intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh

Chia sẻ: Nhiên Hà | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

19
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam hiện nay; đo lường mức độ và chiều ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam; tìm kiếm sự khác biệt về ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh theo đặc điểm nhân khẩu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh

  1. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ LUẬN ÁN 1.1. Bối cảnh nghiên cứu Giáo dục quốc tế đã và đang trở thành xu hướng giáo dục ngày một phát triển trên toàn cầu; đối với một số quốc gia thì quốc tế hoá giáo dục được coi trọng và quan tâm đặc biệt (Bodycott, 2009; Trần Lê Hữu Nghĩa, 2015; Zhuang và cộng sự, 2015). Các bậc phụ huynh mong muốn cho con đi theo học một nền giáo dục quốc tế do những lợi ích mà giáo dục quốc tế mang lại cho sự phát triển cá nhân như: khả năng thích nghi với môi trường sống, nâng cao trình độ ngoại ngữ, trải nghiệm văn hoá nước ngoài, triển vọng nghề nghiệp, cơ hội di cư và thoả mãn mong muốn nâng cao vị thế xã hội của cá nhân (Chen và Zimitat, 2006; Cubillo và cộng sự, 2006; Monk, 2012; Li và Bray, 2007; Mazzarol và Soutar, 2002; Petzold và Peter, 2015; Zhuang và cộng sự, 2015). Số lượng du học sinh tại các cơ sở giáo dục ở nước ngoài đang tăng lên, với sự gia tăng đáng kể về số người học đến từ Đông Nam Á, trong đó Châu Á đóng góp hơn một nửa trong tổng du học sinh trên thị trường giáo dục quốc tế toàn cầu. 1.2. Lý do lựa chọn đề tài Tại Việt Nam, một quốc gia có nhiều sự chuyển đổi về kinh tế và phụ huynh Việt Nam rất quan tâm đến đầu tư giáo dục cho con trẻ; đặc biệt là đối với bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Do sự khác biệt về văn hoá và tín ngưỡng nên khi nghiên cứu về giáo dục quốc tế tại các quốc gia Châu Á trong đó có những nước điển hình như Việt Nam, Thái Lan hay Trung Quốc thì cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến định hướng giáo dục của con cái (Leung, K., 2013; Trần Duy Nam, 2015; Fongkasira và Pupat, 2018). Nghiên cứu về du học sinh bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông (độ tuổi từ 12 -18 tuổi) sẽ có nhiều sự khác biệt, vì đây là độ tuổi còn phụ thuộc và chịu nhiều kiểm soát từ phía gia đình. Nên ý định du học sớm không còn là mong muốn của riêng người học mà là định hướng của phụ huynh học sinh Việt Nam đối với con trẻ. Vì vậy, tại Việt Nam nghiên cứu về du học nước ngoài bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông thì cần nghiên cứu ý định của phụ huynh học sinh Việt Nam. Về lý thuyết, theo Schnusenberg và cộng sự (2012) việc áp dụng lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) vào lĩnh vực giáo dục quốc tế còn khá mới mẻ. Đặc biệt, kết quả từ các nghiên cứu ứng dụng lý thuyết TBP trước đây trong lĩnh vực du học quốc tế chưa thống nhất. Chưa có nghiên cứu nào trước đây bổ sung yếu tố cảm xúc vào mô hình TPB để giải thích cho hành vi cho con đi du học. Do đặc thù của bối cảnh nghiên cứu về du học nước ngoài tại Việt Nam nên lần đầu yếu tố cảm nhận bản thân và chủ nghĩa vật chất được bổ sung vào mô hình nghiên cứu. Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về ý định du học của học sinh nhưng những đóng góp mang tính khoa học chưa nhiều. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Các yếu tố
  2. 2 ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ. 1.3. Mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án 1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu + Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam hiện nay. + Đo lường mức độ và chiều ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam. + Tìm kiếm sự khác biệt về ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh theo đặc điểm nhân khẩu học. 1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu 1) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh? 2) Mức độ độ ảnh hưởng và chiều hướng tác động của các yếu tố đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam như thế nào? 3) Có hay không sự khác biệt về ý định cho con đi du học nước ngoài giữa các nhóm theo đặc điểm nhân khẩu học? 4) Có thể đưa ra đề xuất và kiến nghị như thế nào để giáo dục Việt Nam có thể cải thiện chất lượng giáo dục và tạo môi trường học tập quốc tế, thu hút hoc sinh quốc tế và giữ chân học sinh Việt Nam học trong nước? 1.3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về những nhân tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài. Từ đó xác định và đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam. - Đề xuất mô hình nghiên cứu ý định cho con đi du học nước ngoài của người tiêu dùng Việt Nam. - Kiểm định tính chất, mức độ và mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam. - Đề xuất giải pháp đối với các tổ chức giáo dục quốc tế để người Việt có thể dễ dàng tiếp cận với một môi trường giáo dục quốc tế uy tín và hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất những gợi ý giúp cải thiện chất lượng giáo dục Việt Nam. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh. Trong đó, tìm hiểu mối quan hệ, mức độ và tính chất ảnh hưởng của từng yếu tố tác động lên nhau. Khách thể nghiên cứu: Phụ huynh học sinh Việt Nam bậc học trung học cơ sở và trung học phổ thông có ý định cho con đi du học nước ngoài. Không gian nghiên cứu: Phụ huynh học sinh Việt Nam có ý định cho con đi du học nước ngoài tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định.
  3. 3 Thời gian nghiên cứu: Các số liệu thứ cấp được thu thập trong các ba liên tục liền kề tại thời điểm nghiên cứu từ 2017 - 2020. Dữ liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2018 - 2020. 1.5. Phương pháp và quy trình nghiên cứu Luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu là: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. - Nghiên cứu định tính: Những người tham gia trong nghiên cứu này bao gồm những phụ huynh học sinh có kế hoạch cho con đi du học hoặc muốn bắt đầu đăng ký du học vào năm 2018-2020. Số lượng người được phỏng vấn trực tiếp là 6 phụ huynh và ý kiến từ 4 chuyên gia về du học quốc tế. - Nghiên cứu định lượng: Phương pháp được lựa chọn là phương pháp chọn mẫu phi xác suất vì nó phù hợp nhất với nhu cầu của nghiên cứu này. Số liệu được thu thập thông qua một cuộc khảo sát đã được thực hiện bằng cách sử dụng bảng câu hỏi cho cha mẹ có kế hoạch cho con đi du học hoặc bắt đầu đăng ký du học vào năm học 2018- 2020 tại thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. 1.6. Những đóng góp mới của luận án 1.6.1. Những đóng góp về lý thuyết Tác giả lựa chọn và điều chỉnh được mô hình phù hợp với nghiên cứu về ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh Việt Nam. Nghiên cứu này bổ sung cho mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch với ba nhân tố nhận thức có tác động đến thái độ là cảm nhận bản thân là người truyền thống, cảm nhận bản thân là người hiện đại, yếu tố sự thành đạt (thành phần của chủ nghĩa vật chất) và ba nhân tố cảm nhận có tác động đến ý định là rủi ro nhận thức, giá trị nhận thức và mong muốn để nghiên cứu ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh 1.6.2. Những đóng góp về thực tiễn Nghiên cứu cung cấp những dữ liệu về mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học và ý định cho con đi học nước ngoài. Điều này, cung cấp thông tin cho các Tổ chức giáo dục tại Việt Nam để có biện pháp nâng cao chất lượng phù hợp với mong muốn và nhu cầu của phụ huynh và học sinh Việt Nam; giúp cho các tổ chức giáo dục quốc tế có thể tiếp cận thị trường Việt Nam một cách hiệu quả nhất, giúp cho môi trường giáo dục trong nước và nước ngoài có sự cạnh tranh lành mạnh, giáo dục tiên tiến sẽ ngày càng phát triển và đẩy lùi giáo dục kém hiệu quả, còn nặng nề về hình thức không gắn liền với thực tiễn; giúp cho các học sinh và phụ huynh học sinh có nhiều sự lựa chọn hơn và dễ dàng tiếp cận mọi thông tin hữu ích hơn trong giáo dục đặc biệt là giáo dục quốc tế và hơn nữa điều này mang lại lợi ích chung về giáo dục cho toàn xã hội.
  4. 4 1.7. Kết cấu của đề tài Luận án được kết cấu thành 5 chương như sau: Chương 1: Giới thiệu về luận án Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Bình luận kết quả nghiên cứu và kiến nghị
  5. 5 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐNNH CHO CON ĐI DU HỌC NƯỚC NGOÀI 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Một số khái niệm nền tảng - Giáo dục quốc tế: là hình thức giáo dục và các du học sinh ra khỏi biên giới quốc gia để tham gia khoá học tại một cơ sở đào tạo nước ngoài. - Du học sinh được hiểu là công dân Việt Nam học tập ở nước ngoài. - Phân biệt các hình thức du học: Du học sinh tham gia học tập ở nước ngoài dưới hai hình thức là: Du học sinh có học bổng và du học sinh tự túc. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tác giả chỉ đề cập tới những du học sinh tự túc và du học sinh có học bổng một phần; nghĩa là những người phải trả toàn bộ hoặc một phần kinh phí trong quá trình sống và học tập tại nước ngoài. - Phân biệt du học nước ngoài và du học tại chỗ: Du học nước ngoài là việc đi học ở một nước khác nước hiện tại của người học đang sinh sống (OECD, 2010). Du học tại chỗ là việc học tập chương trình đào tạo của một cơ sở nước ngoài tại nước sở tại mà người học đang sinh sống. 2.1.2. Các học thuyết được vận dụng để nghiên cứu ý định cho con đi du học Để nhận biết được các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi liên quan đến ý định hành vi, các tác giả đã nghiên cứu dựa trên nhiều lý thuyết khác nhau như: Thuyết động lực Push – Pull của Everett S. Lee (1966); Thuyết hành động hợp lý (Theory of reasoned action – TRA) của Fishbein và Ajzen (1975); Thuyết hành vi có hoạch định (Theory of planned behavior – TPB) của Ajzen (1991). Trong đó, lý thuyết hành vi có hoạch định TPB được lựa chọn là lý thuyết dẫn đường cho luận án. Theo TPB ý định hành vi và nhận thức về kiểm soát hành vi của khách hàng tác động lên hành vi thực tế của họ. Trong đó, ý định hành vi của khách hàng chịu sự ảnh hưởng của ba nhân tố: (1) Thái độ đối với hành vi (Attitude toward the behavior – ATT); (2) Chuẩn mực chủ quan (Subjective norm – SN); (3) Nhận thức về kiểm soát hành vi (Perceived behavioral control – PBC). 2.2. Tổng quan nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài 2.2.1. Một số nghiên cứu trong nước và nước ngoài về du học nước ngoài Kết quả của nghiên cứu của (Presley và cộng sự, 2010) đã chứng minh rằng lý thuyết TPB có thể nâng cao hiểu biết của chúng ta về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định du học nước ngoài. Tuy nhiên, lý thuyết TPB được ứng dụng trong các nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục quốc tế còn hạn chế và do môi trường nghiên cứu có nhiều điểm khác biệt nên kết quả nghiên cứu trước đây còn chưa thống nhất. Chính vì thế, trong tương lai cần nhiều hơn nữa việc ứng dụng lý thuyết TPB trong nghiên cứu về du học nước ngoài để làm sáng tỏ kết quả nghiên cứu đã công bố trước đó.
  6. 6 Presley và cộng sự (2010) đã áp dụng hành vi có hoạch định (TPB) của Ajzen để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định du học của sinh viên. Với cuộc khảo sát được thực hiện với quy mô mẫu nhỏ là 188 sinh viên quản trị kinh doanh, để kiểm tra các giả thuyết trong TPB cho bối cảnh nghiên cứu du học ở nước ngoài. Kết quả nghiên cứu của các tác giả tiếp tục ủng hộ lý thuyết Ajzen, khẳng định rằng thái độ, nhận thức kiểm soát hành vi và các chuẩn mực chủ quan đều là những dự đoán tích cực về ý định du học. Trong đó, các chuẩn mực chủ quan về du học nước ngoài là yếu tố tiên đoán nhất của ý định du học, trong khi thái độ đối với việc học tập ở nước ngoài có ảnh hưởng tương đối thấp. Nghiên cứu này cũng xác định sự khác biệt về giới tính trong mối quan hệ giữa các yếu tố cụ thể trong mô hình. Goel và cộng sự (2010) mở rộng trên lý thuyết TPB bằng cách thêm các đặc điểm tính cách. Họ khảo sát 125 sinh viên kinh doanh tại một trường đại học Florida và đưa ra giả thuyết rằng hành vi, niềm tin chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi có liên quan tích cực với ý định học tập. Kết quả cho thấy rằng niềm tin hành vi có liên quan tích cực với ý định du học, các đặc điểm tính cách bao gồm: tính hướng ngoại ảnh hưởng tích cực với niềm tin hành vi, và cả sự tận tâm và tính hướng ngoại đều có liên quan tích cực đến việc kiểm soát niềm tin. Tuy nhiên, niềm tin chủ quan và kiểm soát niềm tin được đưa vào mô hình nghiên cứu nhưng không được hỗ trợ về giả thuyết nghĩa là không có bất kỳ ảnh hưởng nào tới ý định du học. Mặc dù nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng các yếu tố định hướng và hỗ trợ từ gia đình như định hướng học tập và chi phí đóng góp là quan trọng (Bodycott, 2009; Bodycott and Lai, 2012; Pimpa, 2003; Pimpa, 2005), nhưng kết luận của Goel và cộng sự (2010) cho thấy rằng những điều này là không đáng kể khi niềm tin hành vi được xem xét. Hơn nữa, kết quả cho thấy đặc điểm cá nhân đóng một vai trò trong niềm tin liên quan đến nghiên cứu ở nước ngoài và những đặc điểm khác nhau có mức độ ảnh hưởng khác nhau (Goel và cộng sự, 2010). Cần có nhiều nghiên cứu hơn trong lĩnh vực giáo dục quốc tế để kiểm tra các giả thuyết trong ứng dụng mô hình TPB. Trong một nghiên cứu ứng dụng lý thuyết TPB và phát triển thang đo từ nghiên cứu của Presley và cộng sự (2010), để khảo sát 204 sinh viên kinh doanh tại một trường đại học ở miền Trung Tây nước Mỹ của Fitzsimmons và cộng sự (2013) nhằm khám phá các yếu tố dự đoán lý do tại sao sinh viên lựa chọn các chương trình du học dài hạn ngắn hạn. Kết quả cho thấy rằng học sinh cảm nhận được áp lực xã hội nhiều hơn để tham gia vào các chương trình ngắn hạn, và các rào cản cao hơn hạn chế sự tham gia vào các chương trình dài hạn. Tất cả các yếu tố TPB dự đoán đáng kể ý định của học sinh để du học ở cả hai chương trình ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của họ nhận thức kiểm soát hành vi có mức độ dự đoán không đáng kể đến ý định tham gia vào các chương trình ngắn hạn (Fitzsimmons và cộng sự, 2013). Như vậy, việc lựa chọn bối cảnh nghiên cứu là ý định du học dài hạn hay ý định du học ngắn hạn là khác
  7. 7 nhau vì mức độ tác động của từng yếu tố dự đoán trong TPB lên ý định hành vi là khác nhau. Một nghiên cứu sử dụng lý thuyết hành vi có hoạch định (TPB) làm nền tảng của Schnusenberg và cộng sự (2012) để dự đoán ý định của học sinh tham gia vào chương trình du học ngắn hạn (chương trình học tập ở nước ngoài với thời gian ngắn, kéo dài khoảng từ 10 -15 ngày) ở nước ngoài. Mô hình nghiên cứu của tác giả đưa ra giả thuyết rằng ý định được dự đoán bởi khả năng chi trả, sự sẵn sàng chi trả và mong muốn. Nghiên cứu của Schnusenberg và cộng sự (2012) phát triển mối quan hệ trung gian giữa niềm tin và ý định hành vi, lần đầu tiên được ứng dụng trong mô hình TPB để tìm hiểu bối cảnh nghiên cứu du học ở nước ngoài. Thông qua một cuộc khảo sát của 254 sinh viên kinh doanh đại học tại một trường đại học ở miền Nam nước Mỹ. Kết quả từ nghiên cứu gia tăng sự hiểu biết về quá trình ra quyết định của học sinh để tham gia vào một chương trình du học ngắn hạn và có ý nghĩa cho giáo dục và học tập trong bối cảnh học tập ở nước ngoài. Ba yếu tố được bổ sung vào mô hình TPB mở rộng đều được xác định là có ảnh hưởng đến ý định du học ngắn hạn; trong đó, yếu tố mong muốn và khả năng chi trả có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể đến ý định hành vi như một biến độc lập và yếu tố sẵn sàng chi trả được xác định là biến trung gian giữa các giá trị niềm tin và ý định du học. Kiến thức về những yếu tố này sẽ góp phần đáng kể trong việc phát triển các chương trình du học nước ngoài, cũng như giúp người học và gia đình của họ dễ dàng tiếp cận với các chương trình du học phù hợp. Tuy nhiên, bối cảnh nghiên cứu là du học ngắn hạn nên rất cần những nghiên cứu khoa học để nghien cứu khẳng định mối quan hệ giữa mong muốn và ý định du học nước ngoài dài hạn và du học quốc tế nói chung (Schnusenberg và cộng sự, 2012). Theo Zhuang và cộng sự (2015), trong bối cảnh học tập ở nước ngoài, sinh viên đưa ra quyết định ra nước ngoài dựa trên việc xem xét cẩn thận các lợi ích mà họ sẽ nhận được so với hy sinh họ sẽ phải thực hiện. Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng trong ba loại niềm tin chỉ có niềm tin hành vi có liên quan đến giá trị nhận thức của du học sinh và giá trị nhận thức thì dự báo tốt cho ý định hành vi đi du học, niềm tin chủ quan và niềm tin kiểm soát có ảnh hưởng tích cực đến ý định du học. Một nghiên cứu khác của Presley và cộng sự (2010) cho biết cả ba niềm tin đều có sự ảnh hưởng quan trọng đến ý định hành vi. Theo Zhuang và cộng sự (2015) cần có nhiều nghiên cứu khoa học trong tương lai để kiểm tra mối quan hệ giữa giá trị nhận thức và ý định hành vi thông qua khuôn khổ lý thuyết TPB mở rộng. Ở Việt Nam, còn rất ít những nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến ý định du học. Một số nghiên cứu liên quan tới quyết định lựa chọn điểm đến, trường học để ghi danh…chủ yếu dựa vào lý thuyết di cư của Ernst Georg Ravenstein (1885, 1889) và thuyết động lực Push – Pull của Everett S. Lee (1966) mà sau này Mazzarol và Soutar (2002) là người phát triển lý thuyết thành công nhất và được ứng trong nhiều nghiên cứu về hành vi ra quyết định du học trong và ngoài nước (nghiên cứu của: Trần Duy
  8. 8 Nam (2015), Trần Lê Hữu Nghĩa (2015)). Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này nằm ngoài trọng tâm nghiên cứu của tác giả. Vấn đề tác giả quan tâm là ý định hành vi trong bối cảnh cho con đi du học nước ngoài, đối tượng mà tác giả đang đề cập tới là nghiên cứu về du học quốc tế cho đối tượng học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, mà người có ảnh hưởng nhất trong quyết định này đối với họ là các bậc phụ huynh. Chính vì thế, ở Việt Nam khoảng trống nghiên cứu cho ý định du học nước ngoài còn khá rộng, nên rất cần những nghiên cứu mang tính khoa học để gia tăng sự hiểu biết về vấn đề này và làm phong phú cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu tiếp theo. 2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam 2.2.2.1. Giá trị nhận thức (Perceived value) Với mục tiêu nghiên cứu của luận án, tác giả nhận thấy định nghĩa của của Zeithaml (1988) mặc dù không phải là hoàn hảo nhất nhưng phù hợp nhất với bối cảnh nghiên cứu và được áp dụng trong nghiên cứu của tác giả như sau: “Giá trị nhận thức về việc cho con đi du học là đánh giá chung của phụ huynh học sinh về những lợi ích đạt được từ việc cho con đi du học.” Việc bổ sung yếu tố giá trị nhận thức (thành phần giá trị cảm xúc) vào mô hình TPB để giải thích rõ hơn ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh là cần thiết và sẽ hứa hẹn nhiều kết quả thú vị. 2.2.2.2. Mong muốn (Desire) Trong việc xem xét mối quan hệ giữa mong muốn và ý định hành vi trong bối cảnh nghiên cứu du học ở nước ngoài tác giả nhận thấy khái niệm của Shaw và cộng sự (2000) là phù hợp nhất và được áp dụng trong nghiên cứu của tác giả như sau: “Mong muốn cho con đi du học là định hướng tương lai của phụ huynh học sinh hướng đến việc cho con đi du học.” Việc xem xét mối quan hệ giữa mong muốn và ý định cho con đi du học nước ngoài còn khá mới mẻ, theo sự hiểu biết của tác giả thì chưa có nghiên cứu nào trước đây thực khám phá và kiểm định nội dung này. 2.2.2.3. Cảm nhận bản thân (Self-concept) Thuật ngữ cảm nhận bản thân xuất phát từ ý tưởng chúng ta đều có hình ảnh về những gì chúng ta tin rằng bản thân thực sự là gì và những gì chúng ta mong muốn và cảm nhận bản thân được chia thành hai nhóm là cảm nhận bản thân là người truyền thống và cảm nhận bản thân là người hiện đại (Nguyen và cộng sự, 2009), trong đó: - Cảm nhận bản thân là người truyền thống (Traditional self): Mức độ mà quan niệm về bản thân của một cá nhân phù hợp với các chuẩn mực, giá trị và niềm tin Nho giáo phổ biến trước khi bắt đầu chuyển đổi kinh tế. - Cảm nhận bản thân là người hiện đại (Modern self): Mức độ mà quan niệm về bản thân của một cá nhân phù hợp với các chuẩn mực, giá trị và niềm tin được du nhập từ các nước phát triển hơn sau khi bắt đầu quá trình chuyển đổi kinh tế.
  9. 9 2.2.2.4. Các yếu tố cấu thành chủ nghĩa vật chất (Materialism) Richins và Dawson (1992) đã xác định ba lĩnh vực niềm tin quan trọng của chủ nghĩa duy vật, bao gồm: 1) Sự thành đạt (Success): Mức độ mà cá nhân sử dụng của cải vật chất là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự thành đạt của một con người trong cuộc sống. 2) Mục tiêu trung tâm (Centrality): Mức độ mà cá nhân đặt việc phấn đấu có được của cải vật chất sung túc là mục tiêu trung tâm trong cuộc sống. 3) Hạnh phúc (Happiness): Niềm tin của cá nhân rằng của cải vật chất là yếu tố mang lại sự thoả mãn và hạnh phúc trong cuộc sống. Các nghiên cứu trước đây ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Việt Nam đã tìm ra chủ nghĩa vật chất như một dự báo quan trọng về mua hàng xa xỉ (Nguyen & Tambyah, 2011; Sun và cộng sự, 2017). Tuy nhiên, trong nghiên cứu giáo dục quốc tế thì chủ nghĩa vật chất còn là một khái niệm mới nên việc kiểm tra mối quan hệ giữa chủ nghĩa vật chất và thái độ đối với hành vi cho con đi du học là giúp gia tăng sự hiểu biết về bối cảnh nghiên cứu về du học quốc tế tại Việt Nam. 2.2.3. Khoảng trống nghiên cứu Qua các nghiên cứu trong nước và nước ngoài, các nhóm yếu tố tác động đến việc ý định du học tác giả nhận thấy còn những mặt tồn tại như sau: (1) Theo Schnusenberg và cộng sự (2012) việc áp dụng lý thuyết TPB vào lĩnh vực giáo dục quốc tế còn khá mới mẻ, các kết quả đã được công bố khi ứng dụng TPB trong nghiên cứu về du học còn tồn tại những mâu thuẫn. (2) Qua nghiên cứu của Fitzsimmons và cộng sự (2013) nhằm khám phá các yếu tố dự đoán lý do tại sao sinh viên lựa chọn các chương trình du học dài hạn ngắn hạn; đã phát hiện sự khác nhau giữa hai loại hình du học này. Hơn nữa, trong bối cảnh đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam, các bậc phụ huynh chủ yếu cho con đi du học nước ngoài để tìm kiếm một nền giáo dục mới, phát triển hơn và các khoá học thường kéo dài từ hai đến ba năm cho một trình độ học vấn là phổ biến hơn cả. (3) Do sự thay đổi lớn về điều kiện văn hóa, thể chế và kinh tế, cũng như trong các chương trình nghiên cứu được cung cấp ở nước ngoài, nên đề tài về giáo dục quốc tế chứa nhiều hứa hẹn để khảo sát ý định du học trong khu vực Châu Á (Trần Lê Hữu Nghĩa, 2015; Trần Duy Nam, 2015; Petzold và Moog, 2017). Trong đó, Việt Nam một quốc gia có nhiều sự chuyển đổi về kinh tế, và rất quan tâm đầu tư cho giáo dục. Đây là một bối cảnh nghiên cứu đầy hấp dẫn và cần được quan tâm. (4) Qua phần tổng quan nghiên cứu tác giả nhận thấy đối tượng nghiên cứu chủ yếu là du học sinh theo học tại các trường đại học, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, văn hoá cởi mở. Tuy nhiên, tại Việt Nam một quốc gia có nền kinh tế mới nổi và chịu ảnh hưởng của văn hoá Khổng Tử nên cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều tới con cái gần như trong mọi quyết định về giáo dục. Đặc biệt là đối với học sinh bậc trung học thì cha mẹ là người định hướng cho con cái trong các sự lựa chọn liên quan đến giáo dục.
  10. 10 Nên việc nghiên cứu về giáo dục quốc tế tại Việt Nam thì không thể bỏ qua đối tượng nghiên cứu là ý định hành vi của phụ huynh. Việc cho con đi du học nước ngoài không chỉ là ước mơ của các bạn trẻ mà còn là mong muốn của các bậc phụ huynh (Kim và cộng sự, 2014). Mặt khác, nhận thức về những giá trị mà du học mang lại như: bằng cấp quốc tế, môi trường sống, sự tự lập, phát triển ngôn ngữ, cơ hội định cư tại nước ngoài cũng thúc đẩy việc cho con đi du học (Mazzarol và Soutar, 2002; Bodycott, 2009). Bên cạnh đó, do những đặc điểm nổi bật và khác biệt của phụ huynh học sinh Việt Nam như: phụ huynh học sinh Việt Nam rất quan tâm và đồng hành cùng con trẻ trong các quyết định của cuộc sống trong giai đoạn trẻ từ 12 – 18 tuổi. Nên đặc điểm về tính cách của phụ huynh học sinh được dự đoán là có ảnh hưởng không nhỏ đến ý định cho con đi du học của họ. Tại Việt Nam, những gia đình có con đi du học nước ngoài được coi là những gia đình có tiềm lực về tài chính và sự thành công nhất định trong xã hội. Đây được cho là các yếu tố cấu thành của chủ nghĩa vật chất có ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh Việt Nam. 2.3. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết H1: Thái độ của phụ huynh học sinh về hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Giả thuyết H2: Chuẩn mực chủ quan về hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Giả thuyết H3: Nhận thức về khả năng kiểm soát hành vi của phụ huynh học sinh đối với hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học.. Giả thuyết H4: Mong muốn cho con đi du học của phụ huynh có tác động thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Giả thuyết H5: Giá trị nhận thức về hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học của phụ huynh. Giả thuyết H6a: Phụ huynh cảm nhận mình là người truyền thống có tác động âm/tiêu cực đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Giả thuyết H6b: Phụ huynh cảm nhận mình là người hiện đại có tác động dương/tích cực đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Giả thuyết H7a: Yếu tố sự thành đạt của chủ nghĩa vật chất có tác động dương/tích cực đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Giả thuyết H7b: Yếu tố mục tiêu trung tâm của chủ nghĩa vật chất có tác động âm/tiêu cực đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Giả thuyết H7c: Yếu tố hạnh phúc của chủ nghĩa vật chất có tác động dương/tích cực đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học. 2.4. Thang đo dự kiến - Thang đo ATT, SN, PBC được điều chỉnh từ Chang (1998).
  11. 11 - Thang đo giá trị nhận thức được điều chỉnh từ Relyea và cộng sự (2008). - Thang đo mong muốn được điều chỉnh từ Schnusenberg và cộng sự (2012). - Thang đo 10 chỉ báo về cảm nhận bản thân (trong đó 5 chỉ báo về cảm nhận bản thân là người truyền thống và 5 chỉ báo về cảm nhận bản thân là người hiện đại) được sử dụng từ thang đo của Nguyen và cộng sự (2009). - Thang đo các yếu tố cấu thành chủ nghĩa vật chất được kế thừa từ thang đo từ nghiên cứu của Richins & Dawson (1992). - Thang đo ý định hành vi sử dụng thang đo 4 chỉ báo của Ang và cộng sự (2001). CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Nghiên cứu định tính 3.1.1. Mục tiêu của phỏng vấn sâu Đánh giá sự ảnh hưởng cũng như mối quan hệ giữa các biến độc lập đến ý định cho con đi du học nước ngoài của các bậc phụ huynh học sinh trong mô hình nghiên cứu. Điều chỉnh, bổ sung thang đo cho các khái niệm nghiên cứu. Khám phá nhân tố mới ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học nước ngoài 3.1.2. Phương pháp thực hiện phỏng vấn sâu * Mẫu phỏng vấn: Trước tiên tác giả phỏng vấn 6 phụ huynh học sinh 06 đối tượng này được lựa chọn theo các tiêu chí về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, mức thu nhập để đảm bảo tính đại diện trong đó: 2 phụ huynh đã cho con đi du học nước ngoài trong năm 2017 và 2018, 4 phụ huynh đã đăng ký cho con học ngoại ngữ tại các trung tâm du học nước ngoài và dự kiến sẽ nhập học vào cuối năm 2018, 2019. * Nội dung phỏng vấn: Trọng tâm của cuộc phỏng vấn xoay quanh 3 vấn đề chính: Tìm hiểu về ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh, các yếu tố ảnh hưởng đến hành ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh và đánh giá độ phù hợp của thang đo các biến trong mô hình. 3.1.3. Kết quả nghiên cứu định tính Kết quả nghiên cứu định tính với 6 đối tượng phỏng vấn đã được lựa chọn rất kỹ để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập được cho thấy về cơ bản mô hình lý thuyết tác giả đề xuất là phù hợp với bối cảnh nghiên cứu. Tuy nhiên, có một nhân tố mới được phát hiện và được đề xuất vào mô hình nghiên cứu là “Rủi ro nhận thức”.
  12. 12 3.1.4. Mô hình và các giả thuyết được điều chỉnh sau nghiên cứu định tính Rủi ro nhận thức (Perceived risk) H8 - Cảm nhận bản thân là Giá trị nhận thức người truyền thống H6a - (Perceived value) H5 + (Traditional self) Cảm nhận bản thân là H6b + Mong muốn người hiện đại H4 + (Desire) (Modern self) Sự thành đạt H7a + Thái độ đối với H1 + Ý định hành vi (Success) hành vi (ATT) (BI) Mục tiêu trung tâm H7b - Chuẩn mực chủ H2 + (Centrality) quan (SN) Hạnh phúc Nhận thức về Biến kiểm soát: H7c + H3 + (Giới tính, tuổi, thu nhập, (Happiness) kiểm soát hành vi (PBC) trình độ học vấn) Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu được điều chỉnh sau nghiên cứu định tính 3.2. Nghiên cứu định lượng Nghiên cứu định lượng theo phương pháp khảo sát với 2 giai đoạn là nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức. 3.2.1. Thiết kế nghiên cứu * Nội dung chính của phiếu khảo sát bao gồm các phần sau: Phần mở đầu: Giới thiệu mục đích của nghiên cứu. Phần gạn lọc: Để lựa chọn những phụ huynh học sinh có ý định cho con đi du học trong tương lai gần từ năm 2019 -2021, và những phụ huynh mới cho con đi du học từ năm 2017 -2019 vì đây là những đối tượng trả lời rõ nhất về ý định cho con đi du học của mình. Phần thông tin chính: Đây là nội dung chính của phiếu khảo sát. Phần thông tin cá nhân: Nội dung này bao gồm các câu hỏi thu thập các thông tin cá nhân của người trả lời. 3.2.2. Nghiên cứu định lượng sơ bộ (nghiên cứu thử nghiệm pilot) Việc thực hiện bước nghiên cứu thử nghiệm pilot với mục tiêu đánh giá độ tin cậy của thang đo đã được điều chỉnh từ nghiên cứu định tính và nhằm loại bỏ các biến
  13. 13 quan sát không phù hợp. Tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên để tiến hành khảo sát 80 đối tượng. * Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ Số lượng phiếu phát ra là 80 phiếu thu về 80 phiếu, nhưng khi kiểm tra đã loại bỏ 12 phiếu không điền đầy đủ thông tin quan trọng nên tác giả loại 12 phiếu này, giữ lại 68 phiếu (chiếm tỷ lệ 85% số phiếu phát ra, tỷ lệ khá cao) để đưa vào nghiên cứu. Kết quả từ nghiên cứu định lượng sơ bộ cho thấy độ tin cậy của các biến nói chung đều đạt mong đợi. Trong đó, 9 biến quan sát (PV5, DS2, PR3, PR5, TS1, SUC5, CEN3, CEN7, HAP4) không phù hợp với bối cảnh nghiên cứu có chỉ số tương quan với biến tổng Cronbach’s Alpha đều < 0.6 được loại khỏi mô hình; thang đo chính thức sẽ giữ lại 52 biến quan sát còn lại và đưa vào nghiên cứu định lượng chính thức. 3.2.3. Nghiên cứu định lượng chính thức 3.2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng chính thức Mục tiêu của nghiên cứu định lượng chính thức là kiểm tra mức độ phù hợp của các giả thuyết thông qua kiểm định bằng phương trình cấu trúc. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các biến quan sát và thang đo đưa vào mô hình phải đạt được yêu cầu về giá trị hội tụ, phân biệt và độ tin cậy. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu định lượng chính thức cũng tiến hành kiểm tra và so sánh mức độ ảnh hưởng của các yếu tố về nhân khẩu học như: tuổi, giới tính, thu nhập, trình độ học thức, tình trạng hôn nhân hay quy mô gia đình đến ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh Việt Nam. 3.2.3.2. Quy trình thực hiện nghiên cứu định lượng chính thức Quy trình thực hiện nghiên cứu định lượng chính thức được thực hiện theo sáu bước sau: Thiết kế phiếu khảo sát; xác định mẫu nghiên cứu; thu thập dữ liệu; xử lý và làm sạch dữ liệu; phân tích dữ liệu; báo cáo kết quả nghiên cứu. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Sau khi phát 350 phiếu khảo sát, tác giả thu về tổng cộng 335 phiếu, tuy nhiên có một số phiếu không hợp lệ. Tác giả tiến hành làm sạch dữ liệu, loại bỏ 28 phiếu không hợp lệ và giữ lại 307 phiếu khảo sát được đưa vào phân tích. 4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu 4.1.1. Thống kê mô tả mẫu theo giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn Trong tổng số mẫu là 307 phụ huynh học sinh tại ba thành phố lớn loại 1 của Việt Nam, trung tâm văn hoá, chính trị và giáo dục của khu vực phía Bắc Việt Nam có 148 đối tượng phụ huynh là nam, chiếm 48,21% và 159 phụ huynh là nữ chiếm 51,79%, đảm bảo sự cân bằng về giới trong quá trình khảo sát. Kết quả thống kê mẫu cho thấy có 145 phụ huynh dưới 45 tuổi đạt tỉ lệ 47,23% và 162 phụ huynh lớn tuổi hơn đạt tỉ lệ 52,77%. Tỷ lệ này cũng khá tương đồng, đảm bảo được yếu tố về độ tuổi trong nghiên cứu của luận án.
  14. 14 Xét về trình độ học vấn của đối tượng tham gia khảo sát, có 3 nhóm; trong đó, tỷ lệ tốt nghiệp đại học và trên đại học đạt tỷ lệ cao nhất với 53,75% có tần suất xuất hiện là 165/307. Điều này phù hợp với bối cảnh nghiên cứu của luận án. Vì du học nước ngoài đòi hỏi nhiều yếu tố cần cân nhắc như khả năng tài chính, lực học của con, lựa chọn ngành học, trường học và quốc gia cho con theo học của cha mẹ và tiềm ẩn khá nhiều yếu tố rủi ro. 4.1.2. Thống kê mô tả mẫu theo tình trạng hôn nhân và quy mô hộ gia đình Theo thống kê về tình trạng hôn nhân và quy mô hộ gia đình cho biết, đối tượng khảo sát chủ yếu là những người đang có sự ổn định trong hôn nhân gia đình có tần suất xuất hiện cao nhất với 203 phiếu đạt tỉ lệ 66,12%. Điều này cũng phù hợp với bối cảnh nghiên cứu về du học nước ngoài, việc cho con đi du học tự túc hoặc du học được nhận một phần học bổng thì chi phí rất cao; du học sinh ở độ tuổi 12-18 tuổi nên rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính, tâm lý và sự chuẩn bị của cả bố và mẹ. 4.1.3. Thống kê mô tả mẫu theo thu nhập bình quân hộ gia đình hàng tháng Theo thống kê, mẫu có mức thu nhập hộ gia đình hàng tháng cao từ 15 triệu trở lên chiếm tỷ lệ lớn trong số phụ huynh tham gia trả lời phiếu khảo sát với 64,5%. Đây được xem là những phụ huynh tiềm năng, đủ khả năng chi trả luôn sẵn lòng cho con đi du học, họ được coi là những khách hàng tiềm năng. 4.2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo và sự phù hợp của các biến trong mô hình nghiên cứu 4.2.1. Kiểm định độ tin cậy của thang đo thông qua kiểm định Cronbach’s Alpha Từ kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha, các biến quan sát có tương quan với biến tổng, hầu hết các thang đo đều có hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,7 và hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,3 nên được giữ lại để phân tích ở bước tiếp theo. Tuy nhiên, vẫn có một số nhân tố có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3 sẽ được xem xét để loại ra khỏi thang đo, bao gồm: DS3; PR6; PR1, SUC 3 do có hệ số tương quan biến tổng < 0,3 và thang đo nhân tố các nhân tố: Mục tiêu trung tâm, Hạnh phúc cũng bị loại vì thang đo không đạt độ tin cậy do các biến quan sát đều có hệ số Cronbach’s Alpha < 0,6 và không có biến quan sát nào loại đi mà làm cho hệ số Alpha tổng ≥ 0,6. 4.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA của các biến quan sát thuộc các thang đo cho biến độc lập. * Kết quả chạy phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ nhất: Với KMO = 0,852; Sig. (Bartlett's Test) = 0,000 < 0,05; tổng phương sai trích là 61,578 > 50%. Tuy nhiên, kết quả vẫn chưa được như mong đợi, quan sát ma trận xoay Pattern Matrix khi chạy phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ nhất cho thấy vẫn có một biến quan sát MS5 được tải lên cùng lúc 2 nhân tố nhưng có độ chênh lệch hệ số tải bằng hệ số tải tính được là: 0,504 – 0,317 = 0,187 < 0,3 nên vi phạm giá trị phân biệt, do đó biến quan sát MS5 bị loại khỏi t và chạy lại EFA. * Kết quả chạy phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ hai: Kết quả thu được từ phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ hai thoả mãn đồng thời các điều kiện đảm bảo giá trị phân biệt và giá trị hội tụ, như sau: - KMO là 0,849 > 0,5; Sig. = 0,000 < 0,05
  15. 15 - Tổng phương sai trích là 61,862 > 50% - Các hệ số tải đều > 0,5 Sau khi phân tích nhân tố khám phá EFA, rút trích được 10 nhân tố được đưa vào mô hình đều thoả mãn giá trị hội tụ của các quan sát đo lường từng nhân tố nên tên các nhân tố được giữ nguyên như ban đầu. 4.2.3. Điều chỉnh mô hình và giả thuyết nghiên cứu Mô hình và giả thuyết nghiên cứu chính thức được thể hiện trong hình 4.1: Rủi ro nhận thức (Perceived risk) H8 – Giá trị nhận thức (Perceived value) H5 + Cảm nhận bản thân là người truyền thống Mong muốn H4 + (Traditional self) (Desire) H6a - Cảm nhận bản thân là Ý định hành vi H6b + Thái độ đối với người hiện đại H1 + (PI) hành vi (ATT) (Modern self) H7 + Sự thành đạt Chuẩn mực chủ H2 + (Success) quan (SN) e) Nhận thức về H3 + Biến kiểm soát: kiểm soát hành vi (Giới tính, tuổi, thu nhập, (PBC) trình độ học vấn) Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu chính thức Nguồn: Đề xuất của tác giả 4.2.4. Kiểm định sự phù hợp của mô hình và thang đo thông qua phân tích nhân tố khẳng định CFA Dựa vào kết quả dạng sơ đồ đã chuẩn hoá cho thấy mô hình nhận được các giá trị TLI = 0,947; CFI = 0,95 ≥0.9; chỉ số GFI = 0,873 nhỏ hơn mức khuyến nghị của Hair và cộng sự (1998), tuy nhiên Hair và cộng sự cũng lưu ý rằng GFI bị ảnh hưởng nhiều bởi quy mô mẫu, do đó chỉ số này có nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, theo Forza và Filippini (1998), Greenspoon và Saklofske (1998) chỉ báo GFI nằm trong khoảng 0,8 đến 0,9 là chấp nhận được nên chỉ số GFI = 0,873 được chấp nhận trong nghiên cứu của luận án; Chi-square/df = 1,432 nằm trong khoảng từ 1 đến 3, RMSEA = 0,038 ≤ 0.08 có thể kết luận mô hình đưa vào nghiên cứu là phù hợp.
  16. 16 4.3. Kết quả kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu ý định cho con đi du học bằng SEM 4.3.1. Kiểm định mô hình Mô hình lý thuyết có 628 bậc tự do (Hình 4.3). Kết quả SEM cho thấy mô hình này đạt tiêu chuẩn tương thích với dữ liệu thị trường với giá trị P-value = 0,000 < 0,05; giá trị TLI = 0,934 > 0,9; CFI = 0,941 > 0,9; chỉ số GFI = 0,863 < 0,9 tuy nhiên vẫn có thể chấp nhận được (theo Greenspoon và Saklofske,1998); Chi-square/df = 1,536 thoả mãn điều hiện trong khoảng từ 1 đến 3; RMSEA = 0,042 < 0.08. Hình 4.2: Mô hình phương trình cấu trúc
  17. 17 4.3.2. Kiểm định giả thuyết 4.3.3. Mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng tới ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh Tóm tắt lại số liệu từ các phân tích trên, mô hình kết quả Rủi ro nhận thức được trình bày như sau: (Perceived risk) - 0,256 Giá trị nhận thức (Perceived value) + 0,136 Cảm nhận bản thân là người truyền thống - 0,263 Mong muốn + 0,192 (Traditional self) (Desire) R2 = 0,188 R2 = 0,553 Cảm nhận bản thân là Thái độ đối với Ý định hành vi + 0,178 + 0,302 người hiện đại hành vi (ATT) (PI) (Modern self) Sự thành đạt Chuẩn mực chủ + 0,225 (Success) + 0,261 quan (SN) Nhậne)thức về kiểm soát hành vi + 0,148 (PBC) Hình 4.3: Mô hình kết quả Đối với biến phụ thuộc là thái độ đối với hành vi cho con đi du học: R2 = 0,188 có nghĩa là các yếu tố cảm nhận bản thân là người truyền thống, cảm nhận bản thân là người hiện đại và sự thành đạt giải thích được 18,8% sự biến thiên của thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Đối với biến phụ thuộc ý định cho con đi nước ngoài: R2 = 0,553 cho biết các yếu tố giá trị nhận thức, rủi ro nhận thức, mong muốn, và 3 tiền đề TPB giải thích được 55,3% sự biến thiên của ý định cho con đi du học của phụ huynh học sinh trong mô hình. 4.3.4. So sánh sự khác biệt giữa các đặc điểm nhân khẩu học Kết quả chạy ANOVA không tìm thấy sự khác biệt giữa các nhóm phụ huynh có giới tính, trình độ, tình trạng hôn nhân và quy mô hộ gia đình khác nhau do các yếu tố này đều có giá trị Sig. ANOVA/Robust > 0.05 nghĩa là không có sự khác biệt giữa các nhóm phụ huynh (Xem phụ lục 8). Tuy nhiên, kết quả phân tích ANOVA cho biết hai yếu tố có mức độ ảnh hưởng khác biệt giữa các nhóm phụ huynh tới ý định cho con đi du học đó là độ tuổi và thu nhập hộ gia đình hàng tháng.
  18. 18 CHƯƠNG 5: BÌNH LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KIẾN NGHN 5.1. Bình luận kết quả nghiên cứu 5.1.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu Kết quả chạy kiểm định mô hình cấu trúc SEM với sự hỗ trợ từ phầm mềm AMOS20 có thể rút ra được kết luận về mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu mới đã được điều chỉnh trong chương 4, sau khi thực hiện các kiểm định Cronbach’s Alpha, kiểm định EFA cho 307 mẫu như sau: (1) Có 10 nhân tố được xây dựng trong mô hình nghiên cứu với 8 biến độc lập và 2 biến phụ thuộc. Kết quả nghiên cứu khẳng định được ba nhân tố là cảm nhận bản thân là người truyền thống, cảm nhận bản thân là người hiện đại, sự thành đạt có hưởng đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học; và sáu nhân tố bao gồm rủi ro nhận thức, giá trị nhận thức, mong muốn, thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về kiểm soát hành vi có ảnh hưởng đến ý định cho con đi du học. (2) Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu như sau: Các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5, H6a, H6b, H7, H8 được chấp nhận. (3) Chiều hướng tác động của các nhân tố nghiên cứu với biến phụ thuộc: Các nhân tố có tác động ngược chiều với biến phụ thuộc là do hệ số ước lượng beta nhỏ hơn 0, bao gồm: nhân tố nghiên cứu cảm nhận bản thân là người truyền thống có tác động ngược chiều với thái độ đối với hành vi cho con đi du học với chỉ số beta = -0,263 và P-value < 0,001 có nghĩa là những phụ huynh học sinh càng có cảm nhận sâu sắc về giá trị truyền thống thì càng có thái độ không tốt với ý định cho con đi du học nước ngoài. Tương tự, nhân tố rủi ro nhận thức tác động ngược chiều với ý định cho con đi du học với chỉ số beta = -0,256 và P-value < 0,001 nên phụ huynh có cảm nhận rủi ro nhận thức càng cao thì càng ít có ý định cho con đi du học nước ngoài. Các nhân tố còn lại có tác động thuận chiều đến biến phụ thuộc tương ứng do giá hệ số lượng lượng beta lớn hơn 0. Trong đó, nhân tố cảm nhận bản thân là người hiện đại và yếu tố thành đạt của chủ nghĩa vật chất có tác động thuận chiều đến ý định cho con đi du học có nghĩa là khi các nhân tố này tăng lên thì thái độ đối với ý định cho con đi du học sẽ tăng lên theo chiều tích cực hơn. Tương tự, các nhân tố giá trị nhận thức, mong muốn, thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về kiểm soát hành vi có tác động thuận chiều với ý định cho con đi du học. Tuy nhiên, mức độ tác động của mỗi nhân tố là khác nhau. Kết quả kiểm định giả thuyết cho biết thứ tự tác động từ thấp đến cao đối với đối với biến phụ thuộc ý định cho con đi du học nước ngoài là: PV < PBC < DS < SN < PR SUC > MS. (4) Khi so sánh ý định cho con đi du học giữa các nhóm khác nhau trong cùng một biến kiểm soát bằng kiểm định nhóm, luận án đưa ra kết quả sau đây: - Kết quả phân tích ANOVA cho thấy không có sự khác biệt giữa nhóm phụ huynh nam và phụ huynh nữ khi đánh giá ý định cho con đi du học do mức ý nghĩa Sig.
  19. 19 > 0,05. Tương tự, phân tích ANOVA cũng không tìm thấy sự khác biệt giữa các nhóm phụ huynh có tình trạng hôn nhân khác nhau (kết hôn, ly hôn, goá bụa, bố/mẹ đơn thân) và cũng không có sự khác biệt nào về trình độ cao nhất của các phụ huynh khi đánh giá về ý định cho con đi du học. Tuy nhiên, với giá trị Sig. (ANOVA) < 0,05 kết quả nhận ra sự khác biệt về độ tuổi và thu nhập hộ gia đình hàng tháng khi đánh giá ý định cho con đi du học, cụ thể như sau: + Nhóm phụ hunh trẻ hơn (dưới 45 tuổi) có ý định cho con đi du học hơn nhóm phụ huynh lớn tuổi hơn (từ 45 tuổi trở lên). + Nhóm có thu nhập cao từ 27 triệu trở lên có ý định cho con đi du học cao nhất so với các nhóm còn lại. 5.1.2. Thảo luận nghiên cứu đối với từng nhân tố cụ thể ảnh hưởng tới thái độ đối với hành vi cho con đi du học Cảm nhận bản thân là người truyền thống Hơn cả mong đợi, cảm nhận bản thân chiếm một vị trí đặc biệt, là nhân tố có sự ảnh hưởng cao nhất và ngược chiều với thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Những người có cảm nhận bản thân là người truyền thống phù hợp với những chuẩn mực, giá trị và niềm tin này gắn liền với văn hóa truyền thống, họ thường ủng hộ các hành vi mang tính tập thể, tiêu dùng những sản phẩm có tính nội địa hoá cao, được phần đông xã hội chấp nhận. Trong việc định hướng giáo dục cho con cái họ ủng hộ nhiều hơn việc cho con học tại các cơ sở giáo dục trong nước. Giả thuyết H6a khẳng định rằng phụ huynh cảm nhận mình là người truyền thống có tác động âm/tiêu cực đến ý định cho con đi du học được hỗ trợ từ kết quả nghiên cứu. Theo hiểu biết của tác giả, luận án lần đầu tiên nghiên cứu và khẳng định sự tác động này trong bối cảnh nghiên cứu về hành vi du học nước ngoài. Sự thành đạt Sự thành đạt là thành phần duy nhất của chủ nghĩa vật chất trong ba yếu tố cấu thành chủ nghĩa vật chất (sự thành đạt, mục tiêu trung tâm, hạnh phúc) được kết quả nghiên cứu ghi nhận sự tác động thuận chiều tới thái độ đối với hành vi cho con đi du học. Đối với mỗi gia đình Việt Nam, việc cho con đi du học nước ngoài thực sự không dễ dàng, du học quốc tế cần có một nền tảng vững chắc; cha mẹ luôn là người đồng hành cùng con của họ trên nhiều phương diện như người bảo trợ, người hỗ trợ tài chính, người nuôi dưỡng ước mơ, người định hướng... Việc cho con đi du học ở nước ngoài cũng trở thành một biểu tượng của đẳng cấp xã hội và đang trở thành xu hướng của những bậc phụ huynh trẻ tuổi tại Việt Nam. Kết quả từ nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết H7 khẳng định rằng: Yếu tố thành đạt của chủ nghĩa vật chất có tác động dương/tích cực đến ý định cho con đi du học. Cảm nhận bản thân là người hiện đại Theo Nguyen và cộng sự (2009), những người có cảm nhận bản thân là người hiện đại có suy nghĩ cởi mở hơn, ưa thích những hàng hoá mang văn hoá phương Tây, mang
  20. 20 giá trị và niềm tin phương Tây, họ tán thành những sản phẩm xa xỉ, có nguồn gốc nước ngoài. Kết quả nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết H6b, khẳng định rằng: Phụ huynh cảm nhận mình là người hiện đại có tác động dương/tích cực đến ý định cho con đi du học. Tuy nhiên, không như mong đợi, cảm nhận bản thân là người hiện đại có mức độ tác động yếu nhất đến thái độ đối với hành vi cho con đi du học nước ngoài. Với hệ số ước lượng chuẩn hoá beta = 0,178; và giá trị P-value = 0,005 < 0,05 thì nhân tố cảm nhận bản thân là người hiện đại chỉ giải thích được 17,8% sự thay đổi của thái độ đối với hành vi cho con đi du học nước ngoài. 5.1.3. Thảo luận nghiên cứu đối với từng nhân tố cụ thể ảnh hưởng tới ý định cho con đi du học * Thái độ đối với hành vi Đây là nhân tố có ảnh hưởng thuận chiều mạnh nhất tới ý định cho con đi du học nước ngoài của phụ huynh học sinh Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, hỗ trợ giả thuyết H1: Thái độ của phụ huynh học sinh đối với hành vi cho con đi du học có tác động thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Với hệ số ước lượng chuẩn hoá beta = 0,302; và giá trị P-value < 0,001 thì nhân tố thái độ đối với hành vi giải thích được 30,2% sự sự biến thiên của ý định cho con đi du học nước ngoài. Qua kết quả nghiên cứu định tính có thể thấy thái độ đối với việc cho con đi du học có ảnh hưởng tích cực tới ý định cho con đi du học của các bậc phụ huynh Việt Nam. Bởi họ tự tin rằng việc cho con đi du học nước ngoài là những việc nên làm, mang lại nhiều lợi ích cho con trẻ và sự danh tiếng của gia đình. * Chuẩn mực chủ quan Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy giả thuyết H2 được hỗ trợ, khẳng định rằng: Chuẩn mực chủ quan đối với hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Với hệ số ước lượng chuẩn hoá beta = 0,225; và giá trị P-value = 0,001 < 0,05 thì nhân tố chuẩn mực chủ quan giải thích được 22,5% sự sự biến thiên của ý định cho con đi du học nước ngoài. Tại Việt Nam, việc sớm cho con đi du học nước ngoài đang trở thành xu hướng và những gia đình có con đi du học nước ngoài được cho là những gia đình thành đạt, và có tài chính ổn định, là niềm tự hào của phụ huynh học sinh đối với xã hội. * Nhận thức về kiểm soát hành vi Kết quả nghiên cứu hỗ trợ giả thuyết H3: Nhận thức về khả năng kiểm soát hành vi của phụ huynh học sinh đối với hành vi cho con đi du học có ảnh hưởng thuận chiều/tích cực đến ý định cho con đi du học. Với hệ số ước lượng chuẩn hoá beta = 0,148; và giá trị P-value = 0,009 < 0,05 thì nhân tố nhận thức về kiếm soát hành vi giải thích được 14,8% sự sự biến thiên của ý định cho con đi du học nước ngoài. Như dự đoán, PBC có ảnh hưởng thuận chiều tới ý định hành vi nhưng mức độ ảnh hưởng tương đối thấp. Có lẽ vì phụ huynh học sinh là những người đã trưởng thành và có suy nghĩ thấu đáo, đối với một hành vi cho con đi du học, họ biết lên kế hoạch phải làm gì
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2