Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Ca Huế từ góc nhìn văn hóa học
lượt xem 4
download
Luận án thực hiện nghiên cứu với mục tiêu nhằm chỉ ra các tính chất văn hóa đặc trưng, giá trị văn hóa đặc trưng trong nghệ thuật Ca Huế, từ đó góp phần tìm hiểu, giới thiệu, bảo tồn, phát huy và phát triển nghệ thuật Ca Huế. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Ca Huế từ góc nhìn văn hóa học
- ĐẠI HỌCQUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *** TRẦN KIỀU LẠI THỦY VÕ THỊ THU THỦY CA HUẾ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC TP. HỒ CHÍ MINH 2015
- Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THẾ BẢO Phản biện độc lập: 1. 2. Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo, họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn , 10 12, Đinh Tiên Hoàng, Q.1, Tp. Hồ Chí Minh vào hồi ngày tháng năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư việnTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
- Thư viện Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Có một thể loại âm nhạc cổ truyền gắn liền với tổng thể văn hóa Huế, nơi một thời là kinh đô phồn thịnh của Việt Nam, đó là Ca Huế. Ca Huế là một trong ba thể loại âm nhạc thính phòng truyền thống tiêu biểu của Việt Nam. Nó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Trong Ca Huế, người ta thấy có sự giao lưu văn hóa giữa các nền văn hóa Việt, Chăm, Hoa qua quá trình tiếp xúc văn hóa dài lâu của ba nền văn hóa này trên dải đất miền Trung Việt Nam. Cho đến ngày nay, Ca Huế đã trở thành một trong các di sản văn hóa phi vật thể của Huế, gắn liền với cố đô Huế, một di sản văn hóa nhân loại được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận sớm nhất tại Việt Nam (năm 1993). Ca Huế cũng có mối liên hệ rất gần với hai di sản văn hóa phi vật thể khác đã được UNESCO công nhận, đó là Nhã nhạc cung đình Huế (được công nhận năm 2003) và ca nhạc Tài Tử Nam bộ (được công nhận năm 2013). Hiện nay, Ca Huế vẫn đang thường xuyên được khai thác, phát huy thành một “đặc sản” trong du lịch như một trong những “di sản sống” của Huế và của Việt Nam. Với những giá trị như vậy, nhưng ngày nay số lượng người hiểu tương đối tường tận về Ca Huế và thật sự yêu thích nó không nhiều. Chúng ta cần tiến hành nghiên cứu, phân tích, làm rõ các giá trị nghệ thuật và giá trị văn hóa của Ca Huế mới có thể kêu gọi mọi người yêu mến giữ gìn, phổ biến và phát triển loại hình nghệ thuật này một cách tốt nhất. 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tư liệu chữ nghiên cứu về Ca Huế cho đến nay có các dạng: sách nghiên cứu, giới thiệu, bài báo đăng trên các tạp chí, bài viết đăng trên mạng internet. Trong giới hạn các tư liệu tham khảo của luận án, tư liệu có đề cập đến vấn đề Ca Huế đa số là bàn về xuất xứ và đặc điểm âm nhạc của loại hình nghệ thuật này. Các tư liệu có thể được phân thành các loại như: Các tư liệu đề cập đến sự hình thành và phát triển của thể loại Ca Huế, các tư liệu nêu đặc điểm âm nhạc của Ca Huế, các tư liệu ghi chép, thống kê, phân loại bài bản Ca Huế, các tư liệu nói về tiểu sử của một số nghệ sĩ và tác giả Ca Huế. Lược qua các tư liệu như trên, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu về Ca Huế thường tập trung vào các vấn đề như: đặc điểm âm nhạc trong Ca Huế, sưu tầm bài bản, giới thiệu nghệ sĩ Ca Huế, tìm hiểu nguồn gốc Ca Huế, ảnh hưởng âm nhạc Chiêm Thành. Các vấn đề khác như các lớp văn hóa ảnh hưởng
- 2 đến Ca Huế, các giá trị văn hóa của Ca Huế, tính tổng hợp, tính nguyên hợp trong Ca Huế… ít được đề cập hoặc chưa được đi sâu tìm hiểu thấu đáo. 3.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Mục đích: chỉ ra các tính chất văn hóa đặc trưng, giá trị văn hóa đặc trưng trong nghệ thuật Ca Huế, từ đó góp phần tìm hiểu, giới thiệu, bảo tồn, phát huy và phát triển nghệ thuật Ca Huế. Đối tượng: Ca Huế được xem như một hiện tượng văn hóa nằm trong tổng thể văn hóa Huế. Đối tượng Ca Huế được nghiên cứu trong các mối liên hệ của nó với môi trường văn hóa xung quanh. Theo đó, luận án nghiên cứu các mối quan hệ giữa Ca Huế và văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam, các lớp văn hóa trong nghệ thuật Ca Huế, các tính chất và giá trị văn hóa của Ca Huế. Phạm vi: giới hạn phạm vi nghiên cứu trong không gian, thời gian và chủ thể. Trong sinh hoạt nghệ thuật Ca Huế, chủ thể gồm ba thành tố: người sáng tác, người biểu diễn và người thưởng thức Ca Huế. Về không gian, luận án giới hạn tìm hiểu hoạt động Ca Huế thực tế ở Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Với những tư liệu sưu tầm được, luận án xem xét Ca Huế trên trục thời gian từ khi bắt đầu xuất hiện nghệ thuật Ca Huế (khoảng cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII) đến hiện nay. 4.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Ý nghĩa khoa học: Ca Huế được nghiên cứu với tư cách một hiện tượng văn hóa, nằm trong tổng thể văn hóa Huế và văn hóa Việt Nam. Bằng cách nhìn này, chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu về các mối liên hệ giữa Ca Huế với môi trường văn hóa xung quanh. Đồng thời, cách nhìn như vậy sẽ cho thấy những nét đặc trưng, phân biệt Ca Huế với những loại hình nghệ thuật truyền thống khác. Luận án đã sưu tầm tư liệu từ nhiều nguồn, tổng hợp, cung cấp các thông tin nhằm làm rõ các tính chất, đặc điểm, giá trị của Ca Huế, góp phần làm rõ bản sắc văn hóa Huế. Trong phần trình bày tính chất của Ca Huế ở chương 2, luận án trình bày tính tổng hợp của Ca Huế, tính chất được tạo nên từ sự tổng hợp các yếu tố của những dòng văn hóa tồn tại trên đất Huế; song song đó, luận án trình bày tính nguyên hợp trong nghệ thuật Ca Huế, một trong những tính chất đặc trưng của văn hóa dân gian, cho thấy mối liên quan giữa Ca Huế với văn hóa dân gian Huế. Với các kết quả nghiên cứu này, luận án hy vọng bổ sung cho nguồn tư liệu nghiên cứu về Ca Huế theo hướng tiếp cận từ góc nhìn văn hóa học. Ý nghĩa thực tiễn: đóng góp những thông tin về tính chất văn hóa, giá trị văn hóa của nghệ thuật Ca Huế, cho độc giả cái nhìn sâu hơn, thấu hiểu hơn về
- 3 một nghệ thuật cổ truyền, một di sản quí báu của dân tộc. Những tư liệu nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần mở ra hướng đi đúng trong việc phục hồi, giới thiệu, bảo tồn, phát huy và phát triển nghệ thuật Ca Huế; tạo cơ sở lý luận cho việc điều chỉnh các hoạt động Ca Huế hiện nay. 5.Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu Luận án được tiến hành theo hướng nghiên cứu liên ngành, kết hợp phương pháp nghiên cứu của các ngành Văn hóa học và Âm nhạc học. Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận án là phương pháp hệ thống. Bên cạnh phương pháp hệ thống, luận án sử dụng phương pháp so sánh ảnh hưởng để chứng minh tính tổng hợp của thể loại Ca Huế. Luận án sử dụng phương pháp điền dã để so sánh các vấn đề cần nghiên cứu với thực tế sinh hoạt Ca Huế. Luận án nghiên cứu, tìm hiểu hiện tượng Ca Huế dựa trên các tư liệu tham khảo về: âm nhạc, âm nhạc Việt Nam, lịch sử âm nhạc Việt Nam, Ca Huế, các thể loại âm nhạc liên quan đến Ca Huế như: Ca Trù, âm nhạc cung đình, âm nhạc dân gian Bình Trị Thiên, ca nhạc Tài Tử Nam bộ. Bên cạnh đó luận án cũng sưu tầm, tham khảo các từ điển tiếng Việt, các tư liệu về Âm nhạc dân tộc học, Văn hóa học, Huế và văn hóa Huế, văn hóa Chăm… Các tư liệu này ở các dạng sách báo, các bài viết trên mạng internet, băng đĩa, thực tế sinh hoạt Ca Huế tại Huế và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 6.Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án được chia thành ba chương. Trong chương 1 “Cơ sở lý luận và thực tiễn” có phần cơ sở lý luận trình bày các góc nhìn để từ đó luận án tiến hành nghiên cứu và một số khái niệm thuật ngữ âm nhạc làm công cụ sử dụng trong luận án. Phần cơ sở thực tiễn trình bày những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển Ca Huế như chủ thể Ca Huế, không gian địa lý và không gian văn hóa Huế, quá trình hình thành và phát triển Ca Huế. Chương 2 “Đặc điểm văn hóa trong nghệ thuật Ca Huế”. Chương này trình bày các đặc điểm văn hóa Huế được tìm thấy trong thể loại Ca Huế như: tính tổng hợp và tính nguyên hợp trong Ca Huế, tính bác học cung đình. Chương 3 “Giá trị và vấn đề bảo tồn Ca Huế”. Các giá trị của Ca Huế được trình bày trong chương 3 gồm có: giá trị nhân sinh, giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử xã hội. Phần trình bày về bảo tồn Ca Huế đề cập đến 3 vấn đề cần bảo tồn trong nghệ thuật Ca Huế là: sáng tác, biểu diễn, truyền thụ. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- 4 1.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1.Một số thuật ngữ âm nhạc Một số thuật ngữ âm nhạc sẽ được trình bày để làm khái niệm công cụ sử dụng trong quá trình nghiên cứu và trình bày các chương sau của luận án. Âm nhạc dân gian là các thể loại âm nhạc được người dân sáng tạo qua các thời kỳ lịch sử, gắn bó với sinh hoạt đời sống hàng ngày của người dân, thường không có tên tác giả và có thể được nhiều người sửa chữa lại nhiều lần, sáng tạo thành nhiều dị bản. Âm nhạc cung đình được thiết lập ở từng quốc gia sau khi có chế độ phong kiến. Triều đình, vua chúa các nước cho xây dựng hệ thống âm nhạc cung đình để phục vụ các nghi lễ và các dịp giải trí, yến tiệc trong cung. Âm nhạc cung đình thường được xem là nền âm nhạc chuyên nghiệp, có tổ chức với những ca công, nhạc công điêu luyện, với hệ thống bài bản chặt chẽ. Âm nhạc truyền thống có thể hiểu là nền âm nhạc gồm những thể loại âm nhạc được nhân dân gìn giữ, phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử. Tương ứng với khái niệm âm nhạc truyền thống là khái niệm âm nhạc đương đại. Âm nhạc đương đại được hiểu là các thể loại âm nhạc đang được lưu hành trong đời sống xã hội hiện tại ở mỗi quốc gia, dân tộc. Âm nhạc thính phòng nói chung là hình thức biểu diễn âm nhạc trong một khán phòng nhỏ, âm lượng nhạc cụ và giọng ca vừa phải, số lượng người diễn ít. Tại Việt Nam có hai loại âm nhạc thính phòng khác nhau là âm nhạc thính phòng kiểu châu Âu cổ điển và âm nhạc thính phòng truyền thống dân tộc. Âm nhạc thính phòng truyền thống Việt Nam sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc đặc trưng của từng vùng miền khác nhau. Hình thức diễn xướng, sự bố trí nơi diễn xướng cũng khác nhau tuỳ theo tính chất và thói quen diễn xướng âm nhạc thính phòng truyền thống của từng vùng miền. Âm nhạc thính phòng truyền thống Việt Nam có thể kể ba thể loại phổ biến nhất và có qui củ, lề lối nhất là Ca Trù ở miền Bắc, Ca Huế ở miền Trung và ca nhạc Tài Tử ở miền Nam. Nghệ thuật âm nhạc cũng như các ngành nghệ thuật và khoa học khác, cũng có khoa học nghiên cứu về nó. Một trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng là Âm nhạc dân tộc học (Ethnomusicology). Vậy đối tượng nghiên cứu của Âm nhạc dân tộc học là gì? Mục đích nghiên cứu? Phạm vi nghiên cứu? Phương pháp nghiên cứu? Âm nhạc dân tộc học (Dân tộc nhạc học) là một chuyên ngành thuộc loại nghiên cứu liên ngành. Những ngành học gần nhất có thể là Dân tộc học,
- 5 Âm nhạc học, Nhân học, Văn hóa học. Đối tượng nghiên cứu chính của Âm nhạc dân tộc học là âm nhạc và các hiện tượng âm nhạc. Tuy nhiên, về phạm vi nghiên cứu của Âm nhạc dân tộc học có nhiều ý kiến khác nhau. Mục đích ban đầu của các nhà nghiên cứu Âm nhạc dân tộc học châu Âu là để tìm hiểu những nền âm nhạc xa lạ ngoài châu Âu. Cho đến nay, mục đích nghiên cứu đã mở rộng. Nhà nghiên cứu Bùi Huyền Nga đề cập trong bài viết của mình bốn ý cần nhấn mạnh trong mục đích nghiên cứu của Âm nhạc dân tộc học là: tìm hiểu, bảo tồn, phát huy, giới thiệu các di sản văn hóa âm nhạc. Nhà nghiên cứu Tô Ngọc Thanh cho biết “điền dã là phương pháp cần thiết và tốt nhất cho việc thu thập tư liệu…”. Nhà nghiên cứu Âm nhạc dân tộc học cần có những kỹ năng sử dụng các loại máy chụp hình, ghi âm…, kỹ năng xử lý tư liệu sưu tầm, những kiến thức về Âm nhạc học, Văn hoá học. Hơn nữa, Âm nhạc dân tộc học không nghiên cứu âm nhạc như một đối tượng tách biệt mà nghiên cứu âm nhạc trong môi trường xã hội. Vì vậy, hướng nghiên cứu liên ngành là cần thiết. Luận án vận dụng Âm nhạc dân tộc học như một công cụ nghiên cứu nghệ thuật Ca Huế để thông qua đó tìm hiểu những giá trị văn hóa của Ca Huế. 1.1.2.Góc nhìn hệ thống Từ góc nhìn hệ thống, chúng ta có thể đặt âm nhạc trong hệ thống các mối quan hệ với môi trường văn hóa xung quanh, từ đó nghiên cứu âm nhạc trong các mối quan hệ này, không tách riêng chỉ nghiên cứu âm nhạc như một hiện tượng độc lập. Đây là phương pháp nghiên cứu có trong cả hai chuyên ngành Văn hóa học và Âm nhạc dân tộc học. Âm nhạc là một trong các thành tố quan trọng của văn hóa. Âm nhạc của mỗi dân tộc, mỗi địa phương góp phần thể hiện đặc điểm văn hoá của dân tộc, địa phương đó. Truyền thống âm nhạc, thị hiếu âm nhạc, đặc điểm sinh hoạt âm nhạc của một nơi phản ánh một phần quan trọng đời sống văn hoá của nơi đó. Khi nghiên cứu, tìm hiểu các thể loại âm nhạc của một dân tộc, chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào đặc điểm văn hóa của dân tộc đó phản ánh qua giai điệu, tiết tấu âm nhạc, qua lời ca, qua nhạc cụ, trang phục trình diễn, động tác múa… và ý nghĩa văn hóa đằng sau những yếu tố âm nhạc đó (nguồn gốc, những truyền thuyết, ngụ ý, niềm tin tôn giáo, biểu tượng…). Âm nhạc phản ánh các yếu tố đặc trưng của một nền văn hóa. Ngược lại, khi nghiên cứu các đặc điểm chung của một nền văn hóa, tìm hiểu trình độ văn minh của một xã hội người trong một giai đoạn lịch sử, chúng ta cũng có thể hình dung được phần nào đặc điểm âm nhạc của xã hội đó. Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con người, nhất là trong đời sống tinh thần. Âm nhạc tham gia vào rất nhiều loại hình văn hóa khác nhau như: nghi lễ, giải trí, thể dục thể thao, quảng cáo, phim ảnh, kịch nghệ… Song song đó, các yếu tố văn hóa trong
- 6 môi trường xung quanh cũng gây ảnh hưởng đến âm nhạc, góp phần định hình và biến đổi âm nhạc ở những mức độ khác nhau. Ca Huế nằm trong hệ thống văn hóa Huế, là một thành tố của văn hóa Huế, chịu ảnh hưởng các yếu tố văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, lịch sử, xã hội… của Huế. Đồng thời các đặc điểm của Ca Huế cũng góp phần trong việc hình thành bản sắc đặc trưng của văn hóa Huế nói chung. Ca Huế có thể được kể là một trong những di sản phi vật thể của xứ Huế cùng với các di sản khác đã được công nhận và chưa được công nhận. Từ góc nhìn hệ thống, chúng ta có thể thấy sự nối kết giữa Ca Huế với âm nhạc cung đình và âm nhạc dân gian Huế, sự nối kết giữa các yếu tố văn hóa Việt, Chăm, Trung Hoa trong Ca Huế, mối liên hệ giữa ngôn ngữ, phong cách sống của người Huế… với tác phẩm Ca Huế và phong cách trình diễn Ca Huế. Từ đó luận án có thể nghiên cứu đặc điểm và tính chất của các mối quan hệ này. 1.1.3.Góc nhìn văn hóa so sánh kết hợp địa văn hóa và sử văn hóa So sánh vừa là thao tác, vừa là phương pháp nghiên cứu, vừa là một chuyên ngành trong Văn hóa học. Thao tác so sánh được sử dụng ở luận án này trong việc so sánh các thể loại âm nhạc thính phòng dân tộc Việt Nam với nhau (Ca Trù, Ca Huế, ca nhạc Tài Tử Nam bộ) để thấy rõ thêm nét đặc trưng của thể loại Ca Huế và mối dây liên hệ giữa Ca Huế và các thể loại âm nhạc thính phòng dân tộc khác. Luận án chủ yếu sử dụng kiểu nghiên cứu so sánh ảnh hưởng. Văn hóa Việt Nam nói chung có mang ảnh hưởng các yếu tố văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Riêng trong thể loại Ca Huế, ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ chủ yếu thông qua một nền văn hóa trung gian có mặt tại miền Trung Việt Nam là văn hóa Chăm. Dưới tác động của quá trình lịch sử, xã hội và môi trường sinh thái, luận án nghiên cứu so sánh chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng văn hóa Chăm và văn hóa Trung Hoa trong Ca Huế. Bên cạnh so sánh ảnh hưởng, luận án cũng sử dụng kiểu so sánh lịch đại để thấy sự biến thiên của nghệ thuật Ca Huế qua thời gian có mối liên hệ với nhu cầu sinh hoạt và thưởng thức Ca Huế khác nhau qua từng thời kỳ. Do nghiên cứu Ca Huế được trình bày trong một quá trình lịch sử và trong một môi trường sinh thái nhất định nên sự nghiên cứu so sánh phải kết hợp với góc nhìn địa văn hóa và sử văn hóa. Góc nhìn địa văn hóa vận dụng lý thuyết vùng văn hóa. Trong trường hợp cụ thể là nghiên cứu Ca Huế, khi đặt thể loại Ca Huế trong vùng không gian cụ thể là không gian Huế, chúng ta có thể nghiên cứu các đặc điểm của thể loại Ca Huế trong mối liên quan với đặc điểm văn hóa Huế và con người Huế. Qua đó nhận diện dấu ấn văn hóa Huế trong thể loại Ca Huế. Mặt khác, thể loại Ca Huế đã có quá trình hình thành và phát triển
- 7 trên 200 năm nên khi nghiên cứu Ca Huế, chúng ta phải kết hợp góc nhìn địa văn hóa và sử văn hóa để xem xét Ca Huế một cách toàn diện hơn. Sự hình thành và phát triển qua từng giai đoạn của nghệ thuật Ca Huế chịu sự tác động của các yếu tố lịch sử xã hội Việt Nam nói chung và Huế nói riêng. Nghiên cứu Ca Huế từ góc nhìn sử văn hóa có thể cho thấy sự tồn tại và tác động của những vận động văn hóa, sự giao thoa, tương tác, giao lưu tiếp biến… giữa các dòng văn hóa khác nhau tại Huế dẫn đến kết quả hình thành những đặc điểm văn hóa trong Ca Huế. 1.2.CHỦ THỂ CỦA CA HUẾ Chủ thể của Ca Huế gồm ba thành tố: người sáng tác, người biểu diễn và người thưởng thức. Theo từng giai đoạn phát triển của nghệ thuật Ca Huế, ba thành tố này có thể được phân ra cho ba đối tượng người khác nhau hoặc chỉ hai hay một đối tượng. Xuất thân, địa vị trong xã hội, tri thức… của chủ thể Ca Huế có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất, nội dung, hình thức trình diễn, mục đích trình diễn… của Ca Huế. Trong thời kỳ hình thành, những người sáng tạo ra đồng thời cũng là những người thưởng thức nghệ thuật Ca Huế chính là giới quí tộc cung đình. Quen với những sinh hoạt và nghi lễ trong cung, các nghệ sĩ quí tộc cung đình này đều có phong thái nhã nhặn, từ tốn, trang nghiêm, tề chỉnh. Âm nhạc của họ sáng tạo ra cũng có nhịp độ khoan thai, giai điệu thong thả, diễn đạt chân phương, rõ ràng. Thời kỳ triều đình thoái hóa, nghệ thuật Ca Huế bắt đầu quá trình dân gian hóa. Tuy nhiên, dân gian ở đây không phải là sự gần gũi với tầng lớp nhân dân lao động, mà là sự hòa hợp giữa cung đình và giới sĩ phu trong dân chúng có lối sống, cốt cách gần với những người trong cung. Vì thế trong quá trình dân gian hóa, Ca Huế vẫn giữ phong thái trang nhã, đài các, lãng mạn. Thời này bắt đầu có sự phân hóa thành người sáng tác, người diễn và người thưởng thức là những đối tượng khác nhau. Thời kỳ triều đình nhà Nguyễn đã sụp đổ (sau năm 1945), nghệ nhân Ca Huế chỉ còn là các nghệ nhân dân gian, không còn giai cấp quí tộc cung đình nữa. Các cô đầu ca Huế phân hóa thành hai hạng người khác nhau: nghệ sĩ chân chính và người phục vụ Ca Huế kiêm gái làng chơi. Người thưởng thức Ca Huế bấy giờ cũng phân thành nhiều loại: khách tri âm, khách du lịch đến Huế, khách mượn cớ nghe Ca Huế tìm thú vui trụy lạc. Sau năm 1975, Ca Huế có một thời kỳ xuống dốc. Gần đây, nhờ chủ trương khôi phục và bảo tồn vốn cổ của nhà nước, nhờ có dịch vụ du lịch Huế phát triển, mà Ca Huế là một phần trong các dịch vụ đó, số lượng người tham gia học và theo nghề Ca Huế dần nhiều lên. Các nghệ sĩ Ca Huế ngày nay là
- 8 những nghệ nhân hát và sử dụng nhạc cụ lão luyện, lâu năm, đồng thời có các nghệ sĩ trẻ được đào tạo tại các trường âm nhạc chuyên nghiệp hoặc tại các lớp Ca Huế tư gia của các nghệ nhân. 1.3.KHÔNG GIAN ĐỊA LÝ HUẾ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ Không gian địa lý Huế và không gian văn hóa Huế là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành nên đặc tính của thể loại Ca Huế. Đây cũng là nơi nuôi dưỡng Ca Huế, môi trường cho Ca Huế tồn tại và phát triển đến ngày nay. Trong mục này, chúng tôi chỉ hạn chế ở việc trình bày những yếu tố thuộc về không gian địa lý Huế và không gian văn hóa Huế có liên quan, ảnh hưởng đến nghệ thuật Ca Huế. Mặc dù thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt, Huế lại là một vùng sông núi hữu tình. Con sông Hương trong vắt, dài 33km chảy uốn lượn ngang qua thành phố Huế, mang theo hương thơm của thảo mộc núi rừng, là một thắng cảnh tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho Huế. Cuối con sông là phá Tam Giang mênh mông sóng nước và bãi biển Thuận An cát trắng. Tiền án của kinh thành Huế là núi Ngự Bình, hai bên có Tả Phù Sơn và Hữu Bật Sơn như phượng hoàng xoè cánh tạo thế đất phong thuỷ tốt. Phong cảnh thơ mộng của sông Hương núi Ngự đã làm hao tốn bao nhiêu bút mực của các thi nhân, văn sĩ. Trong thành phố Huế, cây xanh rất nhiều đan xen với nhà cửa. Nhà vườn Huế là nét đặc trưng trong kiến trúc nhà dân gian ở Huế. Huế còn có rất nhiều chùa chiền chứng tỏ người dân Huế rất mộ đạo Phật. Có lẽ một trong những lý do các nghệ sĩ Ca Huế luôn giữ được phong cách sang trọng, quí tộc là vì họ được sống trong không gian bao bọc bởi nhiều thành quách, lăng tẩm, phủ đệ của các vị đế vương nhà Nguyễn ngày xưa. Huế là kinh đô của triều đình phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Vì vậy, nơi đây tập trung những đặc điểm văn hóa cung đình của các triều đại vua chúa trước. Tuy bị tàn phá nặng nề qua chiến tranh và thời tiết hạn hán, bão lũ hàng năm, kinh thành Huế vẫn là một tổng thể kiến trúc cung đình có qui mô lớn nhất, còn lại duy nhất củaViệt Nam. Trung tâm văn hóa Huế bắt đầu được hình thành từ khi các chúa Nguyễn chọn nơi đây làm nơi đóng đô. Sự hình thành trung tâm văn hoá Huế dựa vào những thuận lợi về chính trị và phong cảnh thiên nhiên hữu tình. Triều đình các chúa Nguyễn và vua Nguyễn tập trung ở Huế, thường xuyên tổ chức các cuộc thi tuyển nhân tài ra làm quan giúp nước. Một số khá đông các gia đình giàu có, khá giả cũng theo về sống xung quanh khu vực hoàng cung. Các lễ hội cung đình và dân gian thường xuyên diễn ra. Nhờ đó, nhân tài ở đủ mọi ngành nghề khắp nơi hội tụ về Huế ngày càng đông. Dần dần, lớp người tinh hoa của xã
- 9 hội này đã làm cho bộ mặt văn hóa Huế thay đổi, phát triển nhanh chóng. Ở Huế có sự bố trí nơi ở của các tầng lớp dân cư khá đặc biệt. Dân cư Huế đều sống bao quanh hoàng thành (nơi ở và làm việc của vua và hoàng tộc). Phía ngoài thành, gần như không có khoảng cách rõ rệt giữa nơi ở của dân thường và các vị quí tộc, quan lại. Kiểu bố trí này làm cho các sinh hoạt trong đời sống của quí tộc cung đình và dân chúng Huế dễ dàng ảnh hưởng lẫn nhau. Cho đến ngày nay, sau khi triều đình nhà Nguyễn đã chấm dứt hàng nửa thế kỷ, phong cách quyền quí, tao nhã của người dân Huế vẫn còn lưu giữ đậm nét. Đồng thời với sự lan toả phong cách sống của cung đình ra ngoài dân gian là sự tác động lại ít nhiều của văn hóa dân gian vào chốn cung đình. Kết cấu dân cư và văn hóa ở Huế không chỉ có dân tộc Việt và văn hóa Việt. Tại đây còn có sự hiện diện của dân cư và nền văn hóa của các tộc dân như: Chăm, Hoa, Vân Kiều, Tà Ôi, Bru, Chứt, Hoa. Sự hội nhập để chung sống nhiều năm, nhiều thế hệ giữa các dân tộc khác nhau tại Huế đã tạo nên tính tổng hợp trong văn hóa Huế với văn hóa Việt là chủ đạo. Tính chất này cũng là một trong những đặc tính của Ca Huế. Trong môi trường văn hóa kinh đô Huế tồn tại hai loại nhạc truyền thống là nhạc cung đình và nhạc dân gian. Dân ca Huế hầu như tương tự dân ca của vùng Bình Trị Thiên nói chung tức là cũng có các thể loại như: Hò, Lý, Hát ru, Vè… trong đó quan trọng nhất là thể loại Hò. Âm nhạc cung đình Huế kế thừa âm nhạc cung đình triều hậu Lê, gồm có nhạc lễ, nhạc giải trí trong các buổi yến tiệc và trong nội cung của các công nương, hậu, phi. Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng điển hình ở Huế, là cầu nối giữa âm nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Nó vừa thoả mãn nhu cầu thưởng thức cao của giới quí tộc, vừa được dân chúng Huế yêu quí, nâng niu, giữ gìn. Ngoài Huế ra, trên đất nước Việt Nam, không gian văn hoá Huế còn tồn tại ở các vùng miền khác, nơi có các nhóm người Huế đang sinh sống. Từ những triều vua Nguyễn cuối cùng, bắt đầu có những cuộc di cư đông đảo của người Huế vào miền Nam. Đến khi triều đình nhà Nguyễn sụp đổ, làn sóng người Huế di cư vô Nam ngày càng nhiều, trong đó, nơi tập trung nhiều người Huế nhất là Sài Gòn (sau này là Thành phố Hồ Chí Minh). Có thể nói môi trường Thành phố Hồ Chí Minh không phải là “miền đất hứa” cho nghệ thuật Ca Huế phát triển theo kiểu Huế truyền thống. Không khí tấp nập, ồn ào, nhà cửa san sát, sông ngòi đục màu phù sa khó gợi lên được loại cảm hứng thần tiên, thoát tục trong Ca Huế. 1.4.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CA HUẾ 1.4.1.Giai đoạn hình thành đến giữa thế kỷ XIX
- 10 Thời điểm khởi đầu của Ca Huế là từ khi nào chưa có tư liệu nào nói rõ. Một trong những tư liệu phỏng đoán thời điểm ra đời sớm nhất của Ca Huế là tư liệu của ông Thái Văn Kiểm dẫn lời ông Ưng Bình Thúc Giạ cho biết Ca Huế có thể bắt đầu xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Sang đầu thế kỷ XIX, Ca Huế thực sự thành hình. Thời này có một số bài bản từ Tế nhạc cung đình như: Long ngâm, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ... được đưa vào Ca Huế. Bên cạnh đó có một số tác phẩm mới được sáng tác. Giai đoạn trước tác nhiều bài bản nhất cho Ca Huế được ghi nhận là thời vua Tự Đức (18481882). Nửa sau thế kỷ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, âm nhạc cung đình ngày càng suy yếu. Riêng có Ca Huế được các nghệ nhân gìn giữ, nhất là những nghệ nhân trong dân gian. Các nghệ nhân xây dựng hệ thống bài bản kinh điển cho nghệ thuật Ca Huế gồm các bài bản theo “hơi” Bắc, Ai, Dựng với những chuẩn mực v ề nh ịp phách, giai điệu, qui định thứ tự bài bản… rất đặc thù của Ca Huế. Các bài bản không chỉ lưu truyền theo kiểu truyền ngón, truyền miệng như các thể loại âm nhạc dân gian, mà nó còn được ghi chép thành sách, chứng tỏ tính bác học của thể loại này. Hệ thống các bài bản Ca Huế kinh điển gần như dừng lại ở đây về đường nét giai điệu chính. Những bài bản về sau chỉ là sự thay đổi lời ca và sự kết hợp các bài kinh điển với những bài dân ca. 1.4.2.Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 Có lẽ từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi, các điệu Hò, điệu Lý dân gian dần dần thâm nhập vào Ca Huế. Nhiều bài bản kinh điển trong Ca Huế có sự kết hợp rất nhuần nhuyễn với các làn điệu dân ca miền Trung như Hò mái nhì, Lý tử vi, Lý con sáo... Cho đến đầu thế kỷ XX, Ca Huế là một sinh hoạt đặc biệt được ưa thích ở Huế. Về sáng tác lời cho Ca Huế, những thập niên đầu thế kỷ XX đã có một đội ngũ hùng hậu gồm những thi nhân, văn nhân tài danh. Hầu hết tác phẩm Ca Huế mới trong thế kỷ XX chỉ là sự ghép lời mới vào giai điệu cổ. Tuy nhiên, có một bài kinh điển thuộc điệu Nam trong Ca Huế được ra đời vào thập niên 30 của thế kỷ XX là bài Tương tư khúc, tương truyền do ông Bửu Bác sáng tác. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, từ chiếc nôi quê hương Huế, theo chân các nghệ nhân cung đình và dân gian, Ca Huế đi dần vào phía Nam nước Việt. Qua mỗi chặng dừng chân, nó lại xuất hiện với một sự biến đổi khác nhau. Đến xứ Quảng, Ca Huế có “dị bản” là thể loại Đờn Quảng. Vào đất Nam bộ, nó phát triển rộng rãi và mạnh mẽ thành thể loại đờn ca Tài Tử. 1.4.3.Giai đoạn năm 1945 đến 1977
- 11 Năm 1945, khi chế độ phong kiến nhà Nguyễn sụp đổ, Ca Huế theo kiểu kinh điển như thời kỳ đầu cũng bắt đầu bước đường suy thoái. Tuy nhiên, Ca Huế kịp thời hòa nhập với âm nhạc trong dân chúng một cách sâu rộng từ thời kỳ trước đó, nên nó vẫn được nhân dân bảo tồn và phát triển theo hướng dân gian hóa. Các nghệ nhân cung đình ra ngoài dân gian ngày càng nhiều. Số lượng nghệ nhân dân gian phát triển ngày càng đông đảo. Các làn điệu Ca Huế mang tính kinh điển như Tứ đại cảnh, Nam ai, Nam bình, Nam xuân, Phú lục, Cổ bản... vẫn giữ nguyên những đường nét giai điệu chính. Nhưng các nghệ sĩ đã đặt một số lời mới cho các bài bản này. Lời mới của các bài bản này đã kết hợp được dòng văn chương bác học Hán Nôm với dòng văn học dân gian. Vì thế tác phẩm vừa mang tính chuyên nghiệp, vừa dễ hiểu, dễ phổ biến. Thời kỳ này đánh dấu giai đoạn sân khấu hóa Ca Huế. Khoảng thập niên 30, Ca kịch Huế ra đời dựa trên cơ sở Ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên. Một số ban Ca Huế cũng được thành lập. Năm 1962, Hội Ái hữu cổ nhạc miền Trung ra đời, là tiền thân Hội Ca nhạc truyền thống Huế ngày nay. Từ đó, hằng năm cứ vào ngày 16 tháng 10 âm lịch, tại Cổ nhạc từ, nơi thờ tự những người giỏi về âm nhạc truyền thống dân tộc, thường diễn ra các nghi lễ cổ truyền và các sinh hoạt đàn ca Huế. Sang thập niên 70 80 của thế kỷ XX có lẽ là thời kỳ khó khăn nhất của Ca Huế. Đất nước vừa trải qua chiến tranh, đang phải lo ổn định cuộc sống. Nghệ thuật Ca Huế gần như bị bỏ quên. 1.4.4.Giai đoạn năm 1977 đến nay Ngày 12 tháng 11 năm 1977, Đại hội ca nhạc Huế lần thứ nhất được tổ chức đã góp phần tôn vinh nghệ thuật ca nhạc Huế và khơi dậy hoạt động của nghệ thuật này. Đến sau năm 1985, trên sông Hương, người ta lại nghe tiếng đàn, phách quen thuộc của Ca Huế. Thời gian gần đây, Ca Huế được đưa vào phục vụ du lịch. Hình thức thường thấy nhất là biểu diễn Ca Huế phục vụ khách du lịch trên du thuyền sông Hương. Các tiết mục Ca Huế được giới thiệu trên đài truyền hình, đài phát thanh, được thu thành băng đĩa phổ biến trong quần chúng. Hoạt động của các đoàn Ca huế và Câu lạc bộ Ca Huế cũng góp phần gìn giữ và phát triển loại hình nghệ thuật Ca Huế một cách hữu hiệu. Về Ca kịch Huế, đoàn Ca kịch Trị Thiên trước đây, nay trở thành Nhà hát nghệ thuật Ca kịch Huế do nghệ sĩ Ngọc Bình làm trưởng đoàn. Qua hơn 50 năm hoạt động, nhà hát đã đạt nhiều thành công. Đoàn đã có 17 nghệ sĩ được nhà nước phong tặng các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú. Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay chỉ còn Câu lạc bộ Ca Huế Phú Xuân là vẫn hoạt động thường xuyên, tập luyện Ca Huế chủ yếu để biểu diễn trên sân khấu, biểu diễn ở các lễ hội, trên các
- 12 phương tiện truyền hình, truyền thanh, không sử dụng âm thanh tự nhiên mà có hệ thống khếch âm. Về việc truyền thụ Ca Huế, Học viện Âm nhạc Huế, trường Văn hoá nghệ thuật tỉnh Thừa ThiênHuế là nơi giảng dạy chuyên nghiệp về âm nhạc nói chung, trong đó có Ca Huế. Ngoài ra, tại Huế còn có các lớp Ca Huế tại gia của các nghệ nhân Ca Huế. Công việc nghiên cứu để bảo tồn và phát triển Ca Huế cũng được chú ý. Người ta thấy xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu không chuyên và chuyên nghiệp về lĩnh vực này. Vậy chúng ta thấy giai đoạn từ sau 1985 cho đến nay, nhìn chung Ca Huế đã dần được phục hồi và phát triển so với giai đoạn trước trên nhiều mặt: sinh hoạt câu lạc bộ tại tư gia và các nhà văn hóa, biểu diễn, phổ biến đại chúng, nghiên cứu, đào tạo... CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA TRONG NGHỆ THUẬT CA HUẾ 2.1.TÍNH TỔNG HỢP VÀ NGUYÊN HỢP TRONG CA HUẾ 2.1.1.Tính tổng hợp Do các điều kiện về lịch sử xã hội và điều kiện địa lý như đã nêu ở các phần trên, văn hóa Huế hàm chứa tính tổng hợp riêng của vùng đất này. Tính tổng hợp được tạo thành trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa dân cư bản địa và các luồng dân cư từ nơi khác đến Huế. Vùng đất Bình Trị Thiên nói chung và Huế nói riêng có hai dân tộc bản địa là người Việt và người Chăm. Ngoài ra do sự tiếp xúc lâu đời với Trung Hoa, trong văn hóa người Việt cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Vậy các dòng văn hóa Việt, Chăm, Hoa là ba thành phần chính hình thành văn hóa miền Trung Việt Nam nói chung và Huế nói riêng. Với tư cách là dòng văn hóa chủ thể, văn hóa Việt tại Huế đã tiếp thu, tổng hợp các yếu tố của các dòng văn hóa khác, hòa quyện cùng văn hóa Việt để tạo nên bản sắc đặc trưng trong văn hóa Huế. Điều này được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống văn hóa Huế. 2.1.1.1.Yếu tố văn hóa Việt (văn hóa chủ thể) Xem xét nghệ thuật Ca Huế, chúng ta thấy lúc khởi đầu, nghệ thuật này được các nghệ sĩ cung đình chuyên về nhạc cụ sáng tác. Vậy lẽ ra nó phải phát triển theo hướng khí nhạc. Nhưng càng về sau, khuynh hướng “ca” lại ngày càng phát triển. Có lẽ đó cũng là sự phát triển theo khuynh hướng chung của âm nhạc dân gian người Việt, phát triển nhạc hát là chính. Một thói quen của các nhà sáng tác Ca Huế rất giống với truyền thống âm nhạc dân gian là ghép nhiều lời ca với nhiều nội dung khác nhau vào cùng một giai điệu Ca Huế. Qua nhiều
- 13 thời kỳ khác nhau, nội dung lời của các bài Ca Huế có thể thay đổi, phản ánh hiện thực xã hội và tâm tư, tình cảm người đương thời. Một trong những phương cách đấu tranh để tồn tại và tự khẳng định mình là người Việt thường tiếp thu tinh hoa văn hóa từ các nguồn khác nhau một cách có chọn lọc, rồi sáng tạo ra cái mới thích hợp với mình và mang đặc trưng bản sắc Việt Nam. Đặc điểm này cũng được thể hiện trong quá trình sáng tạo thể loại Ca Huế. Trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt, các nghệ sĩ Ca Huế đã tiếp thu có sáng tạo các yếu tố văn hóa Chăm và Hoa, tổng hợp thành chất đặc trưng cho Ca Huế. 2.1.1.2.Yếu tố văn hóa Chăm Vùng đất Bình Trị Thiên một thời thuộc quyền của vương quốc Chiêm Thành. Vì vậy dân tộc Chăm (có gốc là người vương quốc Chiêm Thành xưa) cũng là một trong những tộc dân bản địa lâu đời tại đây. Nền văn hóa Chăm ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa địa phương Huế nói riêng và Bình Trị Thiên nói chung. Ngữ điệu đặc biệt của người Bình Trị Thiên nói chung và Huế nói riêng, được hình thành từ sự giao thoa giữa ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Chăm như đã trình bày ở trên. Từ đó giai điệu ca Huế ra đời mang một chất riêng đặc thù, phân biệt rõ với giai điệu âm nhạc các vùng còn lại trong nước. Về thang âm điệu thức, chúng tôi đã khảo sát và tự ghi lại một số thang âm của người Chăm dựa vào tư liệu đĩa Dân ca Chăm của Viện Âm Nhạc ghi lại dân ca của người Chăm ở vùng Ninh Thuận, phía Nam Trung bộ. Qua đó, chúng tôi nhận thấy điệu Nam hơi Ai (điệu thức đặc trưng Bình Trị Thiên) có rất nhiều điểm tương đồng với một trong những điệu thức của người Chăm là thang âm điệu thức Chăn B mà chúng tôi đã ghi lại. Điều này cho phép chúng ta có sự suy đoán có thể có sự giao thoa văn hóa Chăm – Việt trong sự hình thành điệu thức Nam hơi Ai. Mặt khác, một thang âm của Phạm Duy nêu trong tư liệu của ông được ghi nhận là giống thang âm Bắc của người Việt, cũng có nghĩa là giống thang âm điệu thức Bắc trong Ca Huế. Đây lại là một nét tương đồng khác giữa âm nhạc Chăm và âm nhạc Việt. Trong lời ca một số bài Ca Huế có những từ dùng của địa phương như mô, tê, răng, rứa, ni, ri, tề… So sánh với ngữ nghĩa các từ tương tự của dân tộc Chăm, chúng ta có thể suy đoán nguồn gốc các từ này xuất phát từ ngôn ngữ Chăm. Vậy người Việt ở Huế đã vay mượn các từ ngữ Chăm trong ngôn ngữ hàng ngày và từ đó đưa vào các bài Ca Huế, góp phần tạo nét đặc trưng cho Ca Huế nói riêng và âm nhạc truyền thống miền Trung Việt Nam nói chung.
- 14 Trong hoàn cảnh nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cả nước bị thực dân Pháp đô hộ, tâm tư, tình cảm của các sĩ phu, quí tộc yêu nước bấy giờ có những điểm tương đồng với tâm tư vong quốc của dân tộc Chăm. Vì vậy giới sĩ phu thường phổ lời ca vào các giai điệu Ca Huế theo điệu Nam hơi Ai để gửi gắm tấm lòng yêu nước và nỗi buồn mất nước. Vậy hoàn cảnh lịch sử có yếu tố tương đồng giữa dân tộc Chăm và dân tộc Việt, mặc dù ở hai thời điểm khác nhau, cũng tạo nên mối tương đồng trong cảm xúc âm nhạc. 2.1.1.3.Yếu tố văn hóa Trung Hoa Nước Việt Nam suốt mấy nghìn năm sống bên cạnh một quốc gia khổng lồ, một cường quốc văn hoá ở châu Á là Trung Quốc. Cũng suốt mấy nghìn năm đó, Việt Nam luôn bị Trung Quốc xâm lấn và đe doạ xâm lấn bờ cõi. Vậy văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Trung Hoa là điều dễ hiểu. Người Việt tiếp nhận văn hóa Trung Hoa vừa theo kiểu bị cưỡng bức tiếp nhận, vừa theo kiểu tự nguyện tiếp nhận. Các yếu tố văn hóa Trung Hoa được mang vào nghệ thuật Ca Huế thông qua con đường chuyển giao chính là hệ thống âm nhạc cung đình Huế. Từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy trong lời của nhiều bài Ca Huế thường có các nội dung tình tứ, mơ mộng, đề cao cuộc sống ẩn dật, thoát tục, tránh xa thế sự nhiễu nhương. Đây có thể là tư tưởng ảnh hưởng Đạo giáo của các trí thức, quan lại cuối thời nhà Nguyễn, phản ứng tiêu cực trước cảnh đất nước mất vào tay giặc Pháp, lui về ở ẩn, vui thú điền viên. Ca Huế xuất phát từ cung đình nhà Nguyễn. Vua quan, trí thức thời nhà Nguyễn đều là các nhà Nho, vì vậy lời của các bài bản Ca Huế đầu tiên đều được sáng tác bằng chữ Hán. Cả trong các bài Ca Huế có lời bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, người ta đều thấy các điển tích Trung Hoa xuất hiện rất nhiều trong lời ca. Về nhạc cụ, hiện nay, phần lớn các nhạc cụ được sử dụng trong thể loại Ca Huế để đệm cho giọng hát và để hoà tấu đều có nguồn gốc từ Trung Hoa, có thể kể: đàn tranh, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn tỳ bà, sáo trúc. Chỉ một số ít nhạc cụ có mặt trong nhóm Ca Huế mà có nguồn gốc Việt Nam như sênh tiền, sanh sứa, chén; sau này có thêm đàn bầu. Tuy sử dụng nhiều nhạc cụ du nhập từ Trung Hoa, nhưng người Việt đã “Việt hoá” các nhạc cụ này để có thể sử dụng nó mà nói lên tâm tư, tình cảm của người Việt. Về thang âm, điệu thức, chúng ta thấy tên gọi các bậc trong thang âm của các điệu thức Ca Huế là: Hò, Xư, Xang, Xê… tương tự một kiểu gọi tên các bậc trong thang âm Trung Hoa. Thang âm điệu Bắc trong âm nhạc Việt Nam nói
- 15 chung và Ca Huế nói riêng tương đồng với thang âm điệu Chủy của Trung Hoa. Tuy nhiên, đây chỉ là sự tương đồng về quãng căn bản giữa các bậc trong thang âm. Khi thể hiện trong các bài bản khác nhau, thang âm này được người Việt nhấn nhá thành các “hơi” đặc trưng của người Việt. 2.1.2.Tính nguyên hợp Ngày nay, khi chế độ phong kiến Việt Nam không còn, thể loại Ca Huế chan hòa vào tổng thể văn hóa Huế và mang trong mình một số tính chất của văn hóa dân gian. Một trong những đặc tính quan trọng là tính nguyên hợp. Ca Huế nảy sinh, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp gồm các yếu tố: con người Huế với phong cách trang nhã, quí tộc, thơ, nhạc, giọng nói Huế, cảnh quan xứ Huế, các sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng người Huế nói riêng và người Bình Trị Thiên nói chung. Cấu trúc nhóm Ca Huế gồm phần ca và phần nhạc cụ cũng là một chỉnh thể không thể tách rời. Do sự gắn liền không thể tách rời giữa nghệ thuật Ca Huế và sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng người Huế, muốn phát triển nghệ thuật Ca Huế, phải phát triển nó trong môi trường tổng thể văn hóa cộng đồng Huế. Đồng thời muốn phát triển nghệ thuật Ca Huế, chúng ta cũng phải nghĩ đến việc phát triển và hoàn thiện tổng thể môi trường văn hóa Huế. 2.2.TÍNH BÁC HỌC CUNG ĐÌNH Vùng đất kinh kỳ Huế có cách bố trí nơi ở của dân chúng và các quan lại, quí tộc không tách biệt nhau, dẫn đến những thói quen hàng ngày, phong cách sinh hoạt gần giống nhau giữa các tầng lớp dân cư. Trong điều kiện xã hội đó, nghệ thuật Ca Huế từ cung đình ra dân gian dễ dàng giữ nguyên tính tao nhã, quí tộc vốn có. 2.2.1.Tính quí tộc cung đình Ca Huế có nguồn gốc cung đình. Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc thính phòng của Đàng Ngoài, cho tổ chức các buổi hòa nhạc thính phòng cung đình. Thú thưởng ngoạn này lúc đầu chỉ giới hạn trong phủ chúa hoặc các bậc vương công, dần dần mới phổ biến ra quần chúng. Cho đến nay, ca từ trong Ca Huế vẫn mang nét trang nhã, quí phái, trau chuốt. Khởi thủy, Ca Huế kế thừa bài bản từ Tế nhạc trong cung đình và một số sáng tác mới của các quí tộc. So sánh một số dàn nhạc trong cung đình với nhạc cụ trong nhóm Ca Huế, chúng ta thấy đa số các nhạc cụ trong Ca Huế đều đã có mặt trong dàn nhạc cung đình. Đặc điểm quí tộc còn thể hiện trong phong cách ăn mặc chải chuốt của những người tham gia sinh ho ạt trong nhóm Ca Huế. Không gian sinh hoạt Ca Huế thính phòng truyền thống thường có không
- 16 khí như các tư thất của quan lại và quí tộc. Các bài hát có nhịp điệu khoan thai, giai điệu dịu dàng, du dương với lời ca tình tự như chơi vơi theo trăng gió, mây ngàn, phản ánh tâm tư, tình cảm của những người có cuộc sống nhàn nhã, phong lưu. Những nghệ nhân Ca Huế không phải là một bộ phận tách biệt. Họ thường là thành viên trong các đội nhạc của các loại nhạc khác trong cung đình như nhạc lễ, múa, tuồng hoặc có kiến thức về các loại nhạc này. Vì vậy, những người này mang các yếu tố của các thể loại âm nhạc cung đình khác vào Ca Huế. Bài bản Ca Huế lấy từ bài bản Tiểu nhạc cung đình như: Hành vân, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long ngâm... Do người sáng tạo ra Ca Huế là những người biết chơi các loại nhạc cụ trong cung đình Huế nên các loại nhạc cụ được sử dụng trong Ca Huế đều là các nhạc cụ có mặt trong dàn Tiểu nhạc cung đình. Các kỹ thuật chơi nhạc cụ trong Ca Huế cũng được kế thừa trực tiếp từ kỹ thuật sử dụng nhạc cụ trong cung đình nhà Nguyễn. So sánh với hai thể loại âm nhạc thính phòng tiêu biểu khác của Việt Nam là Ca Trù và ca nhạc Tài Tử Nam bộ, chúng ta nhận thấy tính quí tộc cung đình trong Ca Huế là một trong những nét đặc trưng, tiêu biểu nhất của nghệ thuật Ca Huế, phân biệt Ca Huế với các thể loại âm nhạc thính phòng khác của Việt Nam. Chúng ta cần duy trì đặc tính này của Ca Huế. Ca Huế là thể loại âm nhạc có hướng phát triển lan rộng ngược với những thể loại âm nhạc ở các thời kỳ trước. Nó xuất phát từ cung đình rồi đi vào dân gian và được dân gian nuôi dưỡng. Trong khi ở các thời kỳ phong kiến trước, âm nhạc thường xuất phát từ dân gian rồi được chọn lọc, mang vào cung đình. Do có điểm xuất phát từ cung đình, thể loại Ca Huế mang tính kinh điển của thể loại âm nhạc bác học cung đình. 2.2.2.Tính kinh điển 2.2.2.1.Hệ thống bài bản, điệu thức Ca Huế được xem là thể loại âm nhạc mang tính chuyên nghiệp cao với hệ thống bài bản (gồm khoảng trên dưới 50 tác phẩm cơ bản), điệu thức hoàn chỉnh, kỹ thuật diễn tấu, diễn xướng điêu luyện, công phu. Những người tham gia hoạt động Ca Huế, từ người sáng tác, biểu diễn cho tới người thưởng thức “sành điệu”, đều phải có quá trình trau dồi kiến thức và kỹ năng Ca Huế nhất định, có am hiểu nhất định về hệ thống bài bản và điệu thức Ca Huế. Hệ thống điệu thức Ca Huế gồm hai điệu chính là Bắc và Nam. Trong mỗi loại này lại có những “hơi” mang màu sắc đặc trưng. 2 loại “hơi” tiêu biểu của Ca Huế là hơi Ai và hơi Dựng. Về tiết tấu, Ca Huế có những tên gọi qui
- 17 định rõ ràng về các kiểu gõ nhịp, kế thừa truyền thống âm nhạc cung đình triều Nguyễn. Các kiểu gõ nhịp này là: nhịp chánh diện, nhịp nội, nhịp ngoại. Ca Huế có 3 loại tốc độ: hoãn điệu, bình điệu và cấp điệu. 2.2.2.2.Tính ước lệ Âm nhạc mang tính ước lệ. Trong ca khúc truyền thống của từng địa phương, người ta thường thấy những qui ước âm nhạc chung kết hợp với ngữ điệu tiếng nói địa phương. Trong các bài bản Ca Huế, người ta thấy có những quãng đặc trưng, đường nét giai điệu đặc trưng thể hiện giọng nói Huế và những màu sắc cảm xúc đặc biệt của người Huế. Tiêu biểu nhất là sự thể hiện giai điệu ở những vị trí lời ca có dấu thanh sắc. Tính ước lệ còn thể hiện trong yếu tố điệu thức của các bài bản Ca Huế. Mỗi loại điệu thức, hơi được qui ước thể hiện những sắc thái diễn cảm riêng biệt. Các đoạn dạo đầu trong Ca Huế cũng có những qui ước giai điệu đi theo một thang âm điệu thức nào đó, phần bài bản phía sau đoạn dạo sẽ có giai điệu, sắc thái diễn cảm theo thang âm điệu thức đó. Thứ tự bài bản trong các buổi trình diễn Ca Huế cũng là yếu tố được các nghệ nhân Ca Huế “sành điệu” rất chú trọng. Lời Ca Huế xưa thường có những nội dung, cách diễn đạt theo một số “khuôn mẫu” tương tự nhau, góp phần tạo nên “dấu ấn Ca Huế”. Qui ước nhịp độ trong Ca Huế cũng như các thể loại âm nhạc khác, nhịp độ nhanh thể hiện niềm vui, sự hứng khởi, nhịp độ chậm thể hiện sự sâu lắng, nỗi buồn. Tuy nhiên, các bài bản chậm cũng mang nhiều đặc điểm tiêu biểu cho Ca Huế hơn bài bản nhanh. Trong hình thức trình diễn người ca với nhóm nhạc đệm, như một qui ước ngầm, người ca thường là nữ, người sử dụng nhạc cụ đệm thường là nam. Người nữ thường thường vừa ca vừa giữ nhịp cho cả nhóm Ca Huế. Việc thưởng thức âm nhạc Huế cũng có những qui ước, luật lệ. Theo học giả Hoàng Yến có “Sáu trường hợp phải nghỉ thưởng thức âm nhạc” và “Bảy trường hợp không nên cầm đàn”. CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN CA HUẾ 3.1.GIÁ TRỊ CA HUẾ Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật khác, Ca Huế mang các giá trị như: giá trị nhân sinh, giá trị lịch sử xã hội, giá trị nghệ thuật. Tìm hiểu các giá trị này của Ca Huế sẽ góp phần xác định vị trí, tầm quan trọng của nghệ thuật Ca Huế trong bức tranh toàn cảnh văn hóa, nghệ thuật Việt Nam. 3.1.1.Giá trị nghệ thuật
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 312 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 291 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 187 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 279 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 272 | 16
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 254 | 12
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 156 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 183 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 61 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 208 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 164 | 6
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 124 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn