intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

162
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò Nhà nước ta trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái và đề xuất biện pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay

  1. Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh NguyÔn ThÞ Kh­¬ng Vai trß cña nhµ n­íc trong viÖc kÕt hîp gi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I tr­êng sinh th¸I ë n­íc ta hiÖn nay Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ Néi - 2014
  2. C«ng tr×nh ®­îc hoµn thµnh t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: 1. PGS,TS TrÇn thµnh 2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn Ph¶n biÖn 1: Ph¶n biÖn 2: Ph¶n biÖn 3: LuËn ¸n sÏ ®­îc b¶o vÖ tr­íc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh. Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014 Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th­ viÖn Quèc gia vµ Th­ viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh môi trường, năng lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST, chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST. Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI. Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào khai thác TNTN và các yếu tố môi trường, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống cấp về chất lượng, nhiều nguồn tài nguyên bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT - XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an ninh lương thực, an ninh môi trường và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới tiến trình PTBV ở Việt Nam. Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” đã ra đời. Nhờ thực hiện mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
  4. 2 ta được hình thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực. Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí”, “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động” đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá là một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên; nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên môi trường. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vẫn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân. Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải
  5. 3 tiếp tục củng cố chính sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT, đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST… Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, qua đó, đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái và những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. - Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
  6. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa học có liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh... 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 6. Ý nghĩa của luận án - Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn, nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST. - Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. - Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
  7. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế có rất nhiều công trình. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển kinh tế xã hội ở nước ta”, tạp chí Lý luận chính trị số 4 (2010) của Nguyễn Thị Doan; “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị số 1 (2013) của Nguyễn Văn Hậu, “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Phú Trọng; “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” của các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt... Nhìn chung, các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã có đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm tăng trưởng kinh tế, đồng thời đi sâu nghiên cứu, hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, chỉ ra các mô hình tăng trưởng kinh tế cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tăng trưởng của kinh tế thế giới và ở nước Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền kinh tế ở nước ta. 1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi trường sinh thái Về vấn đề này có các công trình nghiên cứu như: “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học số 6 (1998) của Phạm Thị Ngọc Trầm; “Mối quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 316, (2004) của Nguyễn Văn Kim, “Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái” (2009), tác giả Vũ Trọng Dung; “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (2013)...
  8. 6 Các nghiên cứu trên đã làm rõ nội hàm khái niệm môi trường sinh thái, đồng thời chỉ ra rằng bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề sống còn đối với các quốc gia dân tộc trong thời đại ngày nay. Các giải pháp mà các nghiên cứu đề cập để bảo vệ môi trường sinh thái là giải pháp về chính sách, pháp luật, đầu tư tài chính và khoa học và công nghệ, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho nhân dân... 1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái . Những năm gần đây, những nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều người. Trong số những nghiên cứu liên quan đến vấn đề này có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”, trong Tạp chí Triết học số 6 (2009) của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục”, đăng trên tạp chí Triết học, số 11 (2009), tác giả Trần Đắc Hiến, “Sự phát triển của thương mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, luận án tiến sỹ của tác giả Trương Mạnh Tiến; “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền", luận án tiến sỹ của tác giả Bùi Văn Dũng… Các công trình nghiên cứu trên đã chứng minh rằng chính hoạt động sản xuất vật chất, sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Từ đó, các nghiên cứu tập trung phân tích và đưa ra một số giải pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế là một vấn đề được nghiên cứu khá nhiều trong những năm qua, có thể kể đến các nghiên cứu sau: “Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay”, tạp chí Lý luận Chính trị số
  9. 7 2 (2010) của Ngô Quang Minh; “Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay”, tạp chí Triết học số 10 (2012) của Trần Thành, “Thể chế kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam”, của các tác giả Lương Xuân Quỳ, Đỗ Đức Bình; “Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” của Mai Lan Hương… Trong các công trình này, các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế… đã được đặt ra và giải quyết một cách công phu, nghiêm túc. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi vai trò của nhà nước ta từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển kinh tế, từ đó khẳng định thông qua thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một số nghiên cứu còn cho thấy, Việt Nam đã hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực. Do đó, không thế thiếu bàn tay can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế xã hội trong giai đoạn hoàn toàn mới. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm, vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém. Do đó, phải có các giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước như: hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế đồng bộ; cải cách, hoàn thiện thể chế hành chính… 1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái Có các công trình tiêu biểu như: Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái" của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan, tạp chí Lý luận chính trị số 7 (2011); "Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường" của Lê Thị Thanh Hà, tạp chí Triết học số 8 (2011), “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của Phạm Thị Ngọc Trầm (2006); “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường” của Nguyễn Thị Thơm và An Như Hải (2011)… Các công trình khoa học trên cho thấy, chủ thể giữ vai trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ môi trường sinh thái là nhà nước. Với tư cách là người đại diện cho nhân dân sở hữu tài nguyên thiên nhiên, nhà nước
  10. 8 thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Ở nước ta, nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc đề ra chủ trương, chính sách, pháp luật và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý tài nguyên, môi trường. Để nâng cao vai trò của nhà nước ta trong quản lý tài nguyên, môi trường cần: hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ môi trường; hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường ở các cấp; nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường cho nhân dân… Như vậy: Các công trình đã nghiên cứu đều có ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình đã tạo ra hướng gợi mở quan trọng để luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo hướng mới. Chương 2 KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI – YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ 2.1. KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái 2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là khái niệm được đề cập tới theo các khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng qua thời gian của một nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, di chuyển giới hạn khả năng sản xuất qua thời gian; tăng trưởng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định… Theo tác giả luận án, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các nguồn lực tự nhiên và xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là: nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, điều kiện môi trường sinh thái thuận lợi.
  11. 9 2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái Có nhiều quan niệm khái niệm khác nhau về môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái là tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội; Môi trường sinh thái là tổng hợp những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người như không khí, nước, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và các tạp chất độc hại; … Theo tác giả luận án môi trường sinh thái được hiểu là môi trường sinh thái tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho sự tăng trưởng của nền kinh tế, bao gồm các loại động, thực vật, các loại tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Bảo vệ môi trường sinh thái là hoạt động của con người nhằm khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đảm bảo cân bằng sinh thái trên cơ sở giữ gìn sự trong sạch, tái tạo và cải thiện môi trường, ngăn chặn các hậu quả xấu do tăng trưởng kinh tế gây ra cho môi trường sinh thái. 2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 2.1.2.1. Vai trò và tác động của tăng trưởng kinh tế đối với bảo vệ môi trường sinh thái Trong quá trình sản xuất vật chất, tăng trưởng kinh tế là cách thức chủ yếu, là nhu cầu bắt buộc của mọi quốc gia nhằm phát triển kinh tế. Để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, các quốc gia đã tác động tới môi trường sinh thái. Đối với mỗi quốc gia, nguồn tài nguyên thiên nhiên là điều kiện cơ bản để phát triển. Trong nhiều thập kỷ qua, con người đã không ngừng đổi mới công cụ lao động, ứng dụng công nghệ hiện đại để khai thác tài nguyên. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào khai thác tài nguyên thiên nhiên ít nhiều giúp cho tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn, tái tạo cảnh quan môi trường sinh thái. Song, cũng có đem đến những bất lợi, gây nên những ảnh hưởng xấu cho môi trường sinh thái. Nếu kinh tế tăng trưởng tốt, con người sẽ có thêm những điều kiện vật để bảo vệ môi trường sinh thái và ngược lại nếu kinh tế không tăng trưởng hoặc con người tìm mọi cách khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế thì sẽ không có điều kiện để tái tạo và bảo vệ môi trường sinh thái.
  12. 10 2.1.2.2. Tác động của bảo vệ môi trường sinh thái lên tăng trưởng kinh tế Môi trường sinh thái cung cấp những điều kiện vật chất tối thiểu để con người sống và tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Sẽ không thể có tăng trưởng kinh tế nếu thiếu các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, chính môi trường sinh thái đã thực hiện chức năng cung cấp đối tượng lao động để hoạt động sản xuất diễn ra bình thường. Do đó, bảo vệ môi trường sinh thái sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Môi trường sinh thái được bảo vệ, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không bị cạn kiệt và có điều kiện tái sinh, đầu vào cho tăng trưởng kinh tế, tất yếu, sẽ được duy trì và ổn định. Nếu môi trường sinh thái không được bảo vệ, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, sẽ ngày một cạn kiệt dần, không có điều kiện tái sinh, lúc đó, đầu vào của nền kinh tế không ổn định, không còn đủ đối tượng lao động để tiến hành sản xuất và nền kinh tế tất yếu không thể tăng trưởng. Để bảo vệ môi trường sinh thái, trong quá trình sản xuất, con người phải tìm ra những phương thức phù hợp tác động tới môi trường sinh thái, đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. 2.1.3. Sự cần thiết kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo phát triển bền vững Một là, để phát triển kinh tế, các quốc gia ít nhiều đều phải dựa vào môi trường sinh thái. Việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng phải hướng vào việc khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo ra những tiền đề để vừa duy trì sức tăng trưởng của nền kinh tế, vừa duy trì sự cân bằng hệ sinh thái tự nhiên. Hai là, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái là hai mục tiêu được đặt ra để phát triển bền vững, song việc thực hiện hai mục tiêu này lại thường nảy sinh những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Để bảo đảm cho các thế hệ kế tiếp có tiền đề để tăng trưởng, các thế hệ hiện tại cần phải khai thác hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Điều này chỉ có thể thực hiện dựa trên sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Ba là, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là yếu tố cơ bản quyết định tới bền vững về xã hội. Tức là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
  13. 11 2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Về chính sách: Các chính sách cần có nhằm gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là: phát triển nguồn nhân lực, khoa học - công nghệ, xây dựng cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các chính sách này là cơ sở giúp cho nhà nước khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ tự nhiên cho tăng trưởng kinh tế đồng thời hướng tăng trưởng kinh tế vào quá trình bảo vệ môi trường sinh thái Về chiến lược: Các chiến lược là sự cụ thể hóa các chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở một mức độ nhất định. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, nhà nước sẽ quyết định việc xây dựng các chiến lược, huy động các nguồn lực tài chính, con người cũng như các nguồn lực khác để thực hiện tốt các chiến lược đề ra. Về pháp luật: Luật Quốc tế về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là tổng thể các quy tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế trong việc tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc bảo vệ môi trường sinh thái trong và ngoài phạm vi quốc gia. Luật Quốc gia về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lí của một quốc gia điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quốc gia đối với các hoạt động kinh tế có liên quan đến môi trường sinh thái nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. 2.2.2. Vai trò của nhà nước trong tổ chức thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Vai trò của nhà nước trong tổ chức bộ máy thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng tới sự tồn vong của mỗi quốc gia. Do vậy, nó phải được coi là một lĩnh vực kinh tế - xã hội quan trọng như các lĩnh vực khác, từ đó nhà nước xác định nhiệm vụ, ban hành và thực thi các quyết định từ cấp trung ương đến địa phương nhằm tạo ra
  14. 12 mối liên kết theo chiều dọc từ trên xuống dưới để bảo vệ môi trường sinh thái dưới tốc độ tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế. Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái: Nhà nước tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua thực hiện quy hoạch gắn với đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao. Làm tốt điều đó, sẽ có được lực lượng cán bộ có trình độ cao, đảm bảo tính kế cận liên tục về con người, phù hợp với yêu cầu thực tiễn về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Vai trò của Nhà nước trong việc huy động nguồn vốn; thực hiện triển khai, nghiên cứu khoa học - công nghệ; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái: Để thực hiện các nội dung bảo vệ trường sinh thái dưới tác động của tăng trưởng kinh tế cần phải có nguồn vốn đủ lớn dùng cho các lĩnh vực: đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng vật chất, sản xuất sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường sinh thái, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện các dự án bảo vệ môi trường… Việc ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất làm cho hiệu quả sử dụng vốn, tài nguyên thiên nhiên tăng, nền kinh tế có sự tăng trưởng và môi trường sinh thái được khai thác hợp lý hơn. Do đó, các quốc gia phải nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Việc mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng là một trong những động thái tích cực giúp nâng cao vai trò của nhà nước đối với lĩnh vực gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. 2.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Qua công tác này, nhà nước sẽ nắm được tình hình thực hiện việc gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó, xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển phù hợp. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát góp phần đảm bảo đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào triển khai, thực hiện
  15. 13 có hiệu quả. Giúp phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. 2.2.4. Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội, nâng cao trách nhiệm xã hội của cá nhân để thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Trong tăng trưởng kinh tế, chính lợi ích vật chất mà con người mong muốn đạt được khi tiến hành khai thác tài nguyên thiên nhiên là nguyên nhân tiềm ẩn nguy cơ mất gây an toàn cho môi trường sinh thái. Để điều hoà lợi ích giữa các nhóm xã hội khác nhau, để mọi người đều phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường sinh thái, nhà nước cần phải phát huy sự đồng thuận của toàn xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân vào bảo vệ môi trường sinh thái. Chương 3 VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. MÂU THUẪN GIỮA ĐÒI HỎI PHẢI CÓ TÍNH ĐỒNG BỘ VỀ CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG CÒN THIẾU ĐỒNG BỘ 3.1.1. Sự bất cập, thiếu đồng bộ giữa các chính sách, chiến lược trong việc kết hợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh và bảo vệ môi trường sinh thái Thứ nhất: Sự bất cập, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng và triển khai các chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Các chính sách kinh tế: Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về các chế độ ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính… cho các hoạt động bảo vệ môi trường, các sản phẩm thân thiện môi trường cũng như các hoạt động kết hợp hài hòa giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển. Tuy có những bước tiến trong ban hành và thực hiện chính sách nhưng trong thực tế vẫn nảy sinh không ít khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn, các chính sách chưa tương xứng, chưa đáp ứng với những đòi hỏi của thực tế. Một
  16. 14 số chính sách còn nảy sinh những lỗ hổng pháp lý - là điều kiện cho các loại tội phạm có cơ hội thực hiện những điều xấu, gây ảnh hưởng đến kinh tế và hủy hoại môi trường sinh thái. Các chính sách xã hội: bao gồm các chính sách về xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ... Dù đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng vai trò của Nhà nước trong việc ban hành, chỉ đạo thực hiện các chính sách này, song vẫn còn những hạn chế nhất định, đòi hỏi Nhà nước phải tích cực, chủ động hơn nữa để đề ra các chính sách hợp lý hơn, tạo điều kiện cần và đủ để tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường được gắn kết ngay trong từng bước phát triển của đất nước. Thứ hai: Sự bất cập trong việc việc xây dựng và triển khai các chiến lược nhằm thực hiện chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Sự ra đời của các chiến lược tạo ra những điều kiện cần thiết, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư lao động, vốn, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế nhất định trong công tác ban hành cũng như tổ chức thực hiện các chiến lược. Chất lượng của các chiến lược mặc dù được nâng cao, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế, còn có sự chồng chéo lên nhau. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện các chiến lược còn không được đồng đều giữa các địa phương… đòi hỏi Nhà nước phải nhìn nhận và có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra. 3.1.2. Sự bất cập và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Trong xu thế toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào các Hội nghị quốc tế, ký kết các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Có thể khẳng định, việc ký kết các Công ước này đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn, đặc biệt là trong việc thực hiện gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Song, vẫn còn một số hạn chế như: việc ký kết các Công ước còn chậm trễ, việc triển khai thực hiện còn muộn hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới… Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đồng thời cũng là những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng
  17. 15 kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đã đánh dấu những bước đi quan trọng trong việc thực hiện lịch trình thế kỷ XXI của Việt Nam: Hệ thống tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường sinh thái trong tăng trưởng kinh tế từng bước được thành lập; nền kinh tế có những bước đi khá bền vững; môi trường sinh thái bước đầu được bảo vệ. Song, thực tế còn tồn tại là mặc dù số lượng văn bản pháp luật bảo vệ môi trường rất nhiều, nhưng lại vắng bóng hệ thống pháp luật chuyên ngành về kết hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; vấn đề bảo vệ môi trường, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên trong các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh chưa phải là vấn đề cơ bản, trọng tâm trong hệ thống pháp luật; một số văn bản pháp luật còn tồn tại những quy định bất cập, không phù hợp với thực tế kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; các quy định pháp luật về môi trường đã có chưa phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế về phát triển bền vững mà Việt Nam ký kết. 3.2. MÂU THUẪN GIỮA YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI HIỆU QUẢ THỰC TẾ CÒN BẤT CẬP, NHIỀU HẠN CHẾ 3.2.1. Sự yếu kém trong gắn kết giữa các ngành, các cấp của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Một là: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường sinh thái còn chồng chéo, hoạt động không hiệu quả Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái ở trong nước diễn ra mọi nơi, mang tính thường xuyên, liên tục, đặt ra yêu cầu cần phải có một bộ máy với số lượng cán bộ làm công tác quản lý tài nguyên môi trường đủ lớn. Song, ở nước ta, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường rất ít, lại tập trung chủ yếu ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, cấp đơn vị hành chính xã, phường hầu như không nhiều. Sự gắn kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường với các bộ khác như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế… trong công tác bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta còn có nhiều hạn chế như: tình trạng chồng chéo về chức năng, thẩm quyền giữa các bộ; việc giao nhiệm vụ về bảo vệ môi trường sinh thái, việc phân cấp quản lý không rõ ràng tạo ra sự đùn đẩy, né tránh trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho nhau khi xảy ra các các sự cố về môi trường…
  18. 16 Hai là: Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ Cho đến nay tổng số cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở Việt Nam khoảng 10.000 người, với tỷ lệ khoảng 13 người/1 triệu dân. Sự thiếu hụt lực lượng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường sinh thái. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, tội phạm về môi trường ngày một hoạt động nhiều hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế và chất lượng sống của con người. Chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay còn có nhiều hạn chế như: chuyên môn nghiệp vụ thấp; phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ còn yếu kém… 3.2.2. Công tác đầu tư nguồn vốn, khoa học và công nghệ đảm bảo cho gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đạt hiệu quả Về công tác đầu tư nguồn vốn Nhà nước xác định tài chính chi cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái là nguồn chi thường xuyên. Từ năm 2006 đến nay, ngân sách cho bảo vệ môi trường đã được bố trí thành một nguồn riêng với qui mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách Nhà nước hàng năm. Tuy nhiên, mức đầu tư hiện nay được các nhà quản lý đánh giá là quá thấp so với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ bảo vệ môi trường và còn mang tính dàn trải; tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp; việc bố trí các nguồn vốn ODA, vốn tín dụng trong kế hoạch ngân sách hằng năm cho công tác xã hội hóa về môi trường chưa rõ ràng; việc quản lý các nguồn vốn còn bị buông lỏng, tạo cơ hội cho tình trạng tham nhũng, lãng phí nảy sinh. Về khoa học và công nghệ Nhà nước ta đã nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ vào thực tiễn, nhờ đó có tác dụng tích cực trong nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Việc chuyển giao, ứng dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học đã góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hình thành một số ngành kinh tế có trình độ công nghệ cao thân thiện với môi trường; quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ngày càng hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc triển
  19. 17 khai, ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta có hạn chế, như: khoa học, công nghệ phát triển chưa tương xứng với sự nghiệp phát triển bền vững; chưa tham gia toàn diện vào việc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường… 3.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn Nhìn chung, các công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta từng bước được củng cố và tăng cường, bước đầu đạt được hiệu quả tích cực, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các bộ, ngành với nhau… Tuy nhiên, công tác này ở nước ta thời gian qua vẫn còn có nhiều hạn chế như: Các cấp chính quyền còn buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo vệ môi trường sinh thái; thanh tra của các bộ, ngành vẫn chưa thi hành nghiêm túc theo luật định, nhiều nơi còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau… 3.3. MÂU THUẪN CỦA VIỆC ĐÒI HỎI CẦN PHẢI CÓ SỰ PHỐI HỢP CHẶT CHẼ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC, CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG PHỐI HỢP CÒN LỎNG LẺO, CHƯA CHẶT CHẼ 3.3.1. Những hạn chế trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã có đóng góp rất nhiều cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái. Song, cạnh đó, cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa làm tốt trách nhiệm môi trường trong sản xuất kinh doanh. Vì lợi ích mà các doanh nghiệp tìm mọi cách né tránh vấn đề môi trường, không trung thực trong kê khai, bỏ qua các tiêu chí về môi trường, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Những bất cập về chính sách, pháp luật, sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước… là những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng thờ ơ, thiếu trách nhiệm môi trường của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ở nước ta hiện nay.
  20. 18 3.3.2. Những hạn chế trong việc nâng cao nhận thức về pháp luật, chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân đã có những vai trò nhất định trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Mặc dù đã có nhiều thành tựu, song, trên thực tế vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta còn chưa được rõ nét, chưa tạo ra được sự đồng thuận giữa các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước và các tổ chức đoàn thể. Ở nhiều nơi, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội không được tham gia vào đánh giá tác động môi trường trong các dự án được triển khai tại địa phương…. Chương 4 MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 4.1.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Về xây dựng và hoàn thiện chính sách về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - yêu cầu cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững: Hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; ưu tiên nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên; rà soát đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp tiến hành khai thác tài nguyên, đánh giá lại tiêu chuẩn nghề nghiệp, xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng để có những biện pháp giáo dục, đạo tạo; nghiên cứu xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2