ đó, và nhất là làm sáng tỏ những ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội hay cấu trúc mạng lưới đối với hành vi của các actor. 1.3.3. Phương pháp so sánh So sánh là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu nhưng không phải là phương pháp trọng tâm. Luận án sử dụng phương pháp so sánh nhằm tìm hiểu sự giống và khác nhau trong mối quan hệ dòng họ ở các điểm nghiên cứu. 1.4. Khung phân tích của luận án
- Thuyết vốn xã hội Thuyết chức năng của Na Lin Bronislaw Malinowshi và Radcliffe Brown Quan hệ dòng họ của Vai trò và chức năng Mạng lưới xã hội người Nùng Phàn Slình Cá nhân: Gia đình: Cộng đồng (thôn bản): Vị thế Vị thế Cố kết tộc người Nhân cách Giá trị tinh thần/vật Phân ly hay chia rẽ khối Giá trị tinh thần/vật chất đoàn kết cộng đồng tộc chất. Giáo dục người Trao truyền và giữ gìn Kinh tế Tiếp biến và đa dạng giá trị văn hóa của dòng Trao truyền và giữ gìn văn hóa họ. giá trị văn hóa của dòng Tính cục bộ và yếu tố họ. quyền lực địa phương. Tiểu kết Chương 1 Dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học… Đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số nhưng đến nay chưa có công trình chuyên sâu nào về quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung và Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng một cách có hệ thống. Để làm rõ mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn, trong luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết Chức năng của Bronislaw Malinowski và A.R.Radcliffe Brown và Vốn xã hội của Na Lin. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là điền dã dân tộc học với các công cụ như quan sát, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích mạng lưới xã hội và so sánh, để có thể nhìn nhận đa chiều về quan hệ dòng họ. Đây là nền tảng để luận án đưa ra được những phân tích, đánh giá một cách hệ thống, khách quan, khoa học về mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. CHƯƠNG 2 DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HUYỆN CAO LỘC 2.1. Quan niệm về dòng họ của người Nùng Phàn Slình
- Người Nùng Phàn Slình cùng một họ đã thân thích đến mười phần mười (Tồng sinh síp phăn slăm). Người cùng trong họ không chỉ là những người cùng quan hệ huyết thống mà còn là những người có cùng ma. Cùng họ tức là cùng chung một tên họ, còn cùng ma là cùng cách thờ cúng khi tiến hành các nghi lễ liên quan đến tang ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ cúng tổ tiên. Người Nùng Phàn Slình nhận ra họ hàng thông qua hệ thống tên đệm. Mỗi dòng họ có một hệ thống tên đệm khác nhau. Người Nùng Phàn Slình có tục lệ đặt tên với đặc điểm riêng biệt, qua tên họ và tên đệm của từng người trong dòng họ, sẽ biết được thứ bậc của người đó. Một trong những dấu hiệu quan trọng khác để nhận biết mối quan hệ dòng họ đó là nếu cùng chung số lượng chén thờ và cách thức cúng giống nhau có nghĩa là họ cùng chung một ông tổ. 2.2. Người Nùng Phàn Slình với ba mối quan hệ dòng họ Theo quan niệm của người Nùng, những người có quan hệ họ hàng bên bố bên nội là anh trai, em trai, chị gái, em gái và những người cùng dòng họ bên bố. Những thành viên này có quan hệ gần gũi về huyết tộc với họ bố trên cơ sở chung cha, chung mẹ và cùng tổ tiên nhưng trên thực tế, tại ba điểm nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nghiêng về phía là anh em trai của bố, còn chị em gái của bố có phần không gần gũi bằng. Những người có quan hệ với họ bên mẹ bên ngoại là anh trai, em trai, chị gái, em gái và những thành viên gần gũi khác có quan hệ huyết tộc về phía mẹ. Những người có quan hệ họ hàng bên vợ là những người có quan hệ gần gũi về dòng máu với bố vợ như chú vợ [em trai của bố], bác vợ [anh trai của bố] và mẹ vợ như anh em trai của mẹ vợ, chị em gái của mẹ vợ. Mỗi người Nùng Phàn Slình khi có vợ/chồng đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, mẹ, vợ/chồng; trong đó họ nội họ bố có quyền lực và nghĩa vụ chủ yếu đối với cháu nội; ngược lại, họ ngoại không có nhiều quyền lực đối với cháu ngoại. Tuy vậy, mối quan hệ giữa họ nội, họ ngo ại và họ vợ vẫn là những mối quan hệ bao giờ cũng được người Nùng Phàn Slình coi trọng và gìn giữ. 2.3. Cấu trúc dòng họ của người Nùng Phàn Slình Hệ thống danh từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình có những đặc điểm: thể hiện tôn ti, thứ bậc rõ ràng, đồng thời có sự phân biệt giữa họ nội và họ ngoại cũng như sự phân biệt nam, nữ. Hệ thống tên đệm, mỗi dòng họ có một hệ thống tên đệm khác nhau. Qua hệ thống tên đệm, người ta có thể biết được thứ bậc, vai vế của từng thành viên trong dòng họ. Dù có quan hệ gần hay xa ở các chi họ, nhưng các thành viên trong dòng họ luôn có nghĩa vụ tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong ốm đau, thiên tai, dịch họa…
- 2.4. Đặc điểm dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc Về địa vực cư trú: Dòng họ người Nùng Phàn Slình không có khu vực cư trú riêng mà cư trú đan xen giữa các dòng họ trong cộng đồng thôn bản. Hệ thống thờ tự của người Nùng Phàn Slình, gồm có: thờ tổ tiên (xoòng cống); thờ ông táo (xoòng cháo) ở phía trên bếp nấu, là một tấm ván, phía trên để ống tre cắm hương, đồng bào quan niệm là vị thần trông coi việc bếp núc, hạnh phúc trong gia đình; thờ bà mụ (ăn va) là nơi thờ những người phụ nữ đã sinh con trong gia đình; thờ ma sàn, vị thần chuyên trông coi gia súc. Quan hệ giữa các dòng họ, các dòng họ cư trú trên cùng một địa vực, người Nùng Phàn Slình luôn có truyền thống đoàn kết, tương trợ nhau trong sản xuất, sử dụng nguồn nước chung và khai thác các khu rừng, núi xung quanh bản. Vì vậy, quan hệ giữa các dòng họ của người Nùng Phàn Slình ít có biểu hiện của tư tưởng chia rẽ, phân biệt... Về cơ sở kinh tế: Dòng họ không có cơ sở kinh tế chung. Khi có công việc cúng bái chung của dòng họ, như cúng thần thổ công vào dịp đầu năm mới, cúng thần nước…, các gia đình trong dòng họ cùng nhau đóng góp để thực hiện nghi lễ. Cũng như các dân tộc khác, những người cùng họ ở người Phàn Slình không được kết hôn với nhau. Trường hợp tuy cùng tên họ nhưng lại không có liên hệ với nhau về tổ tiên và ở địa phương khác có thể kết hôn, nhưng không có trường hợp nào ở địa bàn nghiên cứu. 2.5. Vai trò cá nhân trong dòng họ của người Nùng Phàn Slình 2.5.1. Vai trò của trưởng họ Trưởng họ người Nùng Phàn Slình có vị trí quan trọng. Trưởng họ thường là người thuộc ngành trưởng hiểu biết về chữ Hán hay Nôm Nùng, và nắm vững lịch sử của tổ tiên, mồ mả ngành trưởng và các chi trưởng. Trước đây, trưởng họ được quyền giữ gia phả của dòng họ mình và ghi vào trong gia phả những biến cố, thay đổi trong phạm vi dòng họ mình như họ tên, ngày sinh, tử của các thành viên. Trường hợp nếu người trưởng họ kiêm cả nghề thầy cúng, càng uy tín hơn. Những dòng họ có số hộ chiếm đa số trong thôn, thì người trưởng họ thường là trưởng bản. Trưởng họ là người duy trì mọi sinh hoạt theo phong tục, tập quán trong dòng họ và tổ chức những buổi cúng thần thổ công thổ địa vào dịp tết Nguyên đán và lễ Thanh minh… Trong trường hợp các gia đình cùng họ có xích mích với họ khác, trưởng họ phải có trách nhiệm đứng ra vận động và thực hiện hòa giải. Trưởng họ là người có thể tin cậy để các thành viên trong họ tham vấn ý kiến trong quan hệ xã hội và nghi lễ văn hóa liên quan đến các gia đình và sinh hoạt cộng đồng, chẳng hạn như chứng kiến việc chia tài sản cho con trai của một gia đình trong dòng họ khi cho ra ở riêng. Trưởng họ người Nùng Phàn
- Slình không có đặc quyền kinh tế và xã hội do không dựa trên cơ sở kinh tế để thực hiện các hoạt động lễ nghi và điều hành các quan hệ xã hội ở phạm vi dòng họ mình. 2.5.2. Những người uy tín của dòng họ Ở xã hội truyền thống những người làm nghề tôn giáo như thầy cúng Nùng Phàn Slình luôn được kính trọng. Những người này biết chữ Hán, đảm nhiệm việc cúng bái trong các dịp cưới xin, tang ma, làm nhà mới của các gia đình trong dòng họ hay các họ khác khi được mời. Thầy cúng Nùng Phàn Slình thường khi kiêm công việc bốc thuốc chữa bệnh (do vừa chữa bệnh bằng thuốc vừa cúng), nên ông ta là người có uy tín. Ở cộng đồng Nùng Phàn Slình, những người này do có nhiều kinh nghiệm nên luôn được trao trách nhiệm giữ và ghi chép, bổ sung gia phả trong dòng họ. Những người có học hành cao, kiến thức hơn mọi người và lại có đạo đức; người nhiều kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất và nghề thủ công hay giỏi về văn thơ, nghệ thuật trong dòng họ, luôn được đề cao, tôn trọng như thợ mộc, đan lát… Tiểu kết Chương 2 Người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn có truyền thống rất coi trọng quan hệ dòng họ. Quan hệ dòng họ tạo nên sự gắn bó bền chặt giữa các thành viên. Mỗi người Nùng Phàn Slình khi có vợ/chồng đều có ba mối quan hệ về dòng họ là họ bố (họ nội), họ mẹ (họ ngoại) và họ vợ/chồng. Dòng họ của người Nùng Phàn Slình được tổ chức khá chặt chẽ dựa trên quan hệ nhiều chi họ khác nhau. Mỗi chi họ gồm một số hộ gia đình cư trú trong cùng một thôn hay những thôn lân cận trong phạm vi xã, liên xã, liên huyện và xuyên quốc gia. Dòng họ của người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm quan hệ giữa các hộ gia đình trong cùng dòng họ tương đồng gần gũi nhau về cư trú, hệ thống lễ nghi thờ cúng cũng như quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ và vai trò trưởng họ trong đời sống cộng đồng dòng họ. Tất cả những đặc điểm đó tạo nên những nét riêng biệt của dòng họ người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn. CHƯƠNG 3 QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG 3.1. Quan niệm về tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình Tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình được dựa trên cơ tầng quan niệm về linh hồn và vạn vật hữu linh. Người sống thì có hồn “khoằn”, khi chết đi thành “phi” (ma) và có thể biến thành nhiều loại phi khác nhau: phi có lợi và phi có hại đối với người đang sống. Từ những quan niệm đó, người Nùng Phàn Slình hình thành nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau như trong
- phạm vi gia đình, dòng họ có thờ cúng tổ tiên, thờ bàn mụ, ngoài làng có thờ thổ công. Từ quan niệm về tín ngưỡng như vậy, người Nùng Phàn Slình đã tổ chức lễ sinh nhật cho người già, làm lễ tang ma cho người quá cố rất chu đáo. 3.2. Quan hệ dòng họ qua tang ma Đám tang của người Nùng Phàn Slình phải trải qua rất nhiều nghi lễ bắt buộc khá rườm rà, đến nay vẫn chưa giảm bớt nhiều. Với một khối lượng công việc liên quan đến phong tục, lễ nghi nhiều vừa cần đến sức lực, vật chất, gia đình tang chủ phải nhờ cậy sự giúp đỡ của họ hàng và cộng đồng. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu trong họ hàng có người chết, gia đình nào trong họ tộc không đến nhận tang thì coi như gia đình đó đã từ bỏ quan hệ về dòng máu và tổ tiên. Bởi vậy, khi trong họ có việc ma chay, các gia đình trong họ đều có trách nhiệm trợ giúp về sức lực và vật chất để thể hiện mối quan hệ này giúp đỡ tang chủ, gia đình có nhiều giúp nhiều, có ít giúp ít, có thế nào giúp vậy, có thể là vài cân gạo, chai rượu, bó củi, con lợn,… Thực hiện nghi lễ tang ma, họ hàng gần bên nội đóng vai trò chủ đạo. Người con trai trưởng phải có mặt trong các nghi lễ chịu tang theo luật tục (trừ lễ tế minh tinh). Gia đình nào không có con trai phải nhận một cháu trai trong nội tộc làm con nuôi. Con nuôi được hưởng quyền thừa kế như con trai đẻ trong gia đình. Lúc cha, mẹ chết phải chống gậy, chịu tang. Họ bên ngoại, các bên thông gia thường ứng xử như những thành viên trong gia đình. Họ cùng chia sẻ với gia đình tang chủ thông qua những lễ tế riêng. Điều đó đã trở thành một tập quán quan trọng đối với người Nùng Phàn Slình. Chính sự tương trợ này đã tạo nên sự cố kết ngày càng bền chặt hơn trong dòng họ bên nội, ngoại và họ vợ ở người Nùng Phàn Slình. Những năm gần đây, nhất là từ sau khi quan hệ Việt Trung bình thường hóa trở lại, những người Nùng Phàn Slình có quan hệ họ hàng với bên kia biên giới đều đến thăm viếng vào các dịp lễ tang, đám cưới hoặc Thanh minh. 3.3. Quan hệ dòng họ trong cưới xin Trước đây cũng như hiện nay, cưới xin phải trải qua rất nhiều nghi lễ nên rất ít gia đình có thể tự lực hoàn toàn trong việc lấy vợ gả chồng cho con cái, mà thường phải nhờ vào sự tương trợ, giúp đỡ của họ hàng gần, sau đó là hàng xóm láng giềng hoặc là bạn bè. Trước tiên, khi gia đình có việc cưới xin, người chủ gia đình phải thông báo cho bà con trong họ hàng biết, để cho các gia đình trong họ tùy theo khả năng mà giúp đỡ nhân lực, trong việc dựng rạp, thực hiện các nghi lễ, cỗ bàn... Thái độ giúp đỡ nhau trong dịp cưới xin của các gia đình đều rất tận tình và được coi như một trách nhiệm trong họ với nhau. Lễ cưới chính thức là việc quan trọng nhất trong nghi thức kết hôn, thường diễn ra từ hai đến ba ngày, trong đó một ngày là tiệc chính. Những ngày này, chủ gia đình có nghĩa vụ phải mời đông đủ các thành viên trong họ hàng tới dự. Bên họ nội là những anh em, con
- cháu thân thiết trong dòng tộc, còn bên mẹ và bên vợ cũng là những người gần gũi nhất như anh chị em của mẹ và anh chị em của vợ... . Về quan hệ dòng họ với những người đồng tộc người xuyên biên giới, người Nùng Phàn Slình ở bên kia biên giới tại những điểm nghiên cứu vẫn có tham dự những bữa tiệc mừng trong hôn lễ nếu có quan hệ họ hàng, nhưng không nhiều. 3.4. Quan hệ dòng họ trong lễ dựng và về nhà mới Thực tế, nếu một gia đình chuẩn bị nguyên vật liệu để làm nhà, các gia đình trong họ sẽ đến giúp đỡ xẻ gỗ, trình tường... Tùy theo yêu cầu của gia đình mà thời gian giúp có thể ngắn hay dài. Thái độ giúp đỡ nhau trong việc chuẩn bị làm nhà mới của anh em họ hàng bao giờ cũng hết sức nhiệt tình và hăng hái, thể hiện qua chất lượng từng công việc được giao, tuyệt đối không có biểu hiện trễ nải, chiếu lệ trong công việc. Quá trình làm nhà, ngày dựng nhà cần sự giúp đỡ của nhiều người trong họ. Những người là anh em, chú bác trong dòng họ thường xuyên có mặt từ khi chuẩn bị nguyên vật liệu đến khi hoàn thành, kết thúc bằng nghi lễ lên nhà mới. Khi làm lễ lên nhà mới, gia chủ mổ lợn và mời toàn thể họ hàng đến dự bữa cơm và uống rượu ăn mừng. Nghi lễ lên nhà mới cổ truyền của người Nùng Phàn Slình có tục lệ chọn 4 người đàn ông của hai bên nội, ngoại là những người làm ăn hòa thuận, khấm khá đứng ở bốn góc nhà tiến ra châm lửa đốt đống củi ở giữa nhà khi thầy cúng bắt đầu làm lễ nhập nhà mới. Truyền thống giúp đỡ nhau trong dịp làm nhà mới của bà con họ hàng người Nùng Phàn Slình đến nay vẫn còn được gìn giữ cho dù điều kiện kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi. 3.5. Quan hệ dòng họ qua một số lễ nghi trong gia đình 3.5.1. Thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiển là một trong những hình thức tín ngưỡng quan trọng của người Nùng Phàn Slình nhằm củng cố trật tự trong gia đình, dòng họ. Hệ thống thờ tự trong gia đình người Nùng Phàn Slình thường được thờ ở 4 khu vực chính: Bộ bàn thờ tổ tiên (xoòng cống); Bàn thờ thổ công chỉ là ống hương cắm ở bên phải cửa ra vào chính (vị thần bảo vệ mùa màng, sức khỏe, con cái, bảo vệ gia đình); Bàn thờ ông táo (xoòng cháo) ở phía trên bếp nấu, là một tấm ván, phía trên để ống tre cắm hương (vị thần trông coi việc bếp núc, hạnh phúc trong gia đình; kiêng không được bày thức ăn hay bất cứ vật gì lên đó); Bàn thờ Mụ (ăn va) là nơi thờ những người phụ nữ đã sinh con trong gia đình. Bộ bàn thờ tổ tiên được để ở tầng 2, đặt chính giữa tường, đối diện với cửa chính của tầng 2. Bộ bàn thờ trên gồm 4 ban với 4 đối tượng thờ, gồm: Bàn thờ bồ tát (tinh tàn); Bàn thờ tổ tiên (xoòng cống); Bàn thờ thần nuôi súc vật (tử làng); Bàn thờ mụ (ăn va).
- Bộ bàn thờ của các gia đình người Nùng Phàn Slình giống nhau về số lượng ban thờ, thứ tự trên dưới, chỉ khác biệt là số lượng chén để trên ban thờ. Tùy theo từng dòng họ mà có số lượng chén để khác nhau, cách bài trí trên từng ban thờ cũng phụ thuộc theo dòng họ và điều kiện kinh tế của hộ gia đình. Ví dụ như họ Hoàng thờ 7 chén, nhưng trong họ Hoàng lại chia ra: họ Hoàng thờ 7 chén và họ Hoàng thờ 5 chén; họ Vi lại để 5 chén. Theo cách giải thích của đồng bào, đây là dấu hiệu để một người cùng dân tộc từ nơi khác đến, họ có thể nhìn vào số lượng chén thờ mà đoán định gia chủ thuộc dòng họ nào. 3.5.2. Lễ tạ mộ (sòn mộ) Hàng năm, người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn làm lễ tạ mộ vào dịp mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Đây là dịp để con cháu báo hiếu và cầu mong tổ tiên phù hộ cho các gia đình trong dòng họ gặp được nhiều may mắn, làm ăn thuận lợi. Đến ngày này, con cháu, họ hàng trong dòng họ tập trung lại để đi tu sửa mồ mả của ông bà, cha mẹ. Công việc thường là quét dọn, làm cỏ sạch sẽ, sau đó con cháu đến thắp hương. Thông qua lễ tạ mộ chính là để con cháu mới lớn nhận họ hàng, biết về phần mộ của tổ tiên, lắng nghe ông trưởng họ và bậc cao niên trong dòng họ kể về nguồn gốc tổ tiên của dòng họ mình. Hàng năm những người cùng dòng họ ở bên kia biên giới lại sang các điểm nghiên cứu vào những dịp lễ tạ mộ. Tính đến tháng 10 năm 2013, tại một số thôn của các điểm nghiên cứu vẫn còn 13 ngôi mộ của các hộ gia đình của thôn Chiểng Lầy và Liểu Hàng thuộc xã Thượng Thạch, thị trấn Bằng Tường, huyện Ninh Minh, tỉnh Quảng Tây. Những ngôi mộ này hiện nay vẫn chưa di dời sang bên kia biên giới theo như hiệp ước mà hai quốc gia đã ký kết, hiện vẫn được cả người dân hai bên biên giới trông nom và hương khói vào dịp lễ tạ mộ. 3.6. Quan hệ dòng họ qua lễ tết cổ truyền Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn được thắt chặt hơn vào những dịp lễ tết cổ truyền. Hàng năm, họ có nhiều lễ tết quan trọng như: Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Rằm tháng Bảy, Đông chí... Vào dịp này, đều có những nghi lễ và mục đích khác nhau, nhưng đây là dịp để các thành viên trong dòng họ thăm hỏi, vui chơi, hay thể hiện sự tôn kính đối với các bậc tiền bối. Dịp tết cổ truyền, những người có quan hệ họ ngoại như họ mẹ và vợ thường giành nhiều thời gian thăm hỏi gia đình bên ngoại. Những ngày này cũng là dịp tốt nhất để anh em, chú bác xa gần họp mặt nhau đông đủ. Nếu vì một lý do nào đó mà các thành viên trong gia đình chưa gặp mặt được đông đủ, sẽ có cảm giác thiếu tình cảm gia đình. Tết Nguyên đán được người Nùng Phàn Slình chuẩn bị chu đáo nhất, thời gian ăn tết cũng dài nhất và là dịp để những người trong dòng họ đến thăm hỏi, chúc tụng nhau. Vào dịp này, người Nùng Phàn Slình thường có tập quán là gia đình nào trong dòng họ làm lễ cúng tổ tiên trước
- sẽ mời những gia đình họ khác đến ăn uống. Cứ như thế, anh em, chú bác trong họ hàng lần lượt ăn uống từ nhà này sang nhà khác, đến khi hết lượt anh em trong họ mới thôi. Đây cũng là dịp tốt nhất để qua lại thăm hỏi và chúc tụng nhau trong họ hàng. Anh em họ gần, họ xa dù khó khăn và xa xôi đến mấy cũng phải đi thăm hỏi nhau. Tiểu kết Chương 3 Tín ngưỡng thể hiện quan hệ dòng họ bền chặt trong đời sống người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên và thờ cúng họ, chi họ của người Nùng Phàn Slình hiện tại là sợi dây xuyên suốt trong sự cố kết các thành viên trong gia đình, dòng họ. Còn trong phạm vi lớn hơn thì các sinh hoạt tín ngưỡng này cũng tạo nên sự cố kết cộng đồng tộc người mạnh mẽ. Hiện nay, những nghi lễ thờ cúng trong gia đình dòng họ vẫn được người Nùng Phàn Slình chú trọng và tăng cường càng thắt chặt hơn mối quan hệ dòng họ và quan hệ trong cộng đồng tộc người này vùng biên giới. Qua những nghi lễ trong tang ma thể hiện một quy tắc ứng x ử gi ữa cá nhân, gia đình, dòng tộc với cộng đồng thôn bản. Thế ứng xử đó tạo nên mối giao ước và những quy tắc không chỉ liên quan đến người chết, mà ràng buộc người sống với nhau, thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của thành viên với cộng đồng. Nghi lễ trong đám ma là một sinh hoạt thắt chặt hơn mối quan hệ dòng họ. Cưới xin của người Nùng Phàn Slình cũng mang đậm bản sắc dân tộc với những quy định thống nhất về lễ nghi, phương thức và những bước tổ chức. Thông qua những nghi lễ đám cưới, quan hệ họ hàng ngày càng được thắt chặt hơn. CHƯƠNG 4 QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ TƯƠNG TRỢ 4.1. Quan hệ dòng họ trong sản xuất nông nghiệp Theo tục lệ cổ truyền của người Nùng Phàn Slình, những người trong cùng dòng họ có bổn phận giúp đỡ, đổi công với nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Họ giúp nhau chủ yếu trong các khâu làm đất, gieo cấy và thu hoạch. Đây là hoạt động mang tính hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở mối quan hệ anh em, họ hàng truyền thống và cũng có nghĩa hai bên cùng có lợi. Trong thủy lợi, các thành viên trong dòng họ đã liên kết với nhau để có thể tạo dựng được những mảnh ruộng và hệ thống dẫn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vào các vụ gieo trồng và thu hoạch, các gia đình trong dòng họ thường giúp đỡ nhau. Nếu một hộ gia đình nào trong dòng họ gặp khó khăn về kinh tế, không đủ tiền mua lúa giống, trưởng họ đứng ra vận động các gia đình khác trong họ giúp đỡ tiền...
- Về chăn nuôi: Đồng bào thường nuôi trâu, bò để lấy sức kéo, gia cầm lấy thịt, làm phân bón và tạo nguồn thu nhập cho hộ gia đình. Mỗi gia đình thường nuôi trâu, bò từ 3 đến 4 con; lợn vài con, gia cầm cũng phải vài chục con. Với số lượng đầu gia súc, gia cầm như vậy, đối với một gia đình khá giả thì không sao nhưng đối với gia đình còn nghèo thì nguồn vốn để đầu tư vào chăn nuôi là hết sức khó khăn. Lúc này, ông trưởng họ sẽ huy động sự giúp đỡ của mọi người. Thực tế tại các điểm nghiên cứu cho thấy, sự liên kết giữa các gia đình người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn có quan hệ họ hàng gần gũi trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là hình thức liên kết, đổi công, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết này được thể hiện ở chỗ: Một mặt, canh tác nông nghiệp lúa nước với những đòi hỏi của quá trình sản xuất như khâu thủy lợi đến các hoạt động khẩn trương trong mùa vụ cũng như những hạn chế về nguồn vốn, tư liệu sản xuất, lao động… đã buộc đồng bào nơi đây khó có thể một mình trong sản xuất; mặt khác, thông qua sự liên kết này cho thấy việc coi trọng dòng họ. Các quan hệ họ hàng ở đây đã đảm bảo cho quan hệ kinh tế của gia đình người Nùng Phàn Slình có thể vận hành một cách có hiệu quả hơn kể cả xưa và nay. 4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ kinh tế 4.2.1. Tương trợ trong sinh đẻ và nuôi con cái Tư liệu của chúng tôi thu thập được tại các điểm nghiên cứu cho thấy, họ hàng bên nội và bên ngoại đều đến thăm hỏi và tặng quà cho người mẹ sinh con. Quà tặng thường là những loại thức ăn mà dân làng coi là nhiều chất dinh dưỡng như trứng gà, thịt gà, thịt lợn, gạo nếp để gia đình chế biến cho sản phụ ăn tăng cường sức khỏe, nhiều sữa nuôi con. Với những gia đình thuộc dòng họ lớn trong thôn thì việc đến thăm hỏi diễn ra tới vài tháng. Đây có thể coi là một sự tương trợ kinh tế phi chính thức mà chủ yếu là thực phẩm chính để sản phụ dùng trong nhiều ngày. Tuy nhiên, hiện nay, tặng phẩm của những người trong cùng dòng tộc đang có xu hướng thay quà tặng bằng tiền, đặc biệt là ở khu vực có mối giao thương thuận tiện bởi hoạt động thương mại hay dịch vụ làm thuê qua biên giới. Không chỉ có những vật phẩm thường ngày được họ hàng mang đến tặng sản phụ mà còn chia sẻ những tri thức truyền thống trong nuôi và chăm sóc trẻ sơ sinh. Những chia sẻ về kinh nghiệm, kiến thức dân gian trong việc nuôi dưỡng trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với những người phụ nữ làm mẹ lần đầu. 4.2.2. Tương trợ trong dịp tổ chức đám cưới Đến thời điểm nghiên cứu, tập quán trợ giúp vật chất (lợn, rượu, gạo) của các gia đình tùy theo mối quan hệ (họ hàng, anh em, bà con trong thôn bản) đối
- với gia chủ của người Nùng Phàn Slình vẫn còn tồn tại rõ nét. Trong đám cưới, không chỉ có sự tương trợ vật phẩm mà còn có tiền mừng đám cưới, trước hết là của anh em họ hàng ruột thịt những người đóng vai trò quan trọng trong trợ giúp gia đình khi có công việc lớn như đám cưới. Việc trợ giúp những vật phẩm của người Nùng Phàn Slình không bao giờ tính lãi và thời gian giúp đỡ thường rất dài, chỉ đến khi nào gia đình người trợ giúp có việc thì người được giúp đỡ mới mang đến trả lại. Thậm chí đời cha chưa trả thì đến đời con trai ở cùng với cha, mẹ có trách nhiệm trả. Nó được coi như một loại nợ miệng, nợ đồng lần. Đám cưới của người Nùng Phàn Slình có hai loại quà tặng bằng tiền nổi bật: thứ nhất là tiền mừng cho gia chủ được ghi vào sổ, gia đình sẽ giao cho một người đứng ra ghi chép cẩn thận để sau này còn đáp lại; thứ hai là tiền mừng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, trong lễ “sài hồng”. Những người đến uống rượu ở đám cưới, dù là khách bên nội hay bên ngoại đều mừng một ít tiền để cho đôi vợ chồng mới cưới gây vốn về sau. Tài liệu thực địa cho thấy, hệ thống tương trợ hay giúp đỡ đã thể hiện tinh thần gắn kết của các gia đình trong cộng đồng. Đây là mạng lưới tạo nên sự cố kết cộng đồng trong dòng tộc thể hiện qua những người được quyền tham gia vào việc tặng quà cho cô dâu, chú rể và họ nhận lại miếng trầu, cau hay một chén rượu. Xu hướng chung cho thấy, quà tặng trong đám cưới ở người Nùng Phàn Slình ngày một tăng cường hơn cả về số lượng người trao đổi và giá trị tương trợ. 4.2.3. Tương trợ trong lễ sinh nhật cho người già Người Nùng Phàn Slình thường tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cha mẹ mình ngay dưới bàn thờ mụ. Lễ sinh nhật thường diễn ra vào ban đêm với hai phần chính là lễ sinh nhật và cầu giải hạn cầu an. Thầy cúng mời linh hồn của tổ tiên về chứng kiến buổi lễ, phù hộ sức khỏe cho người được làm sinh nhật với sự tham dự chủ yếu là con cháu, họ hàng nội ngoại, thông gia, bạn bè của người được làm sinh nhật. Khoảng 5 năm trở lại đây, việc mang lễ vật có phần giảm, thay vào đó là tiền để gia đình tự đi mua thực phẩm. Việc đến mừng gia chủ bằng hiện vật hay tiền trong lễ nghi này tương tự tập tục “trả nợ miệng”. Việc mừng hiện vật biểu hiện cho sự chia sẻ trợ giúp về kinh tế với gia chủ là thành viên thuộc quan hệ họ hàng, nội ngoại. 4.2.4. Tương trợ qua tang ma Tang ma cho người quá cố thường diễn ra trong nhiều ngày và phải tốn kém một khoản kinh phí lớn nên chính trong lúc này gia đình tang chủ rất cần sự giúp đỡ, động viên của mọi thành viên trong họ hàng và bà con thôn bản. Khi
- nghe tin có người mất, bà còn họ hàng, thông gia, dân bản đến hỏi thăm, lo tổ chức nghi lễ hậu sự theo phong t ục. Sự cố kết cộng đồng thể hiện qua đám ma rõ nét nhất chính là “hội hàng phường”, một tổ chức phi quan phương chuyên giúp đỡ tang chủ các công việc trong tang ma. Khi nhận được tin báo của gia chủ, người hội trưởng có trách nhiệm thông báo cho toàn bộ hội viên. Mỗi một gia đình hội viên phải cử một thành viên trong hộ gia đình đến để giúp đỡ gia đình tang chủ và họ thường đem theo rượu, gạo, củi, số lượng tùy theo từng phường quy định. Thông thường, gia chủ đều bị rơi vào tình thế bị động không có sự chuẩn bị về lợn, rượu và gạo nên phải hỏi mượn anh em trong dòng họ trước, nếu không có mới hỏi bà con trong thôn. Sau khi đã có sự thống nhất và lên kế hoạch về các khoản chi cho đám ma, hội trưởng và hội phó sẽ tiến hành phân thành các nhóm để cùng nhau giúp tang chủ lo chu toàn cho người qua cố. Tuy nhiên, ở đây vai trò của dòng họ không vì thế mà ít có vị trí quan trọng khi một thành viên cộng đồng dòng họ quá cố. Đó là, ngoài trách nhiệm của hội hàng phường còn có trách nhiệm của quan hệ họ hàng thân tộc với người quá cố. Đây chính là quan hệ chặt chẽ của mạng lưới xã hội giữa các cá nhân và hộ gia đình với các bên liên quan một cách tự giác, phân cấp trên nền tảng gia đình, dòng tộc và cộng đồng. Tiểu kết Chương 4 Cũng như nhiều tộc người và nhóm địa phương khác, quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn cũng được biểu hiện trong các hoạt động kinh tế, mà trước hết là truyền thống tương trợ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Với điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho việc canh tác, nhất là canh tác lúa nước rất cần đổi công trong các khâu sản xuất, đặc biệt là các khâu nặng nhọc và cần nhiều công lao động vào thời điểm cho kịp thời vụ. Thông qua hoạt động đổi công, tương trợ trong sản xuất, không chỉ góp phần giải quyết nhu cầu trong sản xuất mà còn tăng cường tính gắn kết giữa các thành viên dòng họ ở người Nùng Phàn Slình. Quan hệ dòng họ còn được biểu hiện qua các hoạt động trợ giúp trong các lễ nghi sinh đẻ, cưới xin, tang ma, lễ sinh nhật cho người già, về nhà mới. Trong các lễ nghi này, dòng họ đóng vai trò thiết yếu trong sự tương trợ cả về vật chất, tinh thần và công sức. Trợ giúp tạo thành mạng lưới quan hệ của cá nhân, hộ gia đình với các hộ gia đình khác cùng dòng tộc, cũng như các hộ gia đình có mối liên hệ thông gia trong cộng đồng. Qua thực hiện các lễ nghi, đã hình thành mạng lưới quan hệ xã hội, với sự tương trợ được vận hành như một hệ thống hỗ trợ xã hội. Xu hướng đưa cả quan hệ dòng họ vào trong mạng lưới cá nhân và hộ gia đình càng được tăng cường. Mối quan hệ này không chỉ có bên dòng họ nội mà còn bao gồm họ ngoại và họ vợ/chồng, không chỉ ở cộng đồng thôn bản mà trong một số trường hợp còn vượt ra ngoài phạm vi thôn bản. Tuy
- nhiên, về căn bản, mạng lưới quan hệ các cá nhân dòng tộc của người Nùng Phàn Slình chủ yếu vẫn chưa vượt ra ngoài ranh giới của cộng đồng thôn bản. CHƯƠNG 5 QUAN HỆ DÒNG HỌ VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ 5.1. Về hệ thống chính trị cơ sở Hệ thống chính trị cơ sở là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở. Trong phạm vi lu ận án, chúng tôi đề cập tới mối quan hệ dòng họ ở hệ thống chính trị cấp cơ sở (cấp xã và chân rết hành chính của nó cấp thôn). Ở đây, quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình được đặt trong bối cảnh quan hệ dòng họ của các nhóm người Nùng khác và của tộc người khác tại xã được nghiên cứu. Bởi vậy, việc phân tích có nhiều chỗ không thể tách riêng cho người Nùng Phàn Slình. 5.2. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn 5.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn Xã Thụy Hùng gồm 12 thôn: Nà Pàn, Nà Hỏ, Còn Phèo, Khuổi Khe, Nà Pài, Pò Nghiều, Pò Mạch, Nà Lại, Khuổi Mươi, Còn Tòong, Lũng Cọong, Tam Lung. Xã có 1.038 hộ với 4.765 nhân khẩu, có 3 dân tộc cùng chung sống là Tày, Nùng (nhóm Nùng Phàn Slình và Nùng Cháo), Kinh, trong đó người Nùng Phàn Slình sinh sống chủ yếu ở 5 thôn (Pò Nghiều, Nà Pàn, Nà Lại, Còn Phèo, Còn Tòong). Tính đến thời điểm tháng 12/2012, cán bộ, công chức cấp xã của Thụy Hùng là 31 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó có 17 người, tức hơn 50% số lượng cán bộ xã là người Nùng (Nùng Phàn Slình: 8 người, Nùng Cháo 9 người), còn lại là người Tày. Xã Gia Cát gồm 10 thôn: Bắc Nga, Liên Hòa, Bắc Đông I, Bắc Đông II, Nà Pó, Sơn Hồng, Hợp Tân, Cổ Lương, Pò Cại, Sa Cao. Xã có 1.072 hộ với 4.581 nhân khẩu, có 6 dân tộc chung sống là Kinh, Nùng, Tày, Hoa, Dao, và dân tộc khác. Trong số các dân tộc kể trên, người Nùng có 2.102 người, chiếm 45,89%; Tày là 2.350 người, chiếm 51,30%, còn lại là các dân tộc khác. Tổng số cán bộ công chức của xã gồm 30 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó 21 người là dân tộc Tày, 9 người là dân tộc Nùng Phàn Slình. Xã Thanh Lòa gồm 6 thôn: Còn Phạc, Bản Rọi, Nà Làng, Nà Pheo, Bản Lòa, Co Khuất. Xã có 325 hộ với 1.630 nhân khẩu, trong đó chỉ có 45 hộ là người Tày, còn lại là người Nùng Phàn Slình. Tổng số cán bộ công chức của xã gồm 27 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó 5 người là dân tộc Tày, 22 người là dân tộc Nùng (nhóm Phàn Slình) Như
- vậy, ở xã Thanh Lòa, đa số cán bộ là người Nùng Phàn Slình; tại xã Thụy Hùng, đa số cán bộ là người Nùng Cháo; còn ở xã Gia Cát, đa phần là người Tày. 5.2.2. Quan hệ dòng họ với cán bộ chủ chốt cấp xã Bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay ở địa phương được nghiên cứu cho thấy, những người giữ vị trí trong bộ máy chính quyền cấp xã đều có lợi ích nhất định về vật chất, tinh thần và lợi ích chính trị. Các vị trí có tiếng nói quyết định trong hệ thống này là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Bí thư Đảng ủy. Từ tài liệu điền dã cho thấy, một số chức danh chủ chốt như Ch ủ tịch Ủy ban Nhân dân và Bí thư Đảng ủy đều là người thuộc dòng họ chiếm dân số đông nhất xã. Ở đây, chưa xét đến vai trò, năng lực quản lý của họ mà chỉ muốn nói đến một hiện tượng, một số người giữ chức v ụ ch ủ chốt c ủa xã đều có mối quan hệ họ hàng với Chủ tịch và Bí thư Đảng ủy xã. Dựa trên phân tích mạng lưới quan hệ họ hàng tại địa phương đã chỉ ra, những người đương giữ chức vụ trên không chỉ là những người ruột thịt bên họ nội, mà còn cả họ ngoại và bên họ vợ nữa (phi nội, tác ngoại). Bên cạnh các chức vị Chủ tịch, Bí thư có quan hệ họ hàng nội ngoại gần gũi còn có các Phó Chủ tịch, Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng Công an xã, Chủ tịch Hội người cao tuổi cũng như vậy. Ở đây không chỉ có quan hệ cha con (cha con gái; cha con trai; cha con rể) mà còn có quan hệ thông gia, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh em không chi gần thì cũng là chi xa trong cùng dòng tộc. Qua đây cho thấy rằng, quan hệ gia đình, dòng họ đều có sự chi phối không nhỏ đến việc bố trí cơ cấu đội ngũ cán bộ cấp xã. Sự cố kết dòng họ ngày càng rõ nét, đang chi phối sự vận hành của hệ thống chính trị tại địa phương các điểm nghiên cứu là một thực tế. Ngoài quan hệ dòng họ là quan hệ bản vị địa phương ở cấp xã có mối gần gũi với người cùng làng, bản cũng được thể hiện ở các địa bàn Nùng Phàn Slình vào thời điểm khảo sát. 5.2.3. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp thôn Có thể thấy rằng, mối quan hệ gia đình, họ hàng có những ảnh hưởng tới hoạt động quản lý cấp xã và cấp thôn nhưng trên thực tế, ảnh hưởng này đối với cấp thôn yếu hơn so với bộ máy quản lý cấp xã tại những điểm nghiên cứu. Những người được bầu vào ban quản lý cấp thôn đều có điều kiện thuận lợi về gia đình (vợ chồng hòa thuận, đủ nhân sự để sản xuất,…) không quá nghèo, có uy tín với gia đình, thôn bản. Mỗi thôn thường có vài dòng họ cùng tụ cư với nhau, trong đó thường có một dòng họ có dân số lớn và là dòng họ đến cư trú đầu tiên trong thôn. Dòng họ lớn có ưu thế trong việc bầu cử nên dễ giữ những vị trí chủ chốt của cấp thôn. Điều này cũng dễ lý giải, bởi bên cạnh dòng họ lớn với số hộ, số nhân khẩu đông là những dòng họ có số hộ, nhân khẩu ít hơn nhưng thường có mối quan hệ thông gia với họ lớn và các dòng họ khác ở trong thôn. Như vậy, trong
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 267 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn