intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tư tưởng triết học của Albert Einstein

Chia sẻ: Cogacoga Cogacoga | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

112
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua nghiên cứu, luận án này nhằm khái quát, hệ thống tư tưởng triết học đồng thời đánh giá ý nghĩa lịch sử tư tưởng triết học của A. Einstein theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Tư tưởng triết học của Albert Einstein

  1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN LĂNG TOM TĂT LUÂN AN TIÊN SI  ́ ́ ̣ ́ ́ ̃ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC  CỦA ALBERT EINSTEIN Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mã số: 62.22.80.01  Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH
  2. 2 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ­ 2014 Công trinh hoan thanh tai: Trương Đai hoc Khoa hoc xa hôi va Nhân văn –   ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ̣ ̣ ̣ ̃ ̣ ̀ ̣ ̣ Đai hoc Quôc gia TP.HCM ́ Cán bô hương dân khoa hoc:  ̣ ́ ̃ ̣ PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch ̣ ̉ ̣ ̣ ̣ Cán bô phan biên đôc lâp: 1. PGS.TS. Trân Nguyên Việt ̀ 2. PGS.TS. Trịnh Doãn Chính Cán bô phan biên Hôi đông châm luân an câp Trườ ̣ ̉ ̣ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ́ ng: 1. PGS.TS. Trương Văn Chung 2. PGS.TS. Trần Nguyên Việt 3. PGS.TS. Lương Minh Cừ Luân an được bao vê trươc Hôi đông châm luân an tiên si câp Trườ ̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ́ ̃ ́ ̣ ng tai  Trương Đai hoc Khoa hoc xa hôi va Nhân văn – Đai hoc Quôc gia TP.HCM. ̀ ̣ ̣ ̣ ̃ ̣ ̀ ̣ ̣ ́ Thơi gian: … giờ ̀  …… ngay …… thang …… năm 2014 ̀ ́ ́ ̉ ̀ ̣ ̣ ́ ̣ Co thê tim đoc luân an tai: ­ Thư viên Khoa hoc Tông hợp TP.HCM ̣ ̣ ̉ ­ Thư viên Trung tâm Đai hoc Quôc gia TP.HCM ̣ ̣ ̣ ́ ­ Thư  viên Trương Đai hoc Khoa hoc xa hôi va Nhân văn – Đai hoc  ̣ ̀ ̣ ̣ ̣ ̃ ̣ ̀ ̣ ̣ Quôc gia TP.HCM. ́
  3. 3 NHỮNG CÔNG BỐ KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ  LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN 1. Albert Einstein: Giáo dục tư  duy độc lập – Tư tưởng và ý nghĩa, Tạp  chí Khoa học Xã hội, Viện Phát triển bền vững Vùng Nam Bộ, số  7   (2011), tr. 1­ 6. 2. Albert Einstein – Nhà khoa học yêu chuộng hòa bình,, Tạp chí Triết  học, Viện Khoa học Xã Hội Việt Nam, số 8 (2011), tr. 83­89. 3. Quan niệm của Albert Einstein về  con người và ý nghĩa cuộc sống,  Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 5 (2011), tr. 61­65. 4. Vũ trụ hài hòa hay quan niệm về Thượng đế của Albert Einstein, Tạp  chí Khoa học, Trường Đại học Phú Yên, số 2 (2013), tr. 83­88. 5. Đạo vũ trụ  của Albert Einstein, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện Phát  triển bền vững Vùng Nam Bộ, số 1 (2013), tr. 6­ 10.
  4. 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài  Albert Einstein (A. Einstein), nhà vật lý học vĩ đại nhất của nhân loại,  người phát minh ra thuyết tương đối và hình thành vũ trụ học hiện đại, đồng thời   góp phần khai sinh thuyết lượng tử. Thuyết tương đối và thuyết lượng tử là hai  trụ  cột làm nên cuộc cách mạng trong vật lý học thế  kỷ  XX. A. Einstein không  chỉ là nhà vật lý học kiệt xuất, mà còn là nhà triết học nổi tiếng bởi những đóng   góp quan trọng của ông trong việc tạo dựng cơ sở khoa học tự nhiên cho các tư  tưởng triết học đúng đắn về  thế  giới vật chất, về vận động, tính tương đối và  thống nhất của không ­ thời gian, tính thống nhất vật chất của thế  giới. Những   phát minh vĩ đại của ông còn khẳng định khả năng to lớn của trí tuệ con người có  thể đi sâu phản ánh bản chất và những quy luật vận động phức tạp của thực tại  khách quan. Với những tài liệu đã được công bố do chính ông viết hoặc những tác giả  khác viết về ông, thông qua những thư từ trao đổi giữa ông và nhiều người khác   chúng ta thấy rằng, ngoài một nhà khoa học vĩ đại, A. Einstein còn là một nhà   triết học với những tư  tưởng có tính chất đặc biệt. Tư  tưởng triết học của A.   Einstein bao quát nhiều lĩnh vực quan trọng; tư duy và hành động của ông đã kiến  giải nhiều vấn đề mang tính thời đại. Chính điều đó làm cho tư tưởng triết học   của A. Einstein có sức cuốn hút đối với nhiều người. Do vậy, việc nghiên cứu tư  tưởng triết học của một nhà khoa học thiên tài mà  ở  nước ta từ  trước đến nay  mới chỉ  được biết về  mặt khoa học, chưa được biết nhiều và có hệ  thống về  mặt triết học, là vấn đề  vô cùng cần thiết. Chính lẽ  đó, tôi quyết định chọn đề  tài nghiên cứu  “Tư  tưởng triết học của Albert Einstein”.  Thông qua nghiên  cứu, luận án này nhằm khái quát, hệ thống tư tưởng triết học đồng thời đánh giá  ý nghĩa lịch sử tư tưởng triết học của A. Einstein theo quan điểm của chủ nghĩa   duy vật biện chứng.
  5. 5 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, đã có những công trình nghiên cứu về A. Einstein với nhiều  góc độ  khác nhau. Tổng quan lịch sử  nghiên cứu đề  tài, trong phạm vi luận án   này, chúng tôi tạm chia thành 3 mảng chính như sau: 2.1. Những công trình, tư liệu nghiên cứu tiểu sử Albert Einstein Đã có nhiều công trình và tư liệu về A. Einstein dưới dạng tiểu sử danh   nhân được xuất bản thành sách hoặc phổ  biến thông qua các trang mạng toàn  cầu. Một trong những trang mạng tương đối đầy đủ  dữ  liệu về  A. Einstein có   địa chỉ tại www.alberteinstein.info của The Hebrew University of Jerusalem b ằng   tiếng Anh và tiếng Do Thái đã sưu tập tất cả  những tư  liệu liên quan đến A.   Einstein bao gồm tiểu sử, hoạt động, công trình khoa học, tư tưởng, hình ảnh và  thư  tín… Đây là nguồn tham khảo quan trọng cho những ai quan tâm đến cuộc   đời và sự nghiệp của A. Einstein. Ở mảng này, trong quá trình nghiên cứu đề tài,   chúng tôi đã được tiếp cận một số công trình, tư liệu chủ yếu sau đây: A. Foelsing đã có tác phẩm “Albert Einstein ­ Nhà bác học vĩ đại của nhân   loại”, xuất bản năm 1993, nhân năm Vật lý thế giới. Là tác phẩm đồ sộ với gần   1000 trang in, A. Foelsing đã tổng hợp, chọn lọc và giới thiệu tiểu sử, cuộc đời  và sự  nghiệp của A. Einstein một cách chi tiết và đầy đủ. Tác phẩm giúp cho   người đọc có cái nhìn tổng quan về A. Einstein từ những năm tháng trẻ tuổi đến   sự  thành đạt trong khoa học và  ảnh hưởng lớn lao của nhà bác học vĩ đại của   nhân loại. F.  MacDonald  với  tác  phẩm “Albert  Einstein”;  Mã  Quan  Phục  với  tác  phẩm “Albert Einstein ­ con người vĩ đại”. Đây là những ấn phẩm danh nhân, đề  cập đến A. Einstein từ  cuộc đời, sự  nghiệp, thuyết tương đối và những  ảnh   hưởng của ông đối với thời đại. Cũng dưới hình thức phổ  biến kiến thức trong   loạt sách danh nhân, R. Downs đã xuất bản “Những tác phẩm biến đổi thế giới”.  Nguyễn Thế Tài, một kỹ sư, nhà nghiên cứu khoa học người Việt tại Bỉ. Sau khi  xem triển lãm về A. Einstein với chủ đề “A. Einstein, một cái nhìn khác” vào đầu 
  6. 6 tháng 02 năm 2006 tại Bruxelles đánh dấu năm 2005 nhân kỷ  niệm 100 năm ra  đời   của   thuyết   tương   đối,   Nguyễn   Thế   Tài   đã   xuất   bản   khảo   cứu   “Albert   Einstein, nhà bác học đam mê và chân thật”. Tác phẩm đã đề  cập đến cuộc đời,   sự  nghiệp khoa học, tư  tưởng triết học và giá trị  của A. Einstein đối với hôm   nay. Với 230 trang sách, Nguyễn Thế Tài đã dành 3 chương quan trọng: tư tưởng   chính trị, quan niệm vũ trụ, triết học ­ tôn giáo để  khắc họa đầy đủ  và sâu sắc  những đóng góp khoa học và tư  tưởng của A. Einstein. Với sự khâm phục dành   cho nhà bác học vĩ đại, Nguyễn Thế  Tài cũng đã viết một số  bài báo trên các  trang mạng và khẳng định rằng, A. Einstein là nhà bác học vĩ đại với những tư  tưởng có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống hôm nay.  Hưởng  ứng Năm Vật lý thế  giới (2005) do Liên Hợp quốc phát động,   nhân 100 năm A. Einstein công bố thuyết tương đối, Hội thảo “Vật lý học, văn  hoá và phát triển” đã được tổ  chức tại Thành phố Hội An (tỉnh Quảng Nam) từ  31/7/2005 đến 01/8/2005. Gần 100 đại biểu là các nhà khoa học và nhà nghiên   cứu, văn nghệ  sĩ đã tham dự  Hội thảo với những tham luận khoa học v ề v ật lý  học, về  tư  tưởng của A. Einstein. Những tham luận tại Hội thảo đã được xuất  bản thành sách “Einstein ­ dấu ấn trăm năm” (2006). Những nhà nghiên cứu, nhà  văn hóa Việt Nam đã đánh giá cao những thành tựu về khoa học và tư tưởng của   A. Einstein. Những thành tựu đó có tính chất bước ngoặt, thể  hiện tính cách  mạng và là những đóng góp quan trọng của A. Einstein đối với lịch sử khoa học  và tư tưởng của nhân loại. Giá trị về nhân cách, đạo đức và nhân văn từ tư tưởng   của A. Einstein được các nhà nghiên cứu đánh giá là mẫu mực đối với cuộc sống   và sự sáng tạo trong khoa học. Chung quy, đối với những công trình, tư  liệu dưới dạng tiểu sử đã giúp   cho người nghiên cứu đề  tài có nhiều thông tin và cứ  liệu về  cuộc đời và sự  nghiệp của A. Einstein để đối chiếu, so sánh, hệ thống, phân tích và đánh giá làm  cơ sở cho việc nghiên cứu tư tưởng triết học của A. Einstein một cách toàn diện,  có hệ thống.
  7. 7 2.2. Những công trình nghiên cứu về vật lý học của Albert Einstein Nhà vật lý vĩ đại người Đức, người góp phần khai sinh ra cơ học lượng   tử, tác giả  của nguyên lý bất định nổi tiếng, đã được nhận giải thưởng Nobel   năm 1932 ­ W. Heisenberg, đã có loạt bài giảng về  “Vật lý và triết học” được  đọc tại Đại học St. Andrews (Scotland) và xuất bản thành sách năm 1958 với  nhan đề “Vật lý và triết học”. Năm 2009, sách của W. Heisenberg đã được dịch  sang tiếng Việt và Nhà xuất bản Tri thức phát hành tại Việt Nam với tên gọi:   “Vật lý và triết học­Cuộc cách mạng trong khoa học hiện đại”.  Nhà vật lý lý thuyết có  ảnh hưởng lớn hiện nay, S. Hawking, đã có hai   cuốn sách bán chạy nhất trên toàn thế  giới. Trong mỗi cuốn ông đã dành cho   thuyết tương đối cũng như  bản thân A. Einstein vị  trí trang trọng về  mặt phổ  biến kiến thức và nhận định, đánh giá ý nghĩa tư  tưởng triết học. Hai cuốn sách  đó là: “Lược sử  thời gian” và “Vũ trụ  trong vỏ  hạt dẻ”. Trong “Lược sử  thời   gian”, S. Hawking đã trình bày những vấn đề  căn bản của vật lý học như: bức   tranh vũ trụ, không gian và thời gian, vũ trụ giãn nở, nguyên lý bất định, các hạt  cơ  bản và các lực trong tự nhiên, lỗ đen, lỗ sâu đục và lý thuyết thống nhất của   vật lý học… B. Greene, giáo sư vật lý của Đại học Colombia, Mỹ đã viết và xuất bản   cuốn “Giai điệu dây và bản giao hưởng vũ trụ”. Cuốn sách được phát hành với  hy vọng độc giả  không được đào tạo chuyên sâu về  vật lý và toán học có thể  tiếp cận được. Người đọc tìm thấy trong cuốn sách này sự  cô đọng của những  kiến thức vật lý hiện đại như thuyết tương đối hẹp, thuyết tương đối mở  rộng  và cơ học lượng tử. A. Aczel đã ví phương trình E = mc 2 của A. Einstein là “Phương trình của  Chúa” trong tác phẩm “Câu chuyện về Phương trình thâu tóm cả vũ trụ”. Qua tác  phẩm này, A. Aczel đã đánh giá ý nghĩa lịch sử và ảnh hưởng cũng như nền tảng  của “phương trình kỳ  dị” đối với khoa học hiện tại và tương lai. F. Capra, giáo  sư vật lý tại các đại học và viện nghiên cứu danh tiếng của Mỹ và Anh đã xuất 
  8. 8 bản cuốn “Đạo của vật lý”. F. Capra đã trình bày một cách khúc chiết các vấn đề  vật lý và các nền đạo học phương Đông như Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo.  Vật lý học và tư tưởng của A. Einstein còn hấp dẫn với cô gái sinh năm  1986 ở Berlin. Năm 17 tuổi, S. Camejo đã viết cuốn sách “Thế giới lượng tử kỳ  bí”. Sách đã đề  cập những vấn đề  liên quan đến A. Einstein và các công trình  khoa học của ông một cách sáng sủa. Về  ánh sáng và vật chất, nguồn gốc của  lượng tử, hiệu  ứng quang  điện, nguyên lý bất định của W. Heisenberg, cuộc   tranh luận N. Bohr ­ A. Einstein, phương trình E. Schrodinger, nghịch lý EPR… đã   được S. Camejo trình bày và luận giải một cách ngắn gọn, dễ hiểu, giúp người   đọc có những hiểu biết nhất định về  thuyết tương đối và vật lý học của A.   Einstein.  Đối thoại giữa M. Ricard và Trịnh Xuân Thuận về  những vấn đề  liên   quan đến tâm linh, Phật giáo, triết học và vật lý là nội dung căn bản của tác   phẩm “Cái vô hạn trong lòng bàn tay­ Từ  Big bang đến Giác ngộ”. Với những   nội dung được trình bày: Tồn tại và không tồn tại, những vấn đề  về  thời gian,   ngữ  pháp của vũ trụ… thông qua hình thức đối thoại, Trịnh Xuân Thuận và M.  Ricard đã đề  cập đến A. Einstein và thuyết tương đối cả  ở  phương diện vật lý  cũng như  triết học. Trong quá trình nghiên cứu khoa học, Trịnh Xuân Thuận   ngưỡng mộ  và đánh giá cao những cống hiến vật lý học và tư  tưởng triết học  của A. Einstein. Với những tác phẩm như: “Những con đường của ánh sáng” và   “Trò chuyện với nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận”, cùng một số tác phẩm   khác đã xuất bản ở ngoài nước… Trịnh Xuân Thuận đã nhận định và đánh giá ý  nghĩa to lớn của học thuyết, tư  tưởng của A. Einstein và  ảnh hưởng của A.  Einstein đối với khoa học và cuộc sống hiện đại. Ở Việt Nam, từ những năm 30 của thế kỷ XX, thuyết tương đối của A.   Einstein đã được phổ  biến. Trong những năm gần đây, có nhiều tác phẩm giới   thiệu về  cuộc đời và công trình khoa học của A. Einstein trong lĩnh vực vật lý;  một số tác giả đã có những bài báo, cuốn sách phân tích tư tưởng triết học của A.  
  9. 9 Einstein. Nguyễn Ngọc Giao đã dành chương 3 trong quyển sách “Hạt cơ bản và  vũ trụ” để trình bày quan niệm về  không gian, vật chất và vận động theo quan   điểm của A. Einstein. Nguyễn Xuân Chánh với tác phẩm “A. Einstein và khoa   học công nghệ hiện đại xung quanh ta”, đã đề cấp đến giá trị  của thuyết tương   đối, hiệu ứng quang điện, công thức E = mc2… của A. Einstein và giá trị thực tế  của nó đối với khoa học và đời sống. Hai tác giả  Nguyễn Cảnh Lâm và Minh  Đức đã xuất bản tác phẩm “Những người khám phá thế giới bí ẩn A. Einstein và   S. Freud”; sách đề cập đến hai nhà khoa học và tư tưởng đã sáng tạo ra hai ngành   khoa học mới: vũ trụ học và phân tâm học. Nhóm các tác giả Đặng Mộng Lân, Đoàn Nhượng và Phạm Văn Thiều có   tác phẩm “Albert Einstein và sự  tiến triển của vật lý học hiện đại”. Sách đã  được biên soạn và dịch thuật giới thiệu những vấn đề chính liên quan đến thuyết   tương đối và tư  tưởng của A. Einstein. Với 406 trang, sách đã trình bày những   nội dung vật lý và triết học gắn liền với A. Einstein như: A. Einstein từ năm kỳ  diệu (1905) cho đến lý thuyết trường thống nhất, ý nghĩa triết học của lý thuyết  tương đối, kiểm tra thực nghiệm lý thuyết tương đối, vũ trụ  học hiện đại từ  A.   Einstein cho đến ngày nay, vật lý học trong kỷ  nguyên mới. Là một tác phẩm  dịch thuật và tổng hợp, “Albert Einstein và sự tiến triển của vật lý học hiện đại”  đã giúp cho người đọc có tầm nhìn đầy đủ về thuyết tương đối cũng như ý nghĩa   triết học có được từ thuyết tương đối của A. Einstein.   Năm 2008, nhân sinh nhật lần thứ 150 (1858­2008) của M. Planck ­ ng ười   đã khai sinh ra thuyết lượng tử, một kỷ  yếu về  ông: “Max Planck người khai  sáng thuyết lượng tử”, đã được xuất bản tại Việt Nam, trong đó có một số  bài   viết về  A. Einstein và thuyết tương đối. Thông qua quyển sách này, người đọc  được cung cấp những thông tin, tư liệu liên quan đến hai trụ cột của nền vật lý   hiện đại đầu thế kỷ XX: thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Nhìn chung, những tư  liệu và công trình về  vật lý học và thuyết tương  đối có ý nghĩa quan trọng đối với đề tài luận án. Thông qua việc khảo cứu, giúp  
  10. 10 cho người thực hiện đề tài nắm bắt được những nội dung quan trọng về vai trò,  vị trí của thuyết tương đối trong sự phát triển của vật lý học cũng như giá trị của  nó trong việc định hình tư  tưởng triết học của A. Einstein dưới góc độ  bản thể  luận và nhận thức luận. 2.3. Những công trình, tư liệu về tư tưởng triết học của A. Einstein Một trong những công trình nghiên cứu tương đối sớm về A. Einstein đó   là “Einstein: cuộc sống và thời đại” của F. Frank xuất bản năm 1947. Với tác   phẩm này, F. Frank đã nghiên cứu rất công phu về cuộc đời và sự  nghiệp và tác  động của những công trình vật lý của A. Einstein cùng với sự tiến triển của vật  lý học hiện đại. Đặc biệt, F. Frank đã sớm đề  cập đến ý nghĩa triết học của  thuyết tương đối của A. Einstein. Thông qua công trình này, F. Frank đã gợi mở  hướng nghiên cứu về  A. Einstein với tư  cách là nhà triết học khoa học có tư  tưởng nhân văn sâu sắc.  Năm 1949, P. Schilpp xuất bản tác phẩm “Albert Einstein – Nhà triết học   khoa   học”.   Đây   là   một   trong   những   quyển   sách   đầu   tiên   nghiên   cứu   về   A.   Einstein với tư  cách là nhà triết học. Thông qua tác phẩm, P. Schilpp đã giới  thiệu, nhận định và đánh giá tư tưởng triết học của A. Einstein. Nhà triết học D.  Howard đã gọi A. Einstein là nhà triết học khoa học và có nhiều công trình nghiên   cứu về  A. Einstein. Tiêu biểu như  “Albert Einstein nhà triết học khoa học”   và  “Albert Einstein và sự phát triển của triết học khoa học thế kỷ XX” . D. Howard  đã đánh giá những thành tựu vật lý có ý nghĩa triết học của A. Einstein cũng như  sự ảnh hưởng của các nhà triết học trước đó là E. Mach, J. Poincaré, S. Mill, R.  Avenarius, K. Pearson, R. Dedekind,  D.  Hume đối với việc hình thành tư  tưởng  triết học của A. Einstein.  S. Thorpe đã đánh giá cao phương pháp tư  duy của A. Einstein qua tác  phẩm   “Tư   duy  như   Einstein”.   Cuốn   sách   gồm  11  chương   và   2  phụ   lục,   hai   chương đầu giới thiệu khái quát về  A. Einstein và nguyên tắc tư  duy của ông.  Đánh giá những ảnh hưởng của A. Einstein đối với thế kỷ XXI, nhóm các tác giả 
  11. 11 P. Galison, G. Holton và S. Schweber đã biên tập và xuất bản cuốn sách “A.   Einstein for the 21st Century: His Legacy in Science, Aart, and Modern Culture”, do  Nhà xuất bản Đại học Princeton  ấn hành năm 2008. Cuốn sách tổng hợp những   bài viết về  khoa học, nghệ  thuật và văn hóa hiện đại dưới tác động của học  thuyết và tư  tưởng của A. Einstein cũng như  sức lan tỏa  của học thuyết A.  Einstein đối với thế kỷ XXI.  Gần đây, W. Isaacson nhà báo Mỹ, Tổng giám đốc điều hành của CNN và   Tổng biên tập Tạp chí Time, chuyên viết về  tiểu sử  các nhân vật nổi tiếng đã   công   bố   tác   phẩm   “Einstein   cuộc   đời   và   vũ   trụ”.   Trong   cuốn   sách   này,   W.  Isaacson đã lược sử, đánh giá những đóng góp quan trọng của A. Einstein đối với   vũ trụ học. Theo W. Isaacson, lý thuyết của A. Einstein đã có những tác động đối  với thế  giới quan và nhận thức luận của con người về vũ trụ. Cuốn sách được   giáo sư vật lý B. Greene của Đại học Colombia, Mỹ (tác giả của sách “Giai điệu  dây và bản giao hưởng vũ trụ”) nhận xét: Isaacson đã mô tả  bức tranh trọn vẹn   về A. Einstein một cách chính xác và khoa học. Isaacson giúp chúng ta cảm nhận   sâu sắc về cuộc sống, tâm hồn, và sự nghiệp khoa học của một nhân vật đã thay  đổi toàn bộ quan điểm của chúng ta về vũ trụ. Thật vậy, với “Einstein cuộc đời   và vũ trụ”, W. Isaacson đã trình bày và đánh giá toàn bộ cuộc đời của A. Einstein  gắn với những sự kiện và thành tựu; đây là nguồn tư  liệu có ý nghĩa, góp phần   quan trọng để chúng tôi hoàn thành đề tài này. Tác giả  có đóng góp lớn trong việc nghiên cứu cuộc đời và sự  sáng tạo   của A. Einstein với tư cách là nhà vật lý, nhà tư tưởng là Nguyễn Xuân Xanh với   tác phẩm “Einstein” (2007). Sau khi xuất bản, sách đã được các học giả  khen  ngợi là tác phẩm nghiên cứu công phu nhất về  cuộc đời và sự  nghiệp của A.  Einstein được xuất bản  ở  Việt Nam. Thông qua tác phẩm này, Nguyễn Xuân  Xanh đã tổng hợp những tư  liệu phong phú về  cuộc đời và sự  nghiệp của A.   Einstein, trong đó đề cập khá sâu sắc đến tư  tưởng triết học và giá trị  nhân văn   của A. Einstein. Đặc biệt, Nguyễn Xuân Xanh đã dành hai chương cuối cùng của  
  12. 12 quyển sách (chương 9 và 10) có tên gọi “Einstein – Con người giải phóng”, nhận   định và đánh giá tư  tưởng triết học dưới góc độ  bản thể  luận, nhận thức luận   cũng như tư duy độc lập và sáng tạo của A. Einstein.  PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng có loạt bài nghiên cứu về  A. Einstein đăng  trên các tạp chí trong nước như: “Quan niệm về sự bất tử của con người” (Tạp   chí Tâm lý học, số 10, 2002), “Quan điểm của A. Anhxtanh về quan hệ giữa tôn  giáo và khoa học”  (Tạp chí Lý luận chính trị, số  3, 2003), “A. Anhxtanh ­ Nhà  khoa học, nhà triết học” (Tạp chí Triết học, số  4, 2003), “Quan niệm của A.   Einstein về  con người, động cơ, mục đích và ý nghĩa của cuộc sống”  (Tạp chí  Nghiên cứu con người, số 3, 2003). Thông qua các bài báo, Nguyễn Tấn Hùng đã  trình bày và bước đầu đánh giá A. Einstein trên nhiều phương diện: con người,   khoa học và tôn giáo, giá trị nhân văn và tư tưởng triết học; gợi mở hướng nghiên  cứu về A. Einstein với tư cách là một nhà triết học ­ một vấn đề còn khá mới mẻ  ở Việt Nam. Bùi Văn Mưa với luận án tiến sĩ “Triết học và Bức tranh vật lý học về  thế giới”, đã được in thành sách, đi sâu phân tích bức tranh vật lý học về thế giới  trong lịch sử phát triển của nó; trong đó đã đề  cập đến bức tranh vật lý học về  thế giới và ý nghĩa triết học của học thuyết A. Einstein. Tổng quan lịch sử  nghiên cứu đề  tài, chúng tôi nhận thấy rằng, đã có  nhiều công trình về A. Einstein ở trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu, đánh  giá về A. Einstein ở nhiều góc độ: cuộc đời và sự nghiệp của một nhà khoa học   vĩ đại; nhà vật lý học với những phát minh làm thay đổi thế  giới; nhà triết học,  với những tư  tưởng, quan điểm có ý nghĩa đối với lịch sử  triết học. Tư  tưởng   triết học của A. Einstein đã được các tác giả  phân tích và đánh giá trên các mặt  sau: ­ Ý nghĩa triết học của thuyết tương đối. ­ Tư tưởng bản thể luận và nhận thức luận. ­ Tư tưởng tôn giáo và mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo.
  13. 13 ­ Giá trị nhân văn trong tư tưởng của A. Einstein. Từ  những công trình đã xuất bản về  A. Einstein, chúng tôi nhận thấy  rằng các tác giả đã nghiên cứu và có đánh giá hầu hết những khía cạnh triết học   trong học thuyết và tư  tưởng của nhà khoa học, nhà triết học A. Einstein. Tuy   nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ  và có tính hệ thống về tư tưởng triết học của A. Einstein. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tư  tưởng triết học của A. Einstein một cách khái quát và có  hệ thống trên các phương diện: tư tưởng bản thể luận, tư tưởng nhận thức luận,   vấn đề nhân sinh quan; từ đó rút ra những giá trị và đóng góp của A. Einstein đối  với sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.   3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ: Trình bày những điều   kiện, tiền đề hình thành tư tưởng triết học A. Einstein; khái quát và hệ thống tư  tưởng triết học của A. Einstein trên các phương diện: bản thể  luận, nhận thức   luận, vấn đề  nhân sinh quan; đánh giá ý nghĩa lịch sử tư  tưởng triết học của A.   Einstein.  4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy  vật biện chứng, chủ  nghĩa duy vật lịch sử, cách tiếp cận hệ  thống ­ cấu trúc  trong nghiên cứu đề  tài. Trên cơ  sở  lý luận chung, nghiên cứu đề  tài này, chúng  tôi còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phân tích ­   tổng hợp, logic ­ lịch sử, phương pháp hệ  thống ­ cấu trúc,  khái quát hóa ­  hệ  thống hóa và các phương pháp khác... 5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận án 5.1. Những đóng góp mới của luận án
  14. 14 ­ Luận án đã trình bày một cách có hệ thống và tương đối đầy đủ  về tư  tưởng triết học của A. Einstein trên các mặt: bản thể luận, nhận thức luận, vấn   đề  nhân sinh quan, mà từ  trước đến nay  ở  nước ta chưa có một công trình nào   thực hiện. ­ Luận án đã phân tích và rút ra ý nghĩa triết học của những phát minh   trong lĩnh vực vật lý học của A. Einstein, như thuyết tương đối nói chung, không  ­ thời gian, vận động, công thức E = mc2, tính thống nhất vật chất trong thế giới  vi mô…mở  ra khả năng vận dụng những thành tựu trong lĩnh vực khoa học này   vào nghiên cứu và phát triển triết học. ­ Luận án đã chứng minh tư  tưởng nhân văn của A. Einstein với quan   điểm về  ý nghĩa cuộc sống, chủ  nghĩa hòa bình, giáo dục tư  duy độc lập; tinh  thần quả cảm trong khoa học và lối sống giản dị của nhà khoa học vĩ đại, là mẫu   mực về quan niệm sống, là tấm gương sáng để mọi người noi theo.  5.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án Về lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về bản thể  luận, nhận thức luận, nhân sinh quan của A. Einstein theo quan điểm của chủ  nghĩa duy vật biện chứng.   Về  thực tiễn: Luận án là cơ  sở  để  thúc đẩy việc nghiên cứu tư  tưởng  triết học của A. Einstein ở Việt Nam trong thời gian đến. Tư tưởng nhân văn của  A. Einstein góp phần giáo dục lòng yêu chuộng hòa bình, lòng tự  trọng và sáng   tạo trong nghiên cứu và học tập, rèn luyện kỹ  năng sống cho mọi người nói   chung và thế hệ trẻ nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu  tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học trong các trường đại học và  cao đẳng. Luận án sau khi hoàn thành và bảo vệ cấp cơ sở đào tạo có thể được   xuất bản thành sách phục vụ cho việc tham khảo trong giảng dạy và học tập. 6. Kết cấu của Luận án: Ngoài phần mở  đầu, kết luận và danh mục tài  liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
  15. 15 NỘI DUNG Chương  1 NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH  TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN Nghiên cứu về A. Einstein, chúng ta thấy rằng tư tưởng triết học của A.   Einstein xuất phát từ: điều kiện lịch sử, tiền đề  khoa học tự  nhiên, tiền đề  tư  tưởng ­ lý luận và tư duy độc lập của Albert Einstein. Mỗi điều kiện, tiền đề có  vị trí riêng tạo nên chỉnh thể vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn trong quá trình hình  thành và phát triển tư tưởng triết học của A. Einstein. 1.1. Điều kiện lịch sử  hình thành tư  tưởng triết học của Albert   Einstein 1.1.1. Tình hình nước Đức cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Nước Đức vào những năm cuối thế kỷ XIX có một nền kinh tế phát triển   vô cùng thuận lợi. Sau chiến tranh Pháp – Phổ (1870 ­1871), nước Đức được bồi   thường 5 tỷ  fran và làm chủ  Alsace và Lorraine, hai vùng đất giàu có  về  tài   nguyên, khoáng sản. Nguồn tài chính và tài nguyên có được nhờ  chiến tranh là   điều kiện quan trọng để Đức xây dựng và phát triển một nền kinh tế hiện đại. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nước Đức với xu hướng chuyển   dần từ  tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế  quốc với tính chất điển hình; những  hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế  cũng dần dần xuất hiện. Đó chính là   điều kiện quan trọng, các tác động mạnh mẽ đối với A. Einstein dưới góc độ tư  tưởng về  việc cần thiết phải hướng tới và xây dựng một xã hội tốt đẹp, mang  tính nhân văn. 1.1.2. Chính trị ­ xã hội nước Đức cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với những biến động về chính trị  ­ xã hội  ở  nước Đức vào cuối thế  kỷ  XIX, đầu thế  kỷ  XX là nguyên nhân trực   tiếp của đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao mang bản chất hiếu chiến và 
  16. 16 xâm lược. Đó cũng là hệ quả thảm khốc mà thế  giới phải gánh chịu từ hai cuộc   đại chiến thế giới do nước Đức quân phiệt và phát xít phát động. Chiến tranh với  những hậu quả đã làm cho A. Einstein nhận diện đúng bản chất của nó và có thái  độ  hết sức rõ ràng trong việc chống chiến tranh. Sống trong lòng chủ  nghĩa tư  bản nên ông đã hiểu rõ những khiếm khuyết về kinh tế và giáo dục của xã hội tư  bản để  từ  đó ông hướng đến một nền giáo dục nhân bản, vì sự  phát triển của  con người. Từ tiền đề  chính trị  ­ xã hội với những nét đặc trưng như  vậy là cơ  sở quan trọng hình thành tư tưởng nhân văn của A. Einstein.  1.2. Những tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Albert Einstein 1.2.1. Tiền đề khoa học tự nhiên  Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lĩnh vực vật lý học đã xuất hiện những  thành tựu mới như: W. Röntgen phát hiện ra tia X, A. Becquerel phát hiện ra hiện  tượng phóng xạ, J. Thomson phát hiện ra điện tử  và chứng minh điện tử  là một   trong những thành phần cấu tạo nên  nguyên  tử  …Những phát minh  đó  đã tác  động mạnh mẽ đến bản thể luận và nhận thức luận triết học , đòi hỏi nhận thức  luận phải có tư  duy khác, trên cơ  sở  những khám phá của vật lý học hiện đại.   Thuyết tương đối của A. Einstein mang bản chất cách mạng về thế giới vật chất   với tất cả  sự  khác biệt, đã đem lại cho con người những thay đổi lớn lao trong   nhận thức khoa học và cải tạo thế giới.  Chính những tiền đề khoa học tự nhiên   là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng bản thể luận, nhận thức luận trong triết   học của A. Einstein.    1.2.2. Tiền đề tư tưởng và lý luận Tư tưởng triết học của A. Einstein có cội nguồn từ việc say mê triết học  và sử dụng những nguyên lý triết học phục vụ cho khoa học của ông. A. Einstein  sớm   quan   tâm   đến  các  tác   phẩm   triết   học  của   B.  Spinoza,  I.  Kant,  A.  Shopenhauer… Trong thời gian ở Thụy Sĩ, A. Einstein đã say mê tìm và đọc  nhận  thức luận của  D.  Hume,  E.  Mach.  Cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX,   để  giải 
  17. 17 quyết những vướng mắc khi lý giải những đột phá trong lĩnh vực vật lý học, A.  Einstein đã sử dụng triết học làm nền tảng cho khoa học.  Việc tiếp nhận những giá trị  tư  tưởng của những người đi trước có ý  nghĩa quan trọng trong việc hình thành tư tưởng của  A. Einstein. Ông đã đánh giá  cao và kế thừa được những giá trị trong các học thuyết triết học, kể cả triết học   duy tâm chủ  quan, vốn là đối tượng phê phán và bác bỏ  của chủ  nghĩa duy vật   biện chứng; nhưng A. Einstein đã có cách nhìn khác, thấy được mặt hợp lý và đã   vận dụng được tư  tưởng của các nhà triết học này vào sự  phát triển thuyết  tương đối. Có thể  khẳng định rằng, quan điểm của A. Einstein về  Thượng đế,  về  mối quan hệ  giữa khoa học và tôn giáo nói riêng và tư  tưởng triết học nói   chung xuất phát trực tiếp từ những tiền đề tư tưởng và lý luận như đã trình bày. 1.3. Tư duy độc lập của Albert Einstein Tư duy độc lập và sáng tạo của A. Einstein thể hiện qua phương tiện tư  duy mạnh mẽ ­ “tự do nội tâm”. Theo ông, chỉ có tự do nội tâm con người mới có  thể hành động độc lập và tạo ra những thành quả mang dấu  ấn cá nhân hữu ích  nhất và thành quả này sẽ góp phần mang lại ích lợi cho cộng đồng, như  có một  “bàn tay vô hình” xúi giục họ làm điều đó.  A. Einstein chủ trương con người cần   có tự do nội tâm, cần phát huy tính độc lập trong sáng tạo, nghiên cứu khoa học,  giảng dạy và học tập. Tư  duy độc lập và sáng tạo của A. Einstein đã trở  thành  nhân cách của ông; nhân cách đó đã mang lại cho nhân loại những giá trị khoa học   và tư tưởng triết học có giá trị.  KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Cùng với những điều kiện lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai   đoạn nở  rộ  của những phát minh khoa học, đặt con người trước những thách  thức về sự hiểu biết và cải tạo thế giới. Những phát minh trong lĩnh vực vật lý   học đã tạo ra một cuộc khủng hoảng thật sự trong khoa h ọc; tuy nhiên, nó đã góp  phần chỉ  ra sự  giới hạn trong nhận thức của con người, cần ph ải có phương   pháp mới để khắc phục và nhận thức thế giới khách quan một cách phù hợp.
  18. 18 Kế  thừa tư  tưởng trước đó, tiếp cận giá trị  khoa học đương thời,   cùng  với “tư duy mới”, thành tựu trong khoa học và tư tưởng của A. Einstein góp phần  giải quyết cuộc khủng hoảng trong vật lý học và triết học đầu thế  kỷ  XX. Đó  chính là cơ sở cho sự hình thành tư tưởng triết học của A . Einstein dưới góc độ  bản thể luận và nhận thức luận. Việc đánh giá đúng tính chất của thời đại, cùng  sự sáng tạo của một nhân vật vĩ đại sẽ giúp chúng ta có quan điểm toàn diện và   quan điểm lịch sử  để  nhận diện và đánh giá đúng tư  tưởng triết học của A.   Einstein và ý nghĩa của tư tưởng  ấy trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện  chứng. Chương 2 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN Đối với triết học, A. Einstein đã có những đóng góp ý nghĩa. Tư  tưởng  triết học của ông góp phần giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và được thể  hiện trên nhiều phương diện. Trong phạm vi đề  tài này, chúng tôi chỉ  khái quát  và đánh giá tư  tưởng triết học của A. Einstein  ở  ba nội dung cơ bản: tư tưởng   bản thể luận, tư tưởng nhận thức luận và vấn đề nhân sinh quan. 2.1. Tư tưởng của Albert Einstein về bản thể luận Trên thế giới, một số nhà lịch sử, nhà triết học, nhà nghiên cứu đã xem A.   Einstein là nhà triết học thông qua những công trình vật lý, những bài nói, những  bài viết cũng như ngay chính đời sống rất riêng tư và đặc biệt của ông. Tư tưởng  của A. Einstein về  bản thể  luận được thể  hiện thông qua những phát hiện và  quan điểm của ông về cấu trúc, hình thức tồn tại và sự thống nhất của thế giới   vật chất. 2.1.1. Quan điểm của Albert Einstein về cấu trúc của vật chất Cùng với những thành tựu đạt được trong vật lý học, hóa học, triết học  đầu thế kỷ XX, A. Einstein đã có những đóng góp dưới góc độ vật lý học và triết  học thông qua những quan điểm mới mẻ  về  cấu trúc của vật chất. Quan điểm  
  19. 19 của A. Einstein về cấu trúc của vật chất, theo chúng tôi thể  hiện  ở  hai vấn đề  nổi bật: bản chất của ánh sáng và mối quan hệ giữa khối lượng và năng lượng. Bằng quan niệm tính chất lưỡng tính của ánh sáng, bức tranh vật lý học  về thế giới của A. Einstein luôn mang tính tương đối và ông đã chỉ cho chúng ta   chỉ có một cái tuyệt đối đó là tốc độ ánh sáng. Mọi thứ khác đều nằm trong giới  hạn tốc độ  lớn nhất này. Với công thức E = mc2, thuyết tương đối hẹp của A.  Einstein đã mở ra một chân trời mới của khoa học có ý nghĩa triết học dưới góc  độ bản thể luận. Trên cơ sở các định luật về bảo toàn khối lượng và năng lượng,  mối quan hệ  giữa năng lượng và khối lượng đã góp phần khẳng định tính đúng   đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vật chất không sinh ra, cũng không mất   đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. 2.1.2. Quan điểm của Albert Einstein về không ­ thời gian   Không gian và thời gian hay các hình thức tồn tại của vật chất được  A.  Einstein trình bày trong  thuyết tương đối.  Tuy nhiên, vấn đề  lớn nhất của học  thuyết là tính chất cách mạng trong quan điểm của A. Einstein về không gian và  thời gian. Không gian của A. Einstein khác một cách sâu sắc với không gian của I.  Newton. Không gian I. Newton tĩnh và bất động. Đó chỉ là cái sân khấu thụ động   nơi diễn ra các tấn kịch của vũ trụ với diễn viên là các hành tinh, các ngôi sao và   các thiên hà.  Với quan điểm mới, A.  Einstein đã cho không gian một vai diễn.   Không gian đã vứt bỏ  tính thụ  động của mình và trở  nên động. Nó có thể  co,  giãn, biến dạng hoặc xoắn lại tùy theo lực hấp dẫn. Bản thể luận triết học trong   quan niệm về  các hình thức tồn tại của vật chất theo thuyết tương đối của A.  Einstein  ở tính chất mới mẻ và đúng đắn của nó: tính tương đối của không gian  và thời gian và một chiều mới do A. Einstein phát hiện: không ­ thời gian. 2.1.3. Quan điểm của Albert Einstein về sự thống nhất của thế giới Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx­Lenin, quan niệm về sự thống nhất  thế giới của A. Einstein thể  hiện tính duy vật và biện chứng.  Ông đã trực tiếp 
  20. 20 hoặc gián tiếp thừa nhận thế giới là vật chất, không do ai sáng tạo ra cũng không  thể  bị  tiêu diệt; tồn tại khách quan và độc lập với nhận thức của con người.   A.Einstein luôn đặt sự đa dạng trong thống nhất để nghiên cứu, nhận thức và ông   xem sự thống nhất có được dựa trên sự chi phối của các quy luật tự nhiên. Trong  một cuộc trò chuyện với R. Tagore vào năm 1930, A. Einstein đã nói: “Có hai khái  niệm khác nhau về  bản chất của vũ trụ: Thế  giới là một sự  hài hòa phụ  thuộc   vào   con  người.  Thế   giới  là   một   thực   thể   không  phụ   thuộc   vào   nhân   tố  con  người”. Quan niệm của  A.  Einstein cho thấy,  vũ trụ  luôn hài hòa vì cuộc sống  tươi đẹp của con người.  Mặt khác, thế  giới là một thực thể  độc lập với con   người; do vậy, vũ trụ  sẽ  không có chỗ  cho một Thượng đế  được sản sinh từ  cảm giác của con người chi phối mọi hoạt động.  2.2. Tư tưởng của Albert Einstein về nhận thức luận Khảo cứu về tư tưởng của A. Einstein, chúng ta nhận thấy rằng đối với  nhận thức luận, ông đã có những đóng góp giá trị  qua  thuyết thực tại  và  con   đường nhận thức thế giới khách quan. 2.2.1. Thuyết thực tại của Albert Einstein Với thuyết thực tại, A. Einstein quan niệm rằng  có một sự  thực tồn tại  độc lập với khả năng quan sát của chúng ta. Để nhận thức chân lý khách quan, A.  Einstein đã xuất phát từ thực tại vật lý, ông tin rằng mọi tri thức đạt được đều có  cơ  sở  khoa học và phải được kiểm chứng mà không chấp nhận bất kỳ sự ngẫu   nhiên, may rủi. Chân lý đạt được trong nhận thức của A. Einstein là phức hợp  của trực giác, lý tính và của cả  kinh nghiệm thực tiễn. Bằng trực giác và trải  nghiệm khoa học, coi trọng khả  năng thấu triệt của tư  duy lý tính, song ông   không  xem  thường  nhận  thức  kinh  nghiệm.   Nhận  thức  luận   của  A.  Einstein   không phải là chủ nghĩa duy lý hay chủ  nghĩa kinh nghiệm mà chính ông đã kết  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0