intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tăng cường Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng khoán tại Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

94
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm rõ về mặt lý luận các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán và đặc thù quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán tồn tại dưới hình thức sở hữu là công ty cổ phần; hệ thống quy trình quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán và các tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện QLRR tại từng công ty và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tăng cường Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng khoán tại Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài  Sau 13 năm đi vào hoạt động, thị  trường chứng khoán Việt Nam đã  có những bước tiến vượt bậc và đã có lúc được đánh giá là một trong   những thị  trường có tốc độ  phát triển nhanh nhất thế  giới; đặc biệt là  mức độ, tỷ  lệ  và tốc độ  tăng vốn hóa. Để  đáp  ứng nhu cầu của thị  trường và nắm bắt cơ  hội kinh doanh mới, nhiều công ty chứng khoán  đã được thành lập. Mười ba năm qua, từ  chỗ  chỉ  có 4 công ty chứng  khoán khi thị trường đi vào hoạt động, tính đến 31/12/2012 UBCKNN đã  cấp phép hoạt động cho 105 công ty. Thông qua các hoạt động kinh  doanh chính như  môi giới, tự  doanh, bảo lãnh phát hành và tư  vấn đầu  tư, các công ty chứng khoán đã góp phần nâng cao tính thanh khoản cho  thị  trường, thu hút vốn đầu tư  trong và ngoài nước cho nền kinh tế  và  thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của thị  trường chứng khoán  trong thời gian qua, đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính thế  giới 2008,  đã  ảnh hưởng không nhỏ  đến hoạt động kinh doanh của các công ty  chứng khoán Việt Nam. Nhiều yếu kém của các công ty dần lộ diện: số  lượng các công ty quá nhiều so với quy mô thị trường, năng lực tài chính  yếu kém, khả năng cạnh tranh chưa cao, công tác quản trị công ty chưa  hiệu quả … dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí nhiều công ty  rơi vào tình trạng thua lỗ nhiều năm, mất khả năng thanh khoản và phải  nằm trong diện cảnh báo đặc biệt của UBCKNN. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên, song một trong   những nguyên nhân chính là do công tác quản lý rủi ro trong hoạt động  kinh doanh của các công ty chứng khoán chưa tốt.  Ở  một vài công ty   việc quản lý rủi ro nếu có cũng chỉ  mang tính hình thức hoặc dừng  ở  góc độ  xử  lý rủi ro chứ  chưa đi vào bản chất là cảnh báo rủi ro nhằm   giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra cho công ty.  Dưới góc độ  quản trị  doanh nghiệp, quản lý rủi ro là một nội dung  quan trọng giúp công ty có thể  chủ  động đưa ra các quyết định kinh  doanh và thực hiện các hoạt động này một cách công khai, minh bạch,   hiệu quả. Vai trò của quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp đã được các  nhà nghiên cứu tại các nước trên thế giới nghiên cứu sâu sắc dưới nhiều  góc độ  khác nhau. Nghiên cứu của Clup (2002) về  mối quan hệ  giữa  quản lý rủi ro và cấu trúc vốn của doanh nghiệp  đã chỉ  ra rằng khi   những giả định của Lý thuyết cấu trúc vốn M&M (Modigliani & Miller) 
  2. 2 thay đổi, quản lý rủi ro có thể giúp gia tăng giá trị công ty thông qua việc  gia tăng giá trị  dòng tiền kỳ  vọng của công ty, giảm thiểu chi phí sử  dụng vốn. Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu chính thức và quy mô về những  vấn đề này cho công ty chứng khoán. Chính vì vậy trong phạm vi nghiên   cứu của luận án tiến sỹ, với mong muốn nghiên cứu và đánh giá thực  trạng công tác quản lý rủi ro tại các công ty chứng khoán, từ đó góp thêm  tiếng nói phản biện cho các công ty chứng khoán, giúp các nhà hoạch  định chính sách, các nhà quản lý có cơ  sở  vững chắc hơn trong việc ra   quyết định để quản lý rủi ro một cách tốt nhất, đề tài “Tăng cường Quản  lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ  phần chứng   khoán tại Việt Nam” đã được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Khái   niệm   quản   lý   rủi   ro   doanh   nghiệp   (Risk   Management   ­  ERM) chính thức xuất hiện vào đầu những năm 1950 trên thế  giới.  Đến năm 1963, nghiên cứu của Robert Mehr và Bob Hedges đã tạo ra   một bước ngoặt trong lĩnh vực nghiên cứu về  ERM bằng việc tổng  kết các quan niệm trước đây về QLRR và đưa ra một định nghĩa mới   về  vấn đề  này. Theo Robert và Bob, ERM là một  quy trình  xem xét  đánh giá toàn diện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để  nhận biết những nguy cơ  tiềm  ẩn có thể  tác động xấu đến các mặt  hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ  sở  đó sẽ  đưa ra các giải pháp  ứng phó, phòng ngừa phù hợp tương ứng với từng nguy cơ. Trên nền   tảng lý thuyết này, các nghiên cứu tiếp theo tập trung vào một số vấn  đề sau: Thứ  nhất, quản lý rủi ro được thực hiện như  thế  nào? Nghiên  cứu của Clup (2001) đã cụ thể hóa quy trình QLRR bao gồm các bước  cơ  bản: nhận diện rủi ro, phân tích đánh giá rủi ro, phân loại xếp  hạng, báo cáo rủi ro, xử lý rủi ro và giám sát rủi ro. Thứ  hai, quản lý rủi ro có tác động như  thế  nào đến giá trị  doanh nghiệp? Nghiên cứu của Clup (1995) đã hệ thống hóa các luận  điểm về  ERM giúp nâng cao giá trị  doanh nghiệp trong điều kiện thị  trường không hoàn hảo. Mục tiêu của các nhà quản lý doanh nghiệp   cũng như  cổ  đông đều hướng đến tối  ưu hóa giá trị  doanh nghiệp  thông qua các kênh giảm chi phí vốn và gia tăng giá trị  dòng tiền kỳ  vọng.
  3. 3 Thứ  ba, mức độ  thực hiện QLRR tại các công ty được đánh giá  như thế nào? Nhiều nghiên cứu sử dụng vị trí giám đốc QLRR như một  minh chứng cho việc thực hiện ERM, song chỉ tiêu này không phản ánh  đầy đủ  các nội dung của ERM. Một số nghiên cứu khác sử  dụng ERM  rating của các tổ chức như Standard & Poor để đo lường. Về cơ bản chỉ  số  này đã bao quát các nội dung và mục tiêu của ERM, nhưng Standard  & Poor mới chỉ cung cấp rating cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đối với  các lĩnh vực khác vẫn còn bỏ ngỏ. Thứ tư, những nhân tố nào có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện  QLRR tại các doanh nghiệp?  Nghiên cứu của Kleffner và các cộng sự  (2003) cho rằng các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn thường có xu  hướng thực hiện ERM đầy đủ  hơn, do đó giá trị  doanh nghiệp có xu   hướng tăng lên. Hoyt (2008) cũng đưa ra kết luận tương tự  khi nghiên   cứu ERM tại các công ty bảo hiểm của Mỹ. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLRR doanh nghiệp  song các nghiên cứu trên vẫn còn nhiều khoảng trống tri thức cần được   tiếp tục nghiên cứu: Một là, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp   tại các thị  trường tài chính đã phát triển, một số  được nghiên cứu  ở  những thị trường đang phát triển. Hai   là,  các   nghiên   cứu   thường   tập   trung   nhiều   vào   các   doanh   nghiệp hoặc định chế  tài chính như ngân hàng thương mại và công ty   bảo hiểm.  Đối với các công ty chứng khoán, ngân hàng  đầu tư, các  nghiên cứu chính thức về  ERM rất ít và  ở  Việt Nam gần như  chưa có.  Đây là những doanh nghiệp có đặc thù rủi ro rất cao vì vậy ERM là vấn  đề cần quan tâm hàng đầu. Ba là, việc yêu cầu thực hiện quản lý rủi ro đối với các doanh  nghiệp ở các thị trường mới nổi và kém phát triển thường đi sau và chưa  chặt chẽ so với các doanh nghiệp ở thị trường đã phát triển. Bốn là, dưới góc độ quản lý vĩ mô, mục tiêu của các quy định về  ERM là nhằm bảo vệ  quyền lợi của cổ   đông và thị  trường. Do  đó,  doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện ERM. Song chi phí để thực hiện  ERM không phải là nhỏ. Chưa có nghiên cứu nào lượng hóa cụ thể chi   phí thực hiện ERM và lợi ích mang lại. Năm là,  về  phương pháp nghiên cứu,  hạn chế  chính hiện nay là   thước đo đánh giá mức độ thực hiện ERM.
  4. 4 Tại Việt Nam, Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các  CTCK hiện nay đang là vấn đề  được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm   dưới các góc độ  và mục tiêu nghiên cứu khác nhau.  Tác giả  Lê Công  Điền trong luận văn thạc sỹ kinh tế năm 2010 với đề tài “Quản lý rủi ro   tại các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam – Thực trạng và giải   pháp hoàn thiện”, đã đánh giá thực trạng quản lý rủi ro của các công ty  chứng khoán trên cơ sở trình bày quy trình từng nghiệp vụ như môi giới,  tự doanh, bảo lãnh phát hành, kế toán tài chính, qua đó đề cập các rủi ro  phát sinh của từng nghiệp vụ  này. Trên cơ  sở  đó, nêu các biện pháp   kiểm soát rủi ro mà các CTCK hiện nay đang áp dụng làm nền tảng đề  ra các giải pháp hoàn hiện quản lý rủi ro tại CTCK [11].  Tuy nhiên, đề  tài chưa đánh giá chi tiết và cụ thể các rủi ro hệ thống mà công ty chứng  khoán có thể gặp phải cũng như tác động chéo giữa các loại rủi ro trong   hoạt động kinh doanh của công ty. Đề  tài cũng chưa làm rõ thực trạng  xử  lý rủi ro, các công cụ, biện pháp phòng hộ  rủi ro tại các công ty   chứng khoán.  Bài báo của PGS.TS Lê Hoàng Nga trên Tạp chí Chứng khoán số  174, tháng 4/2013 đã đưa ra một số nhận diện rủi ro hoạt động và triển  khai Quản trị  rủi ro tại CTCK, trong đó đã phân tích những lý luận cơ  bản về  rủi ro hoạt động của CTCK, từ  đó đưa ra quy trình quản lý rủi   ro. Song những phân tích trên chưa đi vào thực tiễn và mới chỉ mang tính   sơ lược. Một số bài viết khác về quản lý rủi ro của CTCK tập trung vào  việc giới thiệu, hướng dẫn quy trình quản lý rủi ro và một số biện pháp   để việc triển khai được thực hiện hiệu quả. Như vậy, các bài nghiên cứu về QLRR tại các công ty chứng khoán  ở  Việt Nam mới chỉ dừng lại  ở việc phân tích, xác định rủi ro riêng lẻ  trong hoạt động của CTCK. Chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích  một cách hệ thống các rủi ro của CTCK bao gồm rủi ro hệ thống và rủi  ro riêng lẻ, đồng thời đánh giá mức độ  rủi ro của từng loại, trên cơ  sở  đó đưa ra những khuyến nghị cụ thể đối với từng loại rủi ro. Mặt khác,   bản chất của quản lý rủi ro là xác định và cảnh báo sớm các loại rủi ro  có thể xảy ra từ đó đưa ra các biện pháp phòng hộ và xử lý kịp thời. Để  làm được điều này cần đánh giá đúng thực trạng thực hiện công tác   quản lý rủi ro tại các CTCK bao gồm: thực hiện quy trình quản lý rủi   ro; hệ  thống cảnh báo sớm, hệ  thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đặc  biệt cần phải xác định rõ nhân tố  nào  ảnh hưởng đến việc thực hiện  QLRR của CTCK, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp.
  5. 5 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ về  mặt lý luận các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh  của công ty chứng khoán và đặc thù quản lý rủi ro trong hoạt động kinh  doanh của công ty chứng khoán tồn tại dưới hình thức sở hữu là công ty   cổ phần. Hệ thống quy trình quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh   của công ty chứng khoán và các tiêu chí đánh giá mức độ  thực hiện  QLRR tại từng công ty và hệ  thống các nhân tố   ảnh hưởng đến việc  thực hiện này. Nhận diện và phân tích mức độ rủi ro của từng loại rủi ro theo hai  nhóm (rủi ro hệ  thống và rủi ro phi hệ  thống) trong hoạt  động kinh   doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam tồn tại dưới hình thức là  công ty cổ  phần thông qua nghiên cứu khảo sát thực nghiệm. Từ  đó,  đánh giá thực trạng thực hiện quy trình nội dung quản lý rủi ro cũng như  việc sử dụng các công cụ, biện pháp xử lý rủi ro đối với các loại rủi ro  nêu trên tại các công ty chứng khoán hiện nay.  Trên cơ  sở   định hướng hoạt  động của thị  trường chứng khoán  cũng như  của các công ty chứng khoán trong giai đoạn tới, kết hợp với   những đánh giá nêu trên, đề  xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản  lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các CTCK, từ  đó giúp công ty  gia tăng giá trị, vị trí trên thị trường, đồng thời phát triển ổn định và bền  vững. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các loại rủi ro, quy trình quản lý rủi ro  và các công cụ quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK tồn  tại dưới hình thức là công ty cổ phần. Phạm vi nghiên cứu là nhóm các công ty cổ  phần chứng khoán  Việt Nam, bao gồm cả  công ty chưa niêm yết và đã niêm yết trên Sở  giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở  giao dịch chứng khoán Thành phố  Hồ  Chí Minh, tính đến 31/12/2013, kết hợp với việc nghiên cứu kinh  nghiệm quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK  ở một số  nước trên thế giới. 5. Phương pháp nghiên cứu Để  thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, đề  tài sử  dụng các  phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, quy nạp vấn đề.  Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để  xem  xét, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề thực tiễn, rút ra những điểm chủ  yếu cần được giải quyết để đề xuất giải pháp, kiến nghị.
  6. 6 Ngoài ra, đề  tài  còn sử  dụng phương pháp điều tra mẫu đối với  các đối tượng là nhà quản lý rủi ro tại các công ty chứng khoán, thống   kê thu thập số liệu từ báo cáo tài chính của CTCK, báo cáo thường niên   của   UBCKNN   dưới   dạng   bảng   số   liệu   exel,   sử   dụng   phần   mềm   EPIDATA và SPSS để phân tích, vẽ đồ thị và tính các hệ số tương quan   giữa các biến ngẫu nhiên. Đề tài cũng kế thừa, vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các   công trình khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu để  làm sâu  sắc thêm các luận điểm trong đề tài. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án bao gồm 3 chương như  sau: Chương 1: Lý luận về  quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh   của công ty cổ phần chứng khoán Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh   của các công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt  động kinh doanh của các công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam CHƯƠNG 1 CƠ  SỞ  LÝ LUẬN VỀ  QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG  KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN 1.1.   TỔNG   QUAN   VỀ   RỦI   RO   TRONG   HOẠT   ĐỘNG   KINH  DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm rủi ro trong hoạt động kinh doanh  của Công ty Chứng khoán Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán được hiểu là những biến cố  không mong  đợi mà khi xảy ra sẽ  dẫn  đến tổn thất về  tài sản của  CTCK, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm  một khoản chi phí để có thể hoàn thành một nghiệp vụ kinh doanh nhất   định.  Khái niệm này bao hàm hai nội dung cơ  bản: (1) Sự  thay đổi; (2)   Kết quả  của sự  thay đổi là không lường trước được [30]. Sự  thay đổi  hay chính là sự  không chắc chắn về  những tình huống có thể  xảy ra  trong tương lai, hoặc không thể  chỉ  định rõ chuyện gì sẽ  xảy ra, khả  năng   chắc   chắn   là   bao   nhiêu   phần   trăm.   Doanh   nghiệp   khi   đầu   tư 
  7. 7 thường không chắc rằng dự án sẽ thành công hay thất bại hoàn toàn, do  đó rủi ro thường là điều không tránh khỏi. Đối với từng quy mô, kết quả  của sự  thay đổi sẽ  khác nhau. Về  cơ  bản,  đối với CTCK, ngoài lợi  nhuận, rủi ro có thể   ảnh hưởng đến tài sản, uy tín đạo đức, thiệt hại  nhân sự, rủi ro nghiệp vụ … và cuối cùng là giá trị của công ty. 1.1.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Công ty chứng  khoán 1.1.2.1.Theo đối tượng và hành vi kinh doanh  1.1.2.1.Theo đối tượng và hành vi kinh doanh  Dựa theo tiêu chí này, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK   được chia thành hai loại Rủi ro của quá trình quản trị hệ thống và Rủi ro   đặc thù của từng nghiệp vụ kinh doanh. 1.1.2.2. Theo nguồn gốc phát sinh rủi ro Theo cách phân loại này, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng  khoán được chia thành rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. 1.1.2.3. Sự tương tác giữa các loại rủi ro Việc phân tích các loại rủi ro về  hình thức thường khá độc lập  nhưng trên thực tế  giữa chúng lại có những mối tương quan chặt chẽ  với nhau. Chính vì mối tương quan này, việc quản lý rủi ro tại các  CTCK không chỉ  đơn thuần dừng  ở  việc quản lý từng loại rủi ro riêng   lẻ, mà cần có chiến lược quản lý rủi ro một cách tổng thể  và hệ thống  để đạt được hiệu quả tốt nhất. 1.1.3. Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK ­  Nhóm nguyên nhân khách quan  ­ Nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía công ty chứng khoán ­ Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng 1.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm QLRR trong hoạt động kinh doanh  của CTCK Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK là việc tiếp  cận để nhận dạng và kiểm soát các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt   động kinh doanh của công ty. Từ  đó đưa ra các biện pháp, các công cụ  phòng ngừa rủi ro một cách hiệu quả nhằm giảm thiểu những tổn thất,  ảnh hưởng của rủi ro đến tình hình hoạt động cũng như  tài sản của  công ty. 
  8. 8 QLRR trong hoạt động kinh doanh của CTCK có một số đặc điểm  cơ bản: ­  Quản lý rủi ro là một nhiệm vụ  căn bản và có vai trò trung tâm  trong quản trị CTCK.  ­ Quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh của CTCK có nhiều điểm   tương đồng với quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng.  ­ Quản lý rủi ro thông qua quản lý vốn.  1.2.2. Sự cần thiết của Quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh Công  ty cổ phần chứng khoán Theo quan điểm hiện đại, thị  trường thường không hoàn hảo và  nhà đầu tư khó có thể xây dựng được một danh mục đầu tư đa dạng hóa  hoàn hảo, chi phí giảm thiểu rủi ro phi hệ thống thường cao hơn lợi ích   mang lại. Trong điều kiện đó,  hoạt động QLRR của doanh nghiệp sẽ  mang lại hiệu quả  tốt hơn vì có thể  tạo ra lợi thế  cạnh tranh và nâng  cao giá trị công ty. Cụ thể: ­ Giảm gánh nặng thuế ­ Giảm chi phí đại diện ­ Phối hợp chính sách tài chính và chính sách đầu tư ­ Giảm chi phí giao dịch 1.2.3. Nội dung Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công  ty cổ phần chứng khoán QLRR không phải là một hoạt động đơn thuần mà là một chuỗi  các hoạt động kết nối nhau tạo thành một quy trình mang tính hệ thống   giúp  công ty kiểm soát rủi ro hiệu quả.  Về  mặt tổng quát, quy trình  quản lý rủi ro CTCK bao gồm các bước: Nhận diện rủi ro; Phân tích rủi   ro; Kiểm soát rủi ro; Giám sát. 1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá việc thực hiện quản lý rủi ro trong hoạt  động kinh doanh của Công ty cổ phần chứng khoán Tính độc lập của bộ  phận QLRR biểu hiện qua vị  trí của CRO.   Đây là yếu tố  quan trọng quyết định đến việc thực hiện QLRR, từ  đó  cũng quyết định mức độ ảnh hưởng của ERM đến giá trị công ty. Chính sách quản lý rủi ro  biểu hiện qua việc CTCK xây dựng  khẩu vị  rủi ro từ  đó đưa ra các hạn mức rủi ro cụ  thể  đối với từng   nghiệp vụ  hoặc nhóm rủi ro chính, áp dụng  công cụ, phần mềm để  quản lý rủi ro. Hệ  thống cảnh báo rủi ro sớm (Emerging risk management ): hệ  thống này tập trung vào kiểm soát các nguy cơ  có thể  xảy ra trong quá 
  9. 9 trình thực hiện quy trình nghiệp vụ, chấp hành các quy định của pháp  luật trong hoạt động của mỗi nghiệp vụ, đánh giá mức độ  tới hạn của  các rủi ro thị  trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh toán và tổng giá trị  rủi ro trong hoạt động của CTCK.  Các mô hình phân tích và lượng hóa rủi ro (Risk models). Việc các  CTCK áp dụng một số  mô hình lượng hóa rủi ro như  Value at Risk   (VaR), phân tích kịch bản, cây quyết định, phương pháp mô phỏng cũng  là dấu hiệu cho thấy mức độ thực hiện QLRR. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực chất là sự tích hợp một  loạt hoạt động, biện pháp, kế  hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và  nỗ  lực của mọi thành viên trong công ty để  đảm bảo hoạt động hiệu  quả, đạt được mục tiêu đặt ra một cách hợp lý. An toàn vốn (Capital safety).  Một trong những đặc điểm QLRR  của CTCK là thông qua quản lý vốn, do vậy an toàn vốn là chỉ tiêu được  áp dụng  ở  hầu hết các nước đối với lĩnh vực kinh doanh chứng khoán  nhằm đo lường và đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh  của công ty. 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến Quản lý rủi ro trong hoạt động  kinh doanh của Công ty cổ phần chứng khoán  Cơ cấu tổ chức và hoạt động. Quy mô và năng lực tài chính Nguồn nhân lực. Công nghệ thông tin Quản lý điều hành Các quy định của pháp luật về QLRR.   1.3. Kinh nghiệm QLRR trong hoạt động kinh doanh của CTCK  ở  một số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam  1.3.1. Kinh nghiệm của Mỹ ­ Điều kiện về  vốn là công cụ  chính được SEC sử  dụng nhằm  đảm bảo an toàn hoạt động cho các CTCK, NHĐT ­ Các NHĐT, CTCK cũng được yêu cầu thực hiện nghiêm ngặt các  quy định về cơ cấu tổ chức, nhân sự trong phòng QLRR ­ Mô hình QLRR tại NHĐT thường được được tổ chức với cơ cấu   cao nhất là Hội đồng QLRR  trực  thuộc  HĐQT;  Ủy ban điều hành;  Ủy  ban rủi ro;  Ủy ban thông lệ  kinh doanh;  Ủy ban cam kết;  Ủy ban chính 
  10. 10 sách tín dụng;  Ủy ban tài chính;  Ủy ban sản phẩm mới;  Ủy ban rủi ro   hoạt động. 1.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan ­ Hoạt động QLRR của CTCK cũng được thực hiện thông qua  quản lý vốn. ­ UBCK Thái Lan cũng quy định các CTCK phải có bộ phận tuân  thủ nội bộ, bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập. ­ Việc quản lý rủi ro của các CTCK Thái Lan còn được thực hiện  thông qua Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ (Thailand Securities  Deposit –TSD) 1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc  ­ Trung Quốc cũng xem hoạt động của các CTCK là loại hình kinh  doanh có điều kiện. ­ Các CTCK phải chịu sự  giám sát hoạt động, thực hiện quản lý  rủi ro theo quy định của quy chế giảm thiểu rủi ro và quy chế  giám sát  CTCK do  Ủy ban giám quản chứng khoán Trung quốc ban hành (China  Securities Regulatory Commission ­ CSRC). ­ CTCK được xếp hàng theo các lớp từ  A đến E, trong từng lớp,  CTCK có thể  được phân loại nhỏ  hơn thành 11 tiểu lớp (AAA, AA, A,  BBB, BB,  B, CCC,  CC,  C, D, E).  Mức xếp hạng A,  B,  và C  cho thấy  năng lực quản lý rủi ro của công ty chứng khoán là phù hợp kinh doanh  hiện tại, trong đó các tiểu lớp phản ánh mức độ tương đối của quản lý  rủi ro trong ngành. 1.3.4 Một số bài học cho các CTCK Việt Nam ­ Hoạt động KDCK của các CTCK là loại hình kinh doanh có điều  kiện, trong đó vốn pháp định cho từng loại hình kinh doanh luôn được  quy định và giám sát chặt chẽ bởi UBCK ­ UBCK ban hành quy chế về QLRR và buộc các CTCK phải tuân  thủ nhằm tạo ra lớp phòng hộ rủi ro thứ hai tại các CTCK ­ UBCK cũng đưa ra các biện pháp xử lý đối với các CTCK vi  phạm quy chế QLRR rất khắt khe, bao gồm cả xử phạt hành chính và  hình sự. ­ Xếp hạng và phân loại CTCK ­ Hoạt động QLRR về bản chất là một hoạt động điều hành doanh  nghiệp ­ CTCK xây dựng bộ phận QLRR độc lập với các bộ phận kinh  doanh khác
  11. 11 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH  DOANH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN TẠI  VIỆT NAM Để đánh giá thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh  của CTCK Việt Nam,  NCS đã thực hiện khảo đối với các công ty cổ  phần Chứng khoán  ở  Việt Nam. Các câu hỏi khảo sát được gửi đến  Trưởng bộ  phận QLRR tại các CTCK. Đối với các công ty chưa có bộ  phận này, câu hỏi khảo sát được gửi đến trưởng bộ phận kiểm soát nội   bộ của công ty. Các câu hỏi khảo sát tập trung vào hai nội dung cơ bản:  thứ  nhất, nhận diện các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các  công ty cổ phần chứng khoán, thứ  hai, mức độ thực hiện QLRR tại các   công ty theo các tiêu chí đã được phân tích trong phần lý thuyết. Các số  liệu nghiên cứu cũng được thu thập thêm từ  báo cáo tài chính của các  công ty, cũng như từ website của công ty trong giai đoạn 2008 – 2013 để  thống kê số liệu về quy mô, năng lực tài chính, tốc độ tăng trưởng và lợi  nhuận của các công ty, trên cơ  sở  đó đánh giá ảnh hưởng của các nhân  tố này đến việc thực hiện QLRR tại công ty. Các thông tin về cơ cấu sở  hữu, mức độ độc lập của bộ phận QLRR được thu thập thêm từ báo cáo  thường niên cũng như  thông tin từ  website của hai sở  giao dịch chứng   khoán Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Phần mềm EPIDATA và SPSS được  sử dụng để nhập liệu và phân tích kết quả khảo sát. Trên thực tế  số lượng CTCK được cấp phép hoạt động tăng từ  4  công ty trong giai đoạn đầu TTCK đi vào hoạt động lên 105 công ty vào   cuối năm 2008. Con số  này được duy trì trong suốt giai đoạn 2009 –  2013. Tuy nhiên, trong số các câu hỏi được gửi đến các công ty cổ phần  chứng khoán, số phiếu hợp lệ thu được là 77, số phiếu không hợp lệ do   không nhận được ý kiến phản hồi, không có báo cáo tài chính tính đến  thời điểm khảo sát, một số  công ty sáp nhập với nhau, một số  công ty   xin chấm dứt hoạt động do tình trạng yếu kém trong kinh doanh. Trong  số  các công ty này, có 27 công ty niêm yết tính đến cuối năm 2012 và   giảm xuống còn 20 công ty tính đến cuối năm 2013. Kết quả nghiên cứu  như sau:
  12. 12 2.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC  CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 2.1.1. Sơ lược về các công ty cổ phần chứng khoán Việt Nam  Tính chất sở  hữu, hiện có khoảng 44% CTCK trong nhóm khảo  sát có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 13 công ty đã có tỷ lệ vốn đầu   tư nước ngoài ở mức tối đa là 49%, 3 công ty có tỷ  lệ  trên 40%, 8 công  ty có vốn ngoại từ 5­30% và 22% có vốn ngoại dưới 5%. Nếu tính theo  vốn điều lệ, tổng giá trị  vốn góp của nhà đầu tư  nước ngoài đến cuối   năm 2013 là 4.510,13 tỷ  đồng, chiếm 19,7% tổng vốn điều lệ  của các  CTCK có vốn đầu tư  nước ngoài và bằng 12,88% vốn điều lệ  của tất  cả các CTCK hiện đang hoạt động trên TTCK. Nghiệp vụ  kinh doanh,  Trên thực tế, trung bình trong giai đoạn  2008 – 2013, trong mẫu nghiên cứu chỉ có 2% công ty thực hiện duy nhất  nghiệp vụ  tư  vấn đầu tư  chứng khoán trong khi có khoảng 60% các  CTCK hoạt động với 2 đến 3 nghiệp vụ, 38% các CTCK thực hiện đầy   đủ cả 4 nghiệp vụ cơ bản. Quy mô vốn của các CTCK không ngừng gia tăng trong những năm  qua, nhưng nếu xét về tiềm lực tài chính, các công ty này vẫn ở mức rất  thấp. Tính đến cuối năm 2013 chỉ có khoảng 26,8% công ty chứng khoán  đạt đủ điều kiện để thực hiện tất cả nghiệp vụ. Trong đó, số CTCK có  lượng vốn lớn (trên 1000 tỷ) chiếm số  lượng rất ít, thậm chí có xu  hướng giảm dần trong vòng 4 năm trở lại đây. Năng lực tài chính.  Mặc dù quy mô vốn của các CTCK không  ngừng gia tăng trong những năm qua, nhưng nếu xét về  tiềm lực tài  chính, các công ty này vẫn ở mức rất thấp so với các định chế tài chính   khác trên TTCK Việt Nam cũng như  các thị trường khác trong khu vực.  Nếu so sánh với các Ngân hàng thương mại, Công ty bảo hiểm, Công ty  tài chính hiện đang niêm yết trên thị  trường thì quy mô tài sản của các   CTCK đang niêm yết vẫn thấp hơn khá nhiều. Bảng 2.1 cho thấy, tính  đến cuối năm 2013 bình quân tổng tài sản của một NHTM đạt khoảng  271.700 tỷ đồng, con số này đối với Công ty bảo hiểm là 5.150 tỷ đồng,   trong khi CTCK chỉ là 1.428 tỷ đồng chưa bằng 30% mức trung bình của   công ty bảo hiểm. Khả năng sinh lời. Từ năm 2011 đến nay, TTCK có dấu hiệu phục  hồi và tăng điểm, các hệ số khả năng sinh lời của các CTCK cũng có xu   hướng tăng trở lại, tuy rằng bình quân vẫn đang ở mức âm.
  13. 13 Khả năng thanh toán. Phần lớn các công ty được nghiên cứu đều  có khả năng thanh khoản tương đối tốt, trong đó có 27 công ty có hệ số  tài sản ngắn hạn/nợ ngắn hạn là trên 200%, 7 công ty đạt mức từ 150%­  200% và 3 công ty từ 100%­ 150%. 2.1.2. Nhận diện rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty  cổ phần chứng khoán ở Việt Nam Căn cứ  vào kết quả  điều tra từ  77 CTCK, NCS đã sử  dụng phần  mềm thống kê SPSS xác định các yếu tố  rủi ro cơ  bản  ảnh hưởng lớn   đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Mô hình nghiên cứu của 35 quan  sát bao gồm các yếu tố  rủi ro có thể   ảnh hưởng đến hoạt động kinh  doanh của CTCK như  đã phân tích  ở  phần trên. Sau khi chạy các mô  hình phụ, phương pháp phân tích nhân tố  tìm kiếm EFA­Exploratory   Analysis với phép xoay Varimax được áp dụng để  phân tích 35 biến  quan sát. Sử  dụng phương pháp kiểm định KMO (Kaiser – Meyer – Olkin)   và Barlett để kiểm định sự tương thích của mẫu khảo sát nêu trên. KMO   là chỉ tiêu xem xét sự thích hợp của EFA, nếu 0,5
  14. 14 nhỏ  hơn 1 sẽ bị loại khỏi mô hình vì nó bao hàm ít sự  biến thiên được  giải thích bởi một biến duy nhất. Kết quả  bảng 2.13 cho thấy từ  34   biến ban đầu, có 10 nhân tố có Eigenvalue > 1 và được chọn. Khi các nhân tố  đã được xác định, phép xoay Varimax được sử  dụng để tìm ra các yếu tố có trị số lớn nhất. Để phân tích nhân tố  EFA  được xem là quan trọng và có ý nghĩa thiết thực, chỉ giữ lại những biến  quan sát có trọng số  lớn hơn 0,5. Sau khi dán nhãn các biến, kết quả  được trình bày trong bảng 2.15. Đối với rủi ro hệ thống, các yếu tố như  biến động lãi suất, thiếu thông tin, thông tin không chính xác, làm sai  luật hay luật thay đổi được đánh giá là những rủi ro có  ảnh hưởng lớn  đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Về rủi ro phi hệ thống, các yếu  tố  như  năng lực cán bộ  lãnh đạo yếu, dự  đoán sai, bộ  máy quản lý  không phù hợp, thiếu quy trình nghiệp vụ, lỗi kỹ  thuật, lỗi con người   trong quá trình tác nghiệp là những yếu tố rủi ro có mức ảnh hưởng lớn  nhất đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Kết quả này là cơ sở để các  công ty chứng  đưa ra các quyết định QLRR hợp lý hơn trong hoạt động  kinh doanh của mình. Bảng 2.15 Tổng hợp các yếu tố rủi ro cơ bản đối với CTCK Việt  nam Hệ số tải  Các yếu tố rủi ro nhân tố Rủi ro hệ thống Biến động lãi suất 0.888 Thiếu thông tin 0.837 Thông tin không chính xác 0.835 Làm sai luật 0.809 Luật thay đổi 0.795 Xử lý thông tin không kịp thời 0.792 Làm sai luật 0.790 Biến động giá cả 0.782 Biến động GDP 0.782 Biến động tỷ giá 0.772 Rủi ro thiên tai 0.521 Rủi ro phi hệ thống Đầu tư sai 0.928 Năng lực cán bộ lãnh đạo yếu 0.837
  15. 15 Dự đoán sai 0.825 Bộ máy quản lý không phù hợp 0.786 Thiếu quy trình nghiệp vụ 0.758 Lỗi kỹ thuật, lỗi hệ thống, quy trình nghiệp  vụ 0.744 Lỗi con người trong quá trình tác nghiệp 0.735 Chính sách khen thưởng không hợp lý 0.682 Không kiểm tra, giám sát chặt chẽ 0.677 Đòn bẩy tài chính cao 0.664 Thiếu vốn, không đủ vốn 0.625 Bị lừa đảo, chiếm dụng vốn 0.613 Rủi ro thanh toán 0.595 Extraction Method: Principal Component Analysis. 2.2.   THỰC   TRẠNG   QUẢN   LÝ   RỦI   RO   TRONG   HOẠT   ĐỘNG  KINH   DOANH   CỦA   CÁC   CÔNG   TY   CỔ   PHẦN   CHỨNG  KHOÁN VIỆT NAM 2.2.1. Khung pháp lý về quản lý rủi ro Công ty cổ phần chứng  khoán Việt Nam 2.2.1.1. Quy định về Quản lý rủi ro Yêu cầu về QLRR tại CTCK lần đầu tiên được luật hóa thông qua  Quyết   định   105/QĐ­UBCK   ban   hành   ngày   26/2/2013.   Quy   định   này  hướng dẫn việc thiết lập và vận hành hệ thống quản trị rủi ro cho công   ty chứng khoán để  đảm bảo ngăn chặn, hạn chế  một cách hiệu quả  những tổn thất do rủi ro gây ra 2.2.1.2. Quy định về an toàn vốn  Thông tư  226/2010/TT­BTC ngày 31/12/2010 về  Quy định chỉ  tiêu  an toàn tài chính và biện pháp xử  lý đối với các tổ  chứng kinh doanh  chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính. ­ Thông tư  210/2012/TT­BTC (Thông tư  210) thay thế  Quyết định  27/2007/QĐ­BTC của Bộ  Tài chính hướng dẫn thành lập và hoạt động  CTCK, có hiệu lực từ 15/1/2013, điều kiện hoạt động của CTCK được  siết chặt hơn. ­ Thông tư  165/2012/TT­BTC ngày 9/10/2012 về  Sửa đổi, bổ  sung  một số điều của thông tư số 226 của Bộ Tài chính quy định chỉ tiêu An  toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ  chức kinh doanh chứng   khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính.
  16. 16 2.2.1.3. Quy chế xếp loại công ty chứng khoán theo tiêu chuẩn  CAMEL Tháng 10/2013, UBCKNN đã ban hành Quy chế  hướng dẫn xếp  loại CTCK theo tiêu chuẩn CAMEL theo Quyết định số  617/QĐ­UBCK  ngày 9/10/2013. Quy chế  này được ban hành nhằm phân loại, đánh giá  một cách toàn diện hoạt động của các CTCK, trên cơ  sở  đó hỗ  trợ  cho  UBCK trong công tác quản lý, giám sát hoạt động của các công ty này. 2.2.2. Thực trạng Quản lý rủi ro của Công ty cổ phần chứng khoán  ở Việt Nam Chưa có CTCK nào trong nhóm khảo sát xây dựng và thực hiện   khung QLRR một cách đầy đủ  và toàn diện trên phạm vi toàn công ty.   Một trong những lý do cơ bản giải thích cho kết luận này là các CTCK   trong mẫu điều tra nghiên cứu đều chưa xây dựng hệ  thống cảnh báo  sớm để  nhận diện thông tin cảnh báo các rủi ro mới có thể  ảnh hưởng   lớn đến công ty, hoặc theo dõi các thay đổi rủi ro và báo cáo kịp thời các  thất bại kiểm soát. Hơn 1/3 số  CTCK được khảo sát đã xây dựng và thực hiện một   phần khung QLRR trong hoạt động kinh doanh.  Một trong những nội  dung của khung QLRR được nhiều CTCK thực hiện nhất là các công ty   đã xây dựng được chính sách QLRR, hệ  thống kiểm tra, kiểm soát nội   bộ và các mô hình định lượng rủi ro. Cụ thể, hơn 70% các công ty ở thời  điểm khảo sát đã xây dựng chính sách QLRR thể  hiện trên các báo cáo  tài chính hằng năm. Hơn 40% các công ty đã xây dựng được một phần khung quản lý   rủi ro nhưng chưa triển khai thực hiện. Kết quả  này phần lớn xảy ra  tại các CTCK chưa có bộ  phận QLRR độc lập, việc thực hiện QLRR  chủ yếu dựa vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Mặc dù một số  công ty chứng khoán chưa triển khai thực hiện   QLRR tại công ty song hầu hết đều lên kế  hoạch triển khai trong thời   gian ngắn. Trải qua những giai đoạn khó khăn từ 2008 đến nay, các công  ty chứng khoán đều thấy được mức độ cạnh tranh trong ngành cung cấp  dịch vụ  tài chính này là hết sức gay gắt, do đó đòi hỏi các công ty phải  có những chiến lược, bước đi hết sức rõ ràng, phải rà soát, đánh giá lại  toàn bộ các quy trình kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, tăng cường công  tác quản trị doanh nghiệp, tuân thủ quy định pháp luật trong toàn bộ hoạt  động của mình. Hơn nữa, với quy định 105 về QLRR được ban hành nêu 
  17. 17 trên, việc xây dựng và thực hiện QLRR không còn là sự  lựa chọn mà  mang tính bắt buộc đối với CTCK.  Mức độ  thực hiện QLRR tại các CTCK tỷ  lệ  thuận với quy mô   nhưng không có mối tương quan nhiều với tỷ lệ an toàn vốn khả dụng   của công ty.  Ba công ty có quy mô lớn nhất hiện nay không phải là  những công ty có mức độ thực hiện quản lý rủi ro cao nhất theo kết quả  khảo sát. Trên thực tế, một số công ty chứng khoán có quy mô nhỏ hơn,   song việc thực hiện QLRR lại rất tốt. Đặc biệt là những công ty có vốn  đầu tư  nước ngoài, biểu hiện qua việc công ty không những xây dựng  chính sách rủi ro hằng năm mà còn xây dựng được văn hóa QLRR trên   toàn công ty, các báo cáo rủi ro được thực hiện định kỳ hàng quý, hằng  năm và phân công rõ quyền hạn và trách nhiệm của các bộ  phận tham  gia QLRR. 2.3.   ĐÁNH   GIÁ   THỰC   TRẠNG   QUẢN   LÝ   RỦI   RO   CỦA   CÁC  CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 2.3.1. Những mặt đạt được Thứ  nhất, các CTCK đã từng bước xây dựng và áp dụng khung  QLRR trong hoạt động kinh doanh một cách hệ thống và toàn diện. Thứ hai, sự độc lập của bộ phận QLRR được đề cập và trở thành   yêu cầu mang tính bắt buộc không chỉ ở các văn bản pháp lý của UBCK   mà ở cả các quy định của công ty. Thứ ba, bộ phận KTKS nội bộ đã bắt đầu thực hiện đúng vị trí và  chức năng của mình trong việc thanh tra, giám sát các hoạt động hàng  ngày của CTCK, từ đó phát hiện và xử lý kịp thời các sai sót trong hoạt  động hàng ngày của CTCK.  Thứ tư, các CTCK ngày càng ý thức và tuân thủ chặt chẽ hơn tỷ lệ  an toàn vốn khả  dụng nhằm đáp  ứng quy định của thông tư  226 về  an  toàn tài chính và cũng là an toàn cho chính công ty và hệ thống tài chính. Thứ  năm,  năng lực tài chính của CTCK ngày một nâng cao, đáp  ứng tương đối tốt nhu cầu hoạt động kinh doanh hiện tại và quy định  về quản lý vốn của UBCKNN. Thứ  sáu, QLRR trở  thành vấn đề  được quan tâm hàng của UBCK  trong quá trình tái cấu trúc CTCK ở Việt Nam.
  18. 18 2.3.2. Những mặt hạn chế   Thứ  nhất, văn hóa quản trị  rủi ro vẫn chưa được thấm nhuần  trong hoạt động kinh doanh của CTCK. Nhiều các công ty vẫn coi quản   lý rủi ro làm phát sinh các chi phí nhiều hơn mang lại lợi nhuận. Thứ hai, gần như các CTCK chưa có sự tách biệt chuyên môn hóa   về  các loại rủi ro để  thực hiện quản lý rủi ro. Mọi rủi ro đều do cả  phòng phụ trách. Thứ ba, các công ty chứng khoán chưa xây dựng được các mô hình  tổ  chức hợp lý cho phòng quản lý rủi ro. Đồng thời các bước trong quy  trình phát hiện, giám sát và xử  lý rủi ro cũng không được quy định rõ  ràng và thống nhất. Thứ tư, không có sự liên kết giúp đỡ giữa các phòng ban trong công   ty chứng khoán về QLRR. Trên thực tế, việc quản lý rủi ro có hiệu quả  ngoài sự  tham gia của phòng quản lí rủi ro cần có sự  giúp đỡ  của các  phòng ban khác như ban giám sát, phòng kinh doanh, phòng kế toàn kiểm  toán, phòng phân tích. Thứ  năm, đa số  các phòng quản lý rủi ro của các công ty chứng  khoán chỉ  làm nhiệm vụ  là phát hiện ra các rủi ro chứ  chưa có những  biện pháp để giám sát hay phòng ngừa rủi ro khi rủi ro xuất hiện. Thứ  sáu, vẫn còn một số  bất cập trong các văn bản quy định về  QLRR đối với các CTCK. 2.3.3. Nguyên nhân 2.3.3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan Một   là,   các   cơ   quan   quản   lý   như   UBCKNN,   SGDCK   chưa   có  những quy định cụ  thể  để  giúp công ty chứng khoán hiểu rõ và thực  hiện đầy đủ, toàn diện quy trình quản lý rủi ro. Hai là,   TTCK Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa cung cấp nhiều  các   công  cụ,  sản   phẩm   đa  dạng,   phong  phú,   đặc  biệt   thiếu  hẳn   thị  trường chứng khoán phái sinh. Ba là, những quy định, hành lang pháp lý đối với hoạt động kinh  doanh chứng khoán đang tạo ra môi trường kinh doanh quá thận trọng. Bốn là, các chương trình giảng dạy  ở Việt Nam chưa đề  cập sâu  và riêng biệt đối với lĩnh vực quản trị rủi ro nên ít người có chuyên môn   về lĩnh vực này. 2.3.3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan Mô hình tổ chức, hoạt động của CTCK còn nhiều bất ổn, chưa xác  định được một mô hình tối ưu, phù hợp với TTCK Việt Nam  nên chưa 
  19. 19 có điều kiện để  áp dụng hiệu quả  mô hình quản trị  doanh nghiệp hiện   đại trong quản lý, điều hành CTCK;  Đi kèm với tốc độ  gia tăng số  lượng, chất lượng nguồn nhân lực  lại chưa được đảm bảo;   Chất lượng công nghệ  thông tin chưa cao;  Năng lực quản lý điều hành thấp CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP  TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT  ĐỘNG   KINH   DOANH   CỦA  CÔNG   TY   CỔ   PHẦN   CHỨNG  KHOÁN Ở VIỆT NAM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN  VÀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN  3.1.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Xây dựng và phát triển thị  trường chứng khoán phù hợp với điều  kiện phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước, hình thành một hệ  thống   thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất trong tổng thể thị trường   tài chính của đất nước. Phát triển, mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức, thu hẹp thị  trường tự  do đồng thời đặc biệt coi trọng vấn đề  chất lượng và sự  an   toàn của thị trường, từng bước tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực  quốc tế. Phát triển thị trường chứng khoán theo hướng gắn kết với việc cải  cách, sắp xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực cho các   doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cả  về năng lực tài chính và quản  trị doanh nghiệp.  Nhà nước thực hiện quản lý bằng công cụ pháp luật, có các chính   sách hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển ổn định,   vững chắc; phát huy vai trò của các tổ chức tự quản, hiệp hội nhằm bảo   đảm quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích các chủ  thể  tham gia thị  trường chứng khoán. 3.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển CTCK ­ Cơ cấu lại số lượng các công ty chứng khoán theo hướng duy trì  số lượng phù hợp với quy mô của thị trường, xử lý thanh lọc các công ty  chứng khoán yếu kém, không hiệu quả (không phân biệt công ty lớn hay  bé).
  20. 20 ­ Cấu trúc lại mô hình tổ  chức hoạt động của các công ty chứng  khoán nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị  doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro. ­ Cơ  cấu lại thành phần tham gia góp vốn trong công ty chứng  khoán trong đó có các ngân hàng, tổng công ty, tập đoàn, góp vốn của  Nhà Nước theo hướng hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế.  ­ Tăng cường khả  năng, hiệu quả  quản lý, giám sát đối với hoạt  động công ty chứng khoán. ­ Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam  kết. 3.1.3. Mục tiêu và yêu cầu QLRR tại CTCK ­ Đảm bảo công ty có các cấu trúc và quy trình cần thiết đả bảo vệ  công ty khỏi các trạng thái rủi ro không chấp nhận được cũng như  tận  dụng được các cơ hội tiềm ẩn của nó. ­ Chủ  động nhận dạng, nắm bắt và quản lý được các rủi ro cố  hữu trong các dịch vụ  và gắn liền cùng với các kế  hoạch, chiến lược   của công ty, khuyến khích việc chấp nhận rủi ro có cân nhắc và có trách   nhiệm. ­ Mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và mục   tiêu hoạt động của CTCK đều phải được nhận dạng, đo lường, đánh giá   một cách thường xuyên, liên tục để  kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và có  biện pháp quản lý rủi ro thích hợp.  3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TẠI  CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM  3.2.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro Mặc dù không có một mô hình tổ  chức QLRR phù hợp cho tất cả  các CTCK, tuy nhiên việc áp dụng mô hình QLRR tổng hợp sẽ  giúp  CTCK Việt Nam thực hiện được yêu cầu QLRR nêu trên một cách tốt  hơn. Cụ thể như sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2