
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Vấn đề phục dựng lễ hội điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi
lượt xem 1
download

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học "Vấn đề phục dựng lễ hội điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi" được nghiên cứu với mục tiêu: Chỉ ra được những yếu tố cốt lõi: bản chất của vấn đề phục dựng lễ hội, động cơ và vai trò của các bên tham gia, kết quả cũng như những vấn đề cần được thảo luận qua việc so sánh giữa lý thuyết và thực tiễn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Vấn đề phục dựng lễ hội điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----------*--------- PHAN THÙY GIANG VẤN ĐỀ PHỤC DỰNG LỄ HỘI ĐIỆN TRƢỜNG BÀ Ở HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI Ngành: Văn hóa học Mã số: 9 22 90 40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội – 2024
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Hồng Lý Phản biện 1: PGS. TS. Trần Thị An Phản biện 2: GS. TS. Bùi Quang Thanh Phản biện 3: PGS. TS. Trần Đức Ngôn Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2024 Có thể tìm hiểu Luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ sau năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, không khí chính trị xã hội cũng trở nên cởi mở hơn; mọi khía cạnh trong phạm trù văn hóa được tạo điều kiện để phát triển. Phong trào phục dựng lễ hội đã diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, ở mọi tộc người đồng chủ thể quốc gia. Lễ hội điện Trường Bà cũng nằm trong số đó, và trở thành vốn quý tinh thần của huyện Trà Bồng. Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu phân tích sự chuyển đổi trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về bản chất, vai trò, vị trí của văn hóa đối với tiến trình phát triển của đất nước. Ở phạm vi hẹp hơn, đã có những nghiên cứu về thay đổi trong tâm thức và hành vi của cộng đồng đối với các thực hành văn hóa tâm linh trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trường hợp đều được thực hiện ở những địa phương thuần nhất về thành phần tộc người. Huyện Trà Bồng là địa phương đa tộc người, đa văn hóa, bao gồm cả văn hóa tâm linh. Quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà, ngoài người dân làng Xuân Khương, còn có sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước và sự tham gia của các tộc người thiểu số. Vậy quá trình phục dựng lễ hội ở đây đã diễn ra như thế nào? Bản chất của quá trình này là gì? Hấp lực của lễ hội có thu hút được các cộng đồng thiểu số tự giác tham gia hay không? Và liệu rằng, những người tham gia lễ hội thuộc nhiều cộng đồng tộc người, nhiều nhóm xã hội có thể thông hiểu lẫn nhau và biểu đạt một diễn ngôn chung hay không? Để trả lời cho các câu hỏi đó, tôi quyết định chọn đề tài “Vấn đề phục dựng lễ hội điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi”để thực hiện luận án tiến sĩ văn hóa học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của NCS và câu hỏi nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án kỳ vọng chỉ ra được những yếu tố cốt lõi: bản chất của vấn đề phục dựng lễ hội, động cơ và vai trò của các bên tham gia, kết quả cũng như những vấn đề cần được thảo luận qua việc so sánh giữa lý thuyết và thực tiễn. 2.2. Nhiệm vụ của NCS Để thực hiện luận án, NCS tự đặt cho mình các nhiệm vụ cơ bản như sau: (i) Tổng quan tình hình nghiên cứu về phục dựng lễ hội nói chung, lễ hội điện Trường Bà nói riêng; (ii) Xác lập cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu; (iii) Nhận diện di tích và lễ hội điện Trường 1
- Bà trong quá khứ và đương đại; (iv) Phân tích các bối cảnh chính của quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà trong những năm gần đây; (v) Tìm hiểu động cơ của các bên liên quan trong quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà, từ đó chỉ ra được bản chất của quá trình này; và (vi) Chỉ ra kết quả đạt được cũng như những vấn đề cần thảo luận khi so sánh giữa thực tiễn với các hệ thống lý thuyết. 2.3. Những câu hỏi nghiên cứu chính Luận án sẽ tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính như sau: (i) Quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà đã diễn ra trong những bối cảnh nào; (ii) Các bên tham gia đã phục dựng lễ hội điện Trường Bà ở huyện Trà Bồng như thế nào; (iii) Các bên liên quan có vai trò và mục đích gì trong quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà; và (iv) Kết quả đạt được và những vấn đề cần thảo luận là gì? 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là “vấn đề phục dựng lễ hội điện Trường Bà”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Địa bàn nghiên cứu được xác định là huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi - nơi diễn ra lễ hội điện Trường Bà và cũng là không gian cư trú của các tộc người Kinh, Hoa, Cor, một số dân tộc thiểu số khác. Luận án tập trung nghiên cứu lễ hội điện Trường Bà trong bối cảnh đương đại, trong khoảng thời gian từ sau năm 1986 đến nay, có sự so sánh với lễ hội được thực hiện trong quá khứ để chỉ ra những truyền thống mới được sáng tạo. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án chú trọng đến việc tìm hiểu quan điểm của người trong cuộc và tiếp cận chỉnh thể. Theo hướng quan điểm và tiếp cận này, luận án khai thác tối đa hiểu biết của các cộng đồng tộc người về lễ hội điện Trường Bà trong quá khứ, tìm hiểu vai trò thực tế của mỗi bên tham gia, và hiểu được quan điểm của họ về lễ hội sau quá trình phục dựng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong thực hiện đề tài luận án về cơ bản là sự kết hợp giữa việc phân tích, tổng hợp nguồn tài liệu thứ cấp với việc thu thập, xử lý các tư liệu điền dã. Các công cụ chính trong giỏ phương pháp nghiên cứu nhân học-dân tộc học 2
- như quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, kiểm tra chéo thông tin… đều được vận dụng một cách phù hợp nhằm đạt hiệu quả tối đa. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án bổ sung sự hiểu biết về một vùng đất đang chuyển mình dưới sức ép của quá trình Toàn cầu hóa. Ngoài việc góp thêm một góc nhìn về phục dựng lễ hội ở một tiểu vùng văn hóa đa tộc người, luận án còn chỉ ra những bất cập của việc áp dụng hệ thống lý thuyết. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên về quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà một cách hệ thống, khách quan, không lệ thuộc vào các quan điểm chủ lưu. Luận án chú trọng phân tích bối cảnh đương đại của quá trình phục dựng lễ hội, trong đó nhấn mạnh đến các yếu tố có tính chất quyết định như chính sách vĩ mô/vi mô, bối cảnh liên tộc người, và bối cảnh văn hóa.Đây là nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng: thông qua việc phục dựng lễ hội điện Trường Bà, có mở rộng quy mô và thành phần tham gia, chính quyền sở tại mong muốn hình thành một cộng đồng văn hóa tâm linh liên tộc người. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Bằng cách chỉ ra những vấn đề cần thảo luận khi soi chiếu thực tiễn phục dựng lễ hội điện Trường Bà với các hệ thống lý thuyết, luận án cung cấp thêm các luận cứ khoa học cho chính quyền địa phương trong việc hoạch định các chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nói chung, cũng như vấn đề phục dựng lễ hội nói riêng. Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là nguồn tư liệu tham khảo cho những người đang quan tâm đến vấn đề phục dựng lễ hội ở Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục bài báo đã công bố, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án cấu trúc gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Chương 2: Nguồn Thanh Bồng trong hệ thống nguồn ở Quảng Ngãivà mối quan hệ với làng Xuân Khương Chương 3: Di tích và lễ hội Trường Bà trong lịch sử Chương 4: Quá trình trùng tu di tích và phục dựng lễ hội điện 3
- Trường Bà sau Đổi mới Chương 5: Phục dựng lễ hội điện Trường Bà: soi chiếu từ lý thuyết đến thực tiễn Chƣơng I TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nghiên cứu về phục dựng lễ hội ở nước ngoài Các cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và thứ hai (1939-1945) đã phá vỡ các cấu trúc sinh hoạt thường ngày và làm ngưng trệ, gián đoạn nhiều thực hành văn hóa truyền thống trên thế giới. Hậu chiến, các lễ hội truyền thống được phục dựng ở nhiều nơi trên thế giới và trở thành đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhìn lại nguồn tài liệu về lễ hội và phục dựng lễ hội ở nước ngoài được điểm luận, có thể nhận thấy: (1) Các học giả trên thế giới đều coi lễ hội là các sự kiện văn hóa hàm chứa nhiều thuộc tính: tính lễ nghi tôn giáo, tính huyền thoại-biểu tượng, tính gắn kết xã hội, tính nhận dạng địa phương, tính xác thực, tính hàng hoá, tính kích thích tiêu dùng. Chính vì vậy, lễ hội là một thực hành văn hoá luôn có vị trí đặc biệt trong xã hội, có nhiều ý nghĩa đối với cá nhân cũng như các nhóm xã hội. (2) Việc tổ chức hay phục dựng lễ hội luôn hướng đến đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau. Ở các nước phương Tây, mục tiêu kinh tế được đặt lên hàng đầu. Trong khi đó, ở các nước phương Đông, việc phục dựng lễ hội vừa coi trọng mục tiêu kinh tế, vừa đề cao các giá trị văn hóa tâm linh và sự gắn kết hoặc cạnh tranh xã hội. (3) Phục dựng lễ hội là hiện tượng phổ biến toàn cầu. Lễ hội được phục dựng không hoàn toàn là một phiên bản được sao chép của lễ hội truyền thống như nó vốn có trước khi bị ngưng trệ, gián đoạn mà luôn có sự kế thừa, tái tạo, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới. (4) Muốn phục dựng được lễ hội, cần có sự tham gia của nhiều bên: cộng đồng, nhà nước, các nhà khoa học. Vai trò của nhà nước và các nhà khoa học, ở tùy từng nơi, có tầm quan trọng khác nhau, nhưng bao giờ cộng đồng cũng chiếm vị trí trung tâm, không thể thay thế. 4
- 1.1.2. Nghiên cứu về phục dựng lễ hội ở Việt Nam Sự bùng nổ của phong trào phục dựng lễ hội ở Việt Nam đã trở thành đối tượng được giới học thuật trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu với nhiều quan điểm tiếp cận và phương pháp khác nhau. Các nghiên cứu được công bố thể hiện những khuynh hướng tiếp cận, sự ưu tiên khác nhau và mang lại những phát hiện khác nhau: (1) Các nhà khoa học đều thống nhất rằng, việc phục dựng lễ hội là một tất yếu đồng thời thỏa mãn nhiều nhu cầu khác nhau của nhà nước cũng như cộng đồng: khôi phục, tái tạo đức tin, vui chơi giải trí, gắn kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người, kiến tạo bản sắc quốc gia cũng như địa phương, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. (2) Về động lực thu hút sự tham gia vào phục dựng lễ hội, một số nhà khoa học quan tâm tìm hiểu các hàm ý chính trị và đề cao vai trò của nhà nước; trong khi đó, có những nghiên cứu khác lại nhấn mạnh tính không thể thay thế của cộng đồng và coi cộng đồng mới là chủ nhân đích thực của lễ hội. (3) Về quy trình và cách thức phục dựng lễ hội, giữa các nhà khoa học có sự phân hóa khá sâu sắc: một bộ phận thiên về dàn dựng, bổ sung các yếu tố mới nhằm thu hút du khách; một số khác đòi hỏi vẫn phải giữ được tính xác thực của lễ hội. (4) Với sự can thiệp của nhà nước, người dân luôn đối mặt với nguy cơ bị lề hóa. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, được sự hỗ trợ của các nhà khoa học, dường như có vai trò lấn át trong việc phục dựng lễ hội. Mặt khác, nhiều người dân đã chi tiêu quá mức cho các thực hành văn hóa tâm linh, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự tích lũy tài sản và nguồn vốn tài chính của mỗi gia đình. 1.1.3. Nghiên cứu về lễ hội điện Trường Bà Bên cạnh kết quả đạt được, nghiên cứu về lễ hội điện Trường Bà vẫn còn những vấn đề bỏ ngỏ như biểu tượng thờ cúng của lễ hội qua các giai đoạn lịch sử, vai trò thực tế của từng tộc người, hoặc bối cảnh xã hội dẫn đến sự biến đổi. Là một nghiên cứu đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà, luận án tập trung vào phân tích bối cảnh phục dựng lễ hội, động cơ của các bên tham gia, sự chuyển biến trong nhận thức và hành vi, những kết quả được ghi nhận và một số vấn đề cần thảo luận sau khi soi chiếu với thực tiễn. 5
- 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Các khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án (1) Khái niệm “lễ hội”: “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện; còn “hội” là sinh hoạt văn hóa nghệ thuật nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ và vui chơi giải trí. (2) Khái niệm “Phục dựng”: Trong các bộ từ điển tiếng Việt, khái niệm “phục dựng” được giải thích là “phục hồi và dàn dựng cho giống như thật”. Có nghĩa rằng, các nhà ngôn ngữ coi “phục dựng” là từ ghép được rút gọn của hai thuật ngữ “phục hồi” và “dàn dựng”. (3) “Cộng đồng tưởng tượng” là khái niệm được Benedict Anderson đưa ra năm 1983 nhằm phân tích chủ nghĩa dân tộc. Ông cho rằng, dân tộc là một cộng đồng được xã hội kiến tạo nên thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt đắc dụng là “chủ nghĩa tư bản in ấn”, với các sản phẩm chính là sách, báo và tạp chí. Theo ông, chính văn tự (bản xứ) chung, cùng với các công cụ của nhà cầm quyền như bản đồ, động thái dân số hay các giá trị văn hóa được ngưng kết trong bảo tàng đều được xây dựng để nhắm đến và định hình một nhóm đối tượng trong một không giạn nhất định, thông qua những biểu tượng, ý thức hệ và diễn ngôn chung. 1.2.2. Lý thuyết xung đột Lý thuyết xung đột nhìn nhận xã hội như một sự thống nhất giữa các mặt đối lập. K.Marx và F.Engelslà những người đầu tiên phân tích sự phát triển của xã hội loài người dưới lăng kính của lý thuyết xung đột. Hai ông cho rằng, từ khi có giai cấp, đấu tranh giai cấp (xử lý các xung đột xã hội), là động lực của vận động xã hội. Và nguồn gốc của các xung đột xã hội chủ yếu bắt nguồn từ mâu thuẫn trong lợi ích kinh tế giữa các giai cấp do có sự khác nhau trong sở hữu tư liệu sản xuất. 1.2.3. Lý thuyết sáng tạo truyền thống Sáng tạo truyền thống (The invention of Tradition)là quan điểm được đề xuất bởi Eric Hobsbawm vào năm 1983. Lý thuyết này cho rằng, truyền thống được sáng tạo là một tập hợp bao gồm “truyền thống” thực tế đã được truyền thừa, và thiết lập chính thống, lẫn những điều mới phát triển nhưng tự khẳng định được chỗ đứng một cách nhanh chóng. 6
- Tiểu kết chƣơng I Lễ hội là thực hành văn hóa tâm linh phổ biến của mọi cộng đồng người trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các lễ hội truyền thống hầu như chỉ hạn chế ở mục đích thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần của người dân, hoặc cao hơn là tạo nên sự gắn kết cộng đồng. Ngày nay, việc tổ chức hay phục dựng lễ hội không chỉ thỏa mãn nhu cầu về đức tin hay gắn kết cộng đồng, mà còn hướng đến nhiều mục đích khác nhau: thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí, kiến tạo bản sắc địa phương, và tạo nguồn tài nguyên phát triển kinh tế. Do những nguyên nhân khác nhau, hiện tượng gián đoạn lễ hội từng xảy đến ở nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới trong các giai đoạn khác nhau. Khi đời sống bình ổn trở lại, việc phục dựng lễ hội đã được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, với những mục tiêu khác nhau. Việt Nam cũng không là ngoại lệ, chiến tranh và các chính sách xã hội thời hậu chiến đã khiến cho nhiều thực hành văn hóa tâm linh bị gián đoạn trong một thời gian dài (1975-1986). Nhờ chính sách “Đổi mới”, từ sau 1986, phong trào phục dựng lễ hội đã diễn ra rầm rộ trên cả nước, mang lại một diện mạo văn hóa hoàn toàn mới. Quá trình phục dựng lễ hội ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc tái hiện đơn thuần các truyền thống xưa cũ, mà luôn có sự bổ sung/làm mới. Việc phục dựng lễ hội vừa là sự kế thừa có chắt lọc các truyền thống xưa cũ, vừa có sự bổ sung/cải biến đã tạo nên các truyền thống mới. Đối với lễ hội điện Trường Bà, việc mở rộng thành phần tham gia, vượt khỏi khuôn khổ người Kinh ở làng Xuân Khương, còn đặt ra câu hỏi: có hay không một “cộng đồng tưởng tượng” đang được kỳ vọng hình thành trên đất Trà Bồng, mà biểu hiện của nó chính là một thực hành văn hóa tâm linh? Trong những chương tiếp theo, luận án sẽ cố gắng trả lời câu hỏi này. Chƣơng II. NGUỒN THANH BỒNG TRONG HỆ THỐNG NGUỒN Ở QUẢNG NGÃI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI LÀNG XUÂN KHƢƠNG 2.1. “Nguồn”-khái niệm, bộ máy tổ chức và chức năng 2.1.1. Khái niệm "nguồn" và bộ máy tổ chức “Nguồn” (源/nguyên) của người Thượng ở miền Trung tương tự như châu/huyện của người Kinh ở dưới đồng bằng. Đứng đầu mỗi 7
- "nguồn" là một chức danh được gọi là “Cai án”, phụ trách các công việc chung. Giúp việc cho Cai án là những chức danh khác như “Thủ ngự”, “Thủ binh”, “Hiệp thủ”, “Cai quan”, “Cai côn”. 2.1.2. Chức năng của "nguồn" "Nguồn" có chức năng quản lý chung về mọi khía cạnh của đời sống xã hội: nhân khẩu, kinh tế, trị an,… Trong chức năng kinh tế, "nguồn" có thể liên quan đến việc hướng dẫn tổ chức sản xuất và quan trọng nhất là thu thuế để nộp về ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, các "nguồn" miền Thượng có thể còn có chức năng quân sự. 2.1.3. Trường giao dịch và Sở Tuần ty Trường giao dịch là nơi mà người Thượng mang các sản vật xuống bán cho các thương lái từ xuôi lên và mua về các vật phẩm thiết yếu cho sinh hoạt hàng ngày. Các Sở tuần ty có nhiệm vụ cấp giấy phép cho các thương nhân từ miền xuôi đến buôn bán và thu thuế để nộp vào ngân sách nhà nước. 2.1.4. Tình hình chính trị tại các "nguồn" Do sự khác biệt về phương thức quản lý xã hội và văn hóa giữa các tộc người, tình hình chính trị ở các nguồn luôn tiềm ẩn sự bất ổn. Bên cạnh đó, sự tha hóa của một số quan lại và gian thương cũng khiến cho không khí xã hội có lúc trở nên ngột ngạt. 2.2. Nguồn Thanh Bồng 2.2.1. Những miêu tả về địa thế nguồn Thanh Bồng thời Cận đại Nguồn Thanh Bồng là một trong 4 nguồn của tỉnh Quảng Ngãi, gồm: nguồn Phụ Bà (sau đổi thành Phụ An), nguồn Cù Bà (sau đổi thành Thanh Cù), nguồn Ba Tư (sau đổi thành An Ba) và nguồn Đà Bồng (sau đổi thành Thanh Bồng).Nguồn Thanh Bồng tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam ở phía Bắc, nguồn Thanh Cù ở phía Nam, các cộng đồng người Thượng khác ở phía Tây và phủ Bình Sơn ở phía Đông. 2.2.2. Người Thượng nguồn Thanh Bồng Người Thượng ở Đà Bồng thường được gọi là “Man Thanh Bồng”, “Man La Thụ”, “Thượng Trà Bồng”, “Mọi Quế”, “Mọi Trầu”, “Cua”, hoặc “Khùa”. Họ cư trú trên vùng núi, chuyên nghề trồng các loại cây lâu năm như quế, trà, trầu cau, khoai nước, củ mài. Cổ thư miêu tả họ là những nhóm người chưa được giáo hóa, bản tính hoang dã, riêng người Thượng La Thụ Thanh Bồng tương đối nhu thuận. 2.2.3. Vai trò quan trọng của nguồn Thanh Bồng 8
- Do chủ yếu trồng các loại cây hàng hóa, kinh tế thị trường ở nguồn Đà Bồng/Thanh Bồng đã sớm phát triển. Để thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán, một trường giao dịch đã được mở ngay tại làng Xuân Khương. Đây là địa điểm gần bến thuyền thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa về xuôi theo đường sông Trà Bồng. 2.3. Làng Xuân Khƣơng-cửa nguồn Thanh Bồng 2.3.1. Vị trí địa lý Làng Xuân Khương xưa thuộc phủ Bình Sơn, nằm trên vùng bán sơn địa, phía Nam và phía Tây giáp với các sách của người Thượng, nhưng phía Bắc là sông Trà Bồng, con đường huyết mạch từ nguồn Thanh Bồng xuôi xuống đồng bằng duyên hải. Với tư cách là điểm tiếp giáp với xứ Thượng Thanh Bồng, làng Xuân Khương đã có một vị trí quan trọng trong hoạt động giao thương. 2.3.2. Lịch sử dân cư làng Xuân Khương Tổ tiên của người Kinh hiện nay đang sinh sống làng Xuân Khương xưa có mặt sớm nhất là khoảng giữa thế kỷ XVIII. Bên cạnh người Kinh, người Hoa cũng có mặt tại làng Xuân Khương từ sớm và đóng vai trò quan trọng trong quá trình kinh tế của địa phương. 2.4. Quan hệ giữa làng Xuân Khƣơng và nguồn Thanh Bồng 2.4.1. Quan hệ giao thương và hợp tác Do tham gia tích cực vào quá trình trao đổi hàng hóa, người Thượng ở nguồn Thanh Bồng đã gắn bó với người Việt và Hoa tương đối sớm. Từ quan hệ kinh tế, đã dẫn đến sự chia sẻ các giá trị văn hóa và tinh thần. 2.4.2. Mâu thuẫn và xung đột Sự áp đặt của nhà nước, cùng với sự bành trướng của người Kinh và người Hoa, đã dẫn đến xung đột tạo nên sự bất ổn xã hội và ảnh hưởng lớn đến quá trình giao thương ở các cửa nguồn. Tiểu kết chƣơng II Do điều kiện đặc thù được quy định bởi kiến tạo địa lý, khu vực miền Trung có diện mạo tự nhiên khá độc đáo: dải đồng bằng duyên hải ở phía Đông, thuận lợi cho việc canh tác lúa nước, chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ; toàn bộ diện tích phía Tây là sơn khu hùng vĩ, bị chia cắt dữ dội, tạo nên hệ thống sông ngòi dày đặc. Vùng duyên hải vốn dĩ là địa bàn sinh sống của người Chăm, sau này người Kinh bành trướng xuống phương Nam đã xóa xổ các tiểu quốc Champa. Từ thế kỷ XVII, các dòng lưu dân người Hoa, do không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh, đã đến xen cư với người Kinh. Trong khi 9
- đó, sơn khu phía Tây là địa bàn phân bố của các cộng đồng người Thượng chủ yếu sống dựa vào việc trồng cây lâu năm, cây hàng hóa. Chính vì thế, việc trao đổi hàng hóa với các thương nhân đến từ đồng bằng là một trong những phương án sinh kế chính. Vào thời nhà Lê, người Thượng duy trì chế độ tự quản/tự trị trong phạm vi cộng đồng plei (làng). Đơn vị quản lý xã hội trên cấp làng là sách, tổng và nguồn. Trên danh nghĩa, "nguồn" là đơn vị hành chính trên vùng người Thượng, ngang cấp huyện ở vùng đồng bằng duyên hải. "Nguồn" vừa có chức năng quản lý nhà nước, chức năng kinh tế, vừa có chức năng quân sự và bảo vệ trị an. Tại các cửa nguồn, đã hình thành nên hệ thống các trường giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán giữa người Thượng với các thương nhân đến từ đồng bằng. Riêng tỉnh Quảng Ngãi có 4 nguồn. Đà Bồng/Thanh Bồng là 1 trong 4 "nguồn" đó, cũng là "nguồn" có vai trò quan trọng nhất. Việc thu thuế môn bài từ các hộ buôn bán ở các "nguồn" do Sở Tuần ty phụ trách. Cửa nguồn Đà Bồng/Thanh Bồng tiếp giáp với làng Xuân Khương của phủ Bình Sơn. Đây là địa phương có dòng sông Trà Bồng chảy qua, vừa thuận lợi cho việc tập trung hàng hóa từ vùng người Thượng chuyển xuống, vừa có thể dễ dàng chuyên chở về xuôi. Chính vì thế, từ xa xưa, tại làng Xuân Khương đã hình thành một trường giao dịch. Đó cũng là nơi hội tụ của nhiều sắc dân: Kinh, Hoa và Thượng. Quan hệ giữa các tộc người này vừa có sự hợp tác giao thương, vừa tiềm ẩn nguy cơ xung đột do sự khác biệt về văn hóa. Tại trường giao dịch làng Xuân Khương, từ lâu đã xuất hiện một ngôi đền thờ Nữ thần. Theo quan niệm dân gian, vị Nữ thần vừa bảo trợ cho cuộc sống của người dân, vừa mang lại may mắn cho hoạt động giao thương buôn bán. Dân gian quen gọi đó là điện Trường Bà. Tại đây, hàng năm người dân làng Xuân Khương thường tổ chức 2 kỳ hội lệ, mùa Xuân và mùa Thu. Điều đặc biệt, kinh phí tổ chức hội lệ mùa Xuân được trích ra từ quỹ ruộng Bà, nhưng trong hội lệ mùa Thu, nguồn kinh phí được cấp bởi Sở tuần ty, lấy từ nguồn đóng góp của các thương nhân Kinh, Hoa và Thượng. Hội lệ mùa Xuân được coi là của riêng cộng đồng người Kinh làng Xuân Khương, nhưng hội lệ mùa thu có sự tham gia của nhiều thành phần. Ngoài người dân làng Xuân Khương, còn có người Thượng đến từ nguồn Thanh Bồng cùng các thương nhân đến từ đồng bằng. Đây là 10
- một giải pháp nhằm hóa giải các nguy cơ xung đột tộc người chứ không chỉ đơn giản là một thực hành văn hóa tâm linh. Chƣơng III: DI TÍCH VÀ LỄ HỘI ĐIỆN TRƢỜNG BÀ TRONG LỊCH SỬ 3.1. Di tích điện Trƣờng Bà 3.1.1. Mấy nét khái lược về điện Trường Bà Điện Trường Bà thờ Nữ thần gắn với nhiều huyền tích ở địa phương. Căn cứ vào các nguồn thư tịch cổ cũng như tư liệu điền dã, điện Trường Bà có tuổi đời trên dưới 200 năm. Hiện tại, trong điện Trường Bà, người dân còn phối thờ các nhân thần người Hoa và người Việt. 3.1.2. Kiến trúc điện Trường Bà xưa Điện Trường Bà đã trải qua nhiều thăng trầm xây cất/tháo dỡ/trùng tu. Vì thế, hiện nay không có bất cứ mô tả nào đáng tin về diện mạo ban đầu của ngôi điện. Vào những năm 1958-1959, điện Trường Bà được xây dựng lại, gồm bốn phần: sân điện, nhà hội, tiền đường và chánh điện. Trong chánh điện có 6 ban thờ, được phân bố cân đối bốn hướng đông, tây, nam, bắc.Ban thờ chính đặt giữa chánh điện. Chánh thần được phụng thờ là vị Nữ thần, người dân vẫn gọi là Bà. Hai bên tả hữu là ban thờ các nhân thần người Hoa (Quan Thánh, Quan Bình, Châu Thương) và người Kinh (Bùi Tá Hán và Mai Đình Dõng). Các vị Tiền hiền và Hậu hiền được thờ riêng trên một ban ở đầu hồi phía Đông. 3.2. Hồi ức về lễ hội điện Trƣờng Bà trong giai đoạn trƣớc 1945 3.2.1. Lễ hội điện Trường Bà trong hồi ức của người dân Lễ hội điện Trường Bà xưa kia gồm 5 bước chính: lễ rước sắc, lễ mộc dục, lễ tế ngoại đàn, lễ tế chánh điện, và lễ rước Bà khai hội. Mỗi nghi lễ đều mang một ý nghĩa khác nhau. 3.2.2. Những điểm đáng chú ý trong lễ hội truyền thống Lễ hội điện Trường Bà là một sự kiện văn hóa dân gian tổng thể, là sự hợp nhất của 2 hợp phần “lễ” và “hội”. Mảng “lễ” là một quy trình nghiêm cẩn,tỏ rõ lòng thành kính đối với Thánh Bà và tổ tiên. Phần “hội” có nhiều hình thức diễn xướng và văn nghệ dân gian, với sự tham gia của tất cả mọi người, không phân biệt dân chính cư với dân ngụ cư, dân làng Xuân Khương hay khách vãng lai. Trước năm 1945, chỉ có nam giới dân chính cư được tham gia tổ chức, thực hành lễ hội điện Trường Bà, phụ nữ giới chỉ hiện diện với tư cách là 11
- người tham dự, trải nghiệm lễ hội. Với sự can thiệp của Sở Tuần ty, lễ hội mùa Thu đã nhuốm màu quan phương hóa. Sự tham gia của các thương nhân đến từ bên ngoài và các chức sắc người Thượng cho thấy, lễ hội mùa Thu đã vượt qua khuôn khổ của một hội làng. 3.3. Hồi ức của ngƣời dân về việc phục dựng lễ hội điện Trƣờng Bà trongthời kỳ 1954-1975 Trong thời kỳ 1945-1954, chiến tranh diễn ra ác liệt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các hoạt động tín ngưỡng bị coi là mê tín dị đoan và bị bài trừ. Các cơ sở thờ tự được trưng dụng cho các mục đích khác hoặc bị phá dỡ. Điện Trường Bà cũng nằm trong số đó. 3.3.1 Bối cảnh Trà Bồng giai đoạn 1954-1975 Sau Hiệp địnhGenève (tháng 7 năm 1954), chính quyền Sài Gòn tiếp nhận quản lý huyện Trà Bồng. Từ cuối năm 1954 đến năm 1958, họ đẩy mạnh thực hiện chính sách tố cộng, diệt cộng và tập trung khủng bố phong trào cách mạng. Các chính sách xã hội và công cuộc cải cách điền địa đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây mâu thuẫn sâu sắc giữa người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số. Từ sau 1967, các phong tục và nề nếp cũ từng bước được khôi phục. 3.3.2 Quá trình trùng tu di tích và phục dựng lễ hội điện Trường Bà giai đoạn 1954-1975 Trong những năm 1958-1959, người dân làng Xuân Khương đã trùng tu lại điện Trường Bà, ban đại diện được tái lập, quỹ ruộng Bà được khôi phục. Năm 1959, lễ hội điện Trường Bà được phục dựng không có nhiều sự khác biệt so với lễ hội truyền thống được tổ chức trước năm 1945. Năm 1973, Tổng thống VNCH đã ký Điệp văn công nhận vị nữ thần được thờ cúng tại điện Trường Bà là “Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi tôn thần, Hàm Hoằng Quảng đại chí đức Phổ bác hiển hóa Trang huy Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần”. Tiểu kết chƣơng III Dựa trên việc tích hợp các tư liệu điền dã, có thể khẳng định, điện Trường Bà ngày nay chính là đền thờ Thái Dương công chúa đã được nhắc đến trong các cổ thư. Như vậy, điện Trường Bà là cơ sở thờ cúng nữ thần có tuổi đời gần 2 thế kỷ. Trong quá khứ, kiến trúc điện Trường Bà đã có nhiều thay đổi, diện mạo ban đầu đã không được lưu giữ. Kiến trúc điện Trường Bà ngày nay là kết quả của các đợt trùng tu thực hiện trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. 12
- Từ hậu bán thế kỷ XX, do đình làng Xuân Khương bị chiến tranh tàn phá, các vị nhân thần được thờ cúng trong đình đã được rước về thờ chung trong điện Trường Bà. Ngôi điện này đã trở thành địa chỉ tích hợp những dòng tín ngưỡng khác nhau. Ngoài các lễ hội nhằm tưởng niệm, tạ ơn và tôn vinh Thánh Bà, các nghi lễ theo chu kỳ niên lịch, gắn với tín ngưỡng đa thần cũng được bổ sung. Lễ hội điện Trường Bà vốn là hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể của riêng làng Xuân Khương tổ chức. Việc chọn lựa nhân sự tham gia việc chuẩn bị cũng như thực hành các nghi thức tế tự được tuân thủ theo những tiêu chí khắt khe và chặt chẽ. Phần “lễ” được thực hiện một cách nghiêm cẩn, nhằm bày tỏ sự thành kính đối với Thánh Bà cũng như các vị thần được thờ cúng trong Điện, thỏa mãn được nhu cầu tâm linh của dân làng. Phần “hội” khoáng đạt và vui nhộn, có thể thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí. Thông qua các hoạt động trong lễ hội, người dân làng Xuân Khương còn chú trọng truyền cảm hứng và kỹ năng cho thế hệ kế cận. Tuy nhiên, qua lễ hội điện Trường Bà có thể nhận thấy những bất bình đẳng về giới kéo dài trong nhiều năm. Muộn nhất thì đến thời nhà Nguyễn, lễ hội điện Trường Bà đã từng bước được quan phương hóa. Tuy không có những căn cứ khả tín để khẳng định các đại diện thể chế quân chủ đã có ý thức về việc tạo lập một cộng đồng văn hóa liên tộc người, nhưng không khó để nhận ra ý tưởng dùng thần quyền như một chiến lược nhằm hóa giải xung đột tộc người, nhằm tạo ra môi trường ổn định để phát triển. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điện Trường Bà bị xuống cấp, lễ hội bị ngưng trệ. Đó là một khúc lặng được tạo nên bởi chính sách văn hóa - xã hội của chính quyền cách mạng, và cũng là điểm yếu để chính thể Việt Nam cộng hòa khai thác trong cuộc chiến “giành dân”. Thực tế, có thể coi những nỗ lực của chính quyền Sài Gòn thời kỳ 1954-1975 là tích cực và qua đó những đứt đoạn truyền thống tâm linh của người dân làng Xuân Khương đã từng bước được nối lại. Chƣơng IV. QUÁ TRÌNH TRÙNG TU DI TÍCH VÀ PHỤC DỰNG LỄ HỘI ĐIỆN TRƢỜNG BÀ SAU ĐỔI MỚI 4.1. Quá trình gián đoạn lễ hội từ 1975 đến trƣớc 1986 13
- Sau năm 1975,khuôn mẫu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội và văn hóa của miền Bắc được áp dụng cho toàn miền Nam. Trong thời gian 10 năm quan liêu bao cấp, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, tình trạng thiếu đói phổ biến trên cả nước, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Với văn hóa tâm linh, mọi lễ hội tín ngưỡng dân gian đều bị coi là mê tín dị đoan và nghiêm cấm thực hành. Lễ hội hàng năm ở điện Trường Bà bị dừng tổ chức. 4.2. Bối cảnh của việc phục dựng lễ hội điện Trƣờng Bà 4.2.1. Mấy nét cơ bản về huyện Trà Bồng sau Đổi mới (1986) Trà Bồng là một trong bốn huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi với 19 xã và thị trấn, có tổng diện tích tự nhiên là 760,3 km2; dân số toàn huyện có 58.046 người, với 06 cộng đồng dân tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Cor, Hrê, Xơ đăng (nhóm Ca Dong), Hoa, Mường, Tày. Do địa hình đồi núi chiếm phần lớn đất đai, Trà Bồng không có ưu thế cho việc trồng cây lương thực, nhưng lại thích hợp với các loại cây lâu năm và phát triển du lịch. Đến thời điểm hiện tại, đời sống kinh tế - xã hội, và văn hóa của người dân các dân tộc trong huyện đã có những bước phát triển vượt bậc so với thời kỳ trước năm 1986 nhưng tỷ lệ nghèo đói vẫn ở mức cao (42,52% số hộ gia đình).. 4.2.2. Chính sách Đổi mới và chủ trương bảo tồn - phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VI, đề ra phương hướng Đổi mới toàn diện: kinh tế, xã hội, và văn hóa. Các thực hành văn hóa tâm linh từng bước được phục hưng, nhiều lễ hội bắt đầu được tổ chức trở lại.Quá trình trùng tu di tích và phục dựng lễ hội điện Trường Bà nằm trong bối cảnh chính sách đó. 4.2.3. Bối cảnh văn hóa Tại tỉnh Quảng Ngãi, phong trào phục dựng lễ hội cũng diễn ra sôi nổi ở hầu khắp các huyện thị. Việc trùng tu di tích và phục dựng lễ hội điện Trường Bà không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong đời sống tâm linh của đa số người dân làng Xuân Khương mà còn đóng góp vào việc kiến tạo điểm nhấn/bản sắc của địa phương. 4.3. Quá trình trùng tu di tích điện Trƣờng Bà và phục dựng lễ hội 4.3.1. Quá trình trùng tu di tích Việc trùng tu di tích điện Trường Bà kéo dài trong nhiều năm, qua nhiều đợt, với sự đóng góp của nhiều thành phần xã hội, và chỉ 14
- cơ bản hoàn thành vào năm 2011. Ngay sau đó, lễ hội điện Trường Bà được nâng cấp thành lễ hội cấp huyện. 4.3.2. Quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà Trong những năm đầu thập niên 2000, việc tổ chức lễ hội điện Trường Bà do người dân làng Xuân Khương đóng vai trò chủ đạo. Phần “lễ” được bắt đầu bằng lễ mộc dục, tiếp theo là lễ tế ngoại đàn và lễ tế chánh điện. Sau lễ tế chánh điện là phần khai hội, với các hoạt động vui chơi của các tộc người anh em. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày. Từ năm 2011 đến nay, lễ hội điện Trường Bà có sự tham gia của nhiều tộc người, nhưng phần “lễ” về cơ bản vẫn theo quy trình cũ. 4.4. Một vài phát hiện qua quan sát việc phục dựng lễ hội điện Trƣờng Bà 4.4.1. Tận dụng tốt cơ hội và kịp thời ra quyết định Các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân địa phương đã không chỉ nắm vững các giá trị văn hóa truyền thống mà còn chủ động nhanh chóng nắm bắt cơ hội để đưa ra các quyết sách hợp lý để có thể đạt được mục đích đã đề ra. Trong quá trình phục dựng lễ hội, Ban Tổ chức thường xuyên lắng nghe ý kiến của người dân để có thể điều chỉnh kịp thời, khắc phục những hạn chế và nhược điểm. 4.4.2. Coi người dân là chủ thể tích cực Tuy có sự can thiệp sâu của thể chế, nhưng trên thực tế, người dân mới thực sự là chủ thể tích cực của toàn bộ quá trình trùng tu cũng như phục hồi lễ hội điện Trường Bà.Về phía người dân, trong toàn bộ quá trình tham gia trùng tu di tích cũng như tổ chức phục hồi lễ hội, sự thương thảo để tìm tiếng nói chung luôn là những nguyên tắc hàng đầu. 4.4.3. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu và quảng bá văn hóa Để có thể đạt được mục tiêu biến văn hóa thành nguồn lực cho phát triển bền vững, công tác nghiên cứu, quảng bá và tìm kiếm giải pháp phát huy giá trị văn hóa đượchết sức coi trọng. Nhiều nghiên cứu về di tích và lễ hội điện Trường Bà đã được công bố dưới dạng sách, bài viết nghiên cứu và báo chí. Hình ảnh di tích và lễ hội điện Trường Bà được quảng bá rộng rãi trên các kênh truyền thông mang lại những hiệu ứng tích cực cho quá trình phát triển của địa phương. Tiểu kết chƣơng 4 15
- Việc trùng tu di tích và phục dựng lễ hội điện Trường Bà là một quá trình công phu với nhiều chặng đường và những điểm nhấn khác nhau. Trong suốt quá trình đó, luôn có sự đồng hành/sát cánh của các bên tham gia: người dân, các cấp chính quyền, các nhà chuyên môn và giới truyền thông. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo, tổ chức và định hướng mục tiêu, nhưng chính quyền địa phương luôn tổ chức các cuộc thương thảo giữa các bên tham gia để tìm kiếm sự đồng thuận thay vì áp đặt. Việc thực hành các nghi lễ tâm linh luôn được giao cho cộng đồng người dân làng Xuân Khương chủ trì. Chính vì thế, về cơ bản, lễ hội điện Trường Bà sau khi phục dựng vẫn đảm bảo tính tôn nghiêm kính tín đối với biểu tượng tâm linh. Thông qua việc phục dựng lễ hội điện Trường Bà, một cấu trúc văn hóa mới dường như đã bước đầu được xác lập ở thị trấn Trà Xuân trong bối cảnh “từ làng lên phố”. Sợi dây tâm linh đã góp phần không nhỏ vào việc gắn kết cộng đồng ít nhiều bị biến dạng trong quá trình đổi mới của kinh tế, xã hội và môi trường. Di tích điện Trường Bà và lễ hội hàng năm ở địa chỉ tâm linh này còn góp phần không nhỏ vào việc kiến tạo bản sắc địa phương và làm làm nên dấu ấn Trà Bồng. Tìm hiểu quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà còn có thể rút ra được những bài học quý giá để có thể đạt được kết quả mong đợi: bài học trong nắm bắt cơ hội, ra quyết định chính xác vào những thời điểm thích hợp; bài học về sự tôn trọng đối vói chủ thể văn hóa; bài học trong việc huy động sự tham gia của các nhà khoa học cũng như cộng đồng truyền thông. Đặc biệt, với phép “thử và sai”, các nhà quản trị địa phương đã khẳng định lại một bài học quan trọng: mọi lễ hội dân gian đều là những sự kiện văn hóa tổng thể, và sự chắp ghép cơ học không phải bao giờ cũng mang lại sự thành công. Việc đưa lễ hội ăn trâu của người Cor vào lễ hội điện Trường Bà là một ví dụ cụ thể. Chƣơng V: PHỤC DỰNG LỄ HỘI ĐIỆN TRƢỜNG BÀ: SOI CHIẾU TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN 5.1. Phục dựng lễ hội điện Trƣờng Bà biểu hiện những chuyển biến trong nhận thức xã hội 5.1.1. Những chuyển biến thể hiện qua hệ thống chính sách 16
- Từ sau năm 1986, nhu cầu thực hành văn hóa tâm linh của người dân từng bước được thỏa mãn. Bản sắc văn hóa dân tộc luôn được đề cao, coi đó là “căn cước quốc gia”, là một trong 5 trụ cột phát triển của đất nước (kinh tế, thể chế chính trị, môi trường, xã hội và văn hóa). 5.1.2. Những biểu hiện cụ thể ở lễ hội điện Trường Bà Sau phục dựng, hạt nhân tâm linh của lễ hội điện Trường Bà vẫn được bảo lưu, nhưng các truyền thống mới cũng được bổ sung, đáp ứng những yêu cầu của sự chuyển biến xã hội. Phục dựng lễ hội được xem là công việc chung của mọi người, không phân biệt tuổi tác hay địa vị xã hội. Phụ nữ đã được tham gia đầy đủ vào một số khâu trong quá trình chuẩn bị cũng như hành lễ. 5.1.3. Quá trình “Di sản hóa” Tháng 10 năm 1993, điện Trường Bà được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh. Năm 2014 điện Trường Bà được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đến năm 2018, lễ hội điện Trường Bà được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. 5.2. Phục dựng lễ hội điện Trƣờng Bà tạo khả năng gắn kết xã hội thông qua việc xây dựng một cộng đồng liên văn hóa 5.2.1. Mục tiêu chính trị của việc phục dựng lễ hội điện Trường Bà Các tộc người thiểu số ở huyện Trà Bồng chỉ thực sự trở thành một bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam sau năm 1945. Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn hóa, nguy cơ xung đột tộc người vẫn tiềm ẩn. Việc phục dựng lễ hội điện Trường Bàđược coi là một trong những giải pháp hữu dụng nhằm giảm thiểu nguy cơ đó. 5.2.2. Lịch sử của quá trình chính trị hóa/quan phương hóa và cơ sở thực tiễn Quá trình chính trị hóa/quan phương hóa lễ hội điện Trường Bà đã diễn ra từ khi có sự can thiệp của Sở Tuần ty vào lễ hội mùa Thu. Sau này, các thể chế nhà nước đều có ý thức trong việc xây dựng một cộng đồng tưởng tượngnhằm hóa giải các xung đột, gắn kết các tộc người, ổn định xã hội và phát triển. 5.3. Mấy suy nghĩ gợi mở về “tính xác thực” 5.3.1. Về tính xác thực của lễ hội sau phục dựng Mặc dù có nhiều đồng chủ thể tham gia phục dựng, với nhiều hoạt động mới được bổ sung, các yếu tố cốt lõi của lễ hội điện Trường Bà vẫn được đảm bảo. Đó là đức tin được truyền thừa và sự 17
- chặt chẽ trong quy trình thực hiện phần tế lễ. Đây chính là hạt nhân, là tinh thần cốt lõi vủa lễ hội. Do vậy, thật khó có thể hoài nghi tính xác thực của lễ hội sau phục dựng. 5.3.2. Những bất cập trong các ngôn thuyết Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh chủ thể ban đầu của điện Trường Bà cũng như biểu tượng của vị Nữ thần được thờ phụng. Hầu hết các ngôn thuyết đều thiếu căn cứ khoa học khả tín. 5.3.3. Vai trò chủ động của người dân và xu hướng quan phương hóa Người dân là chủ thể chính của việc phục dựng lễ hội điện Trường Bà. Sự có mặt của đại diện chính quyền nhà nước không đồng nghĩa với sự áp đặt để lễ hội điện Trường Bà trở thành một hoạt động hoàn toàn bị “quan phương hóa” và trở nên đơn điệu. Quan điểm chính trị ở đây không phải là sự thay thế cho nghi lễ. Tiểu kết chƣơng 5 Việc phục dựng lễ hội điện Trường Bà phản ánh sâu sắc sự chuyển biến trong nhận thức cũng như hành vi của các tầng lớp xã hội nói chung, người dân làng Xuân Khương nói riêng. Đối với các nhà quản trị địa phương, đó là sự cập nhật các chủ trương chính sách của Trung ương và Tỉnh, trên cơ sở đó đưa ra những sáng kiến mới nhằm di sản hóa di tích và lễ hội điện Trường Bà; là chủ trương biến điện Trường Bà và lễ hội hàng năm ở đây thành nguồn lực cho phát triển du lịch; là việc mong cầu xây dựng một cộng đồng văn hóa liên tộc người nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân để ổn định và phát triển. Đối với người dân, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tâm linh và tự do trong niềm kính tín đức Thánh Bà, đó là sự cởi mở trong việc tiếp nhận các nhân tố mới của lễ hội; là sự bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội cũng như bình đẳng nam nữ; và là sự tận dụng cơ hội để chung tay cùng nhà nước phát triển kinh tế - xã hội nói chung, kinh tế du lịch nói riêng. Quá trình phục dựng lễ hội điện Trường Bà đồng thời thỏa mãn nhu cầu của các bên liên quan. Người dân tìm kiếm sự an toàn trong niềm kính tín Thánh Bà. Các doanh nhân tìm kiếm cơ hội làm giàu và sự an toàn trong buôn bán. Riêng với chính quyền các cấp, mục tiêu được nhắm đến không chỉ dừng lại ở việc di sản hóa hay phát triển kinh tế, mà cao hơn: củng cố khối đại đoàn kết toàn dân 18

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p |
335 |
18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p |
387 |
17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p |
439 |
17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p |
443 |
16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p |
302 |
12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p |
308 |
12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p |
370 |
11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p |
328 |
9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p |
254 |
8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p |
296 |
8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p |
362 |
8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p |
323 |
6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p |
278 |
5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p |
161 |
4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p |
275 |
4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p |
151 |
4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p |
176 |
3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p |
319 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
