intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tình Thanh Hoá

Chia sẻ: Nguyễn Đình Đoan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

86
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tình Thanh Hoá được nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của ngành hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu; đề xuất giải pháp từ góc độ quản lý Nhà nước để phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tình Thanh Hoá

  1. LUẬN VĂN:
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chính sách mở cửa với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá kinh  tế đối ngoại, hoạt động xuất khẩu được coi là một  lĩnh vực quan trọng của nền  kinh tế  quốc dân. Thực tế  đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để  hội nhập và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển  kinh tế. Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, là điều kiện  tiền đề để  nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm và làm  chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng  thủ  công mỹ  nghệ  xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ  công mỹ  nghệ  là ngành hàng thu hút  nhiều lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Sản phẩm thủ  công mỹ  nghệ  của Tỉnh được  ưa chuộng tại nhiều thị  trường nước ngoài. Trong những   năm qua Tỉnh uỷ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm   đẩy mạnh sản xuất hàng thủ  công mỹ  nghệ  như  phát triển làng nghề, phát triển nguồn   nhân lực, chính sách tín dụng, hỗ trợ  nghiên cứu tìm hiểu thị  trường ... Với những chính  sách và biện pháp đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Thanh Hoá đã không ngừng  tăng lên, góp phần đáng kế  vào thực hiện xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho hàng  ngàn lao động, góp phần tăng trưởng và phát triển  kinh  tế  của Tỉnh. Tuy nhiên, trong  những năm qua hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chưa đạt được kết quả như  mong muốn:  kim  ngạch xuất khẩu còn thấp, hiệu quả  chưa cao, sản xuất còn manh   mún ... chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và con người của   Tỉnh. Vì thế, câu hỏi “Làm thế  nào để  đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ  công mỹ  nghệ  tương xứng với tiềm năng của Tỉnh?” là câu hỏi lớn đang đặt ra cho các cấp uỷ  Đảng,  Chính quyền của tỉnh Thanh Hoá hiện nay. Trong  lĩnh  vực xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ  công mỹ  nghệ  nói  riêng, những năm qua đã có một số  tác giả  quan tâm nghiên cứu cả  về  lý luận và thực  tiễn. Có tác giả  nghiên cứu toàn diện hoạt động xuất khẩu từ  nội dung, hình thức và   những tác động của nó đến sự  phát triển kinh tế nói chung. Nhiều đề  tài khoa học, luận  văn của sinh viên, học viên cao học nghiên cứu về thực trạng kinh doanh xuất khẩu của   một doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên còn ít các công t rình nghiên cứu tập trang vào đánh  giá hoặc đề xuất về chủ trương, biện pháp của chính quyền tinh đối với hoạt động xuất 
  3. khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đối với Thanh Hoá, cũng đã có một số  đề  tài khoa học, luận văn thạc sỹ  nghiên   cứu về tình hình hoạt động Thương mại nói chung hoặc một số mặt hàng xuất khẩu cụ  thể của tình. Các đề tài chủ yếu tiếp cận từ phía các doanh nghiệp, các hộ  kinh doanh để  đưa ra các đề xuất nhằm phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu. Đe tài “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 ­ 2005   và giai đoạn 2006 ­ 2010” của sở  Thương mại Thanh Hoá được Tỉnh Uỷ, UBND tinh  Thanh Hoá phê duyệt và triển khai thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu  kinh tế của Thanh  Hoá theo hướng xuất khẩu, từ sản xuất các hàng hoá bán trong nước, các mặt hàng có giá  trị xuất khẩu thấp sang các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh. Nhìn chung, cho đến nay chưa có đề  tài nghiên cứu nào tập trung vào xuất khẩu   hàng thủ công mỹ nghệ, cũng như chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về các chủ  trơng, biện pháp của Tỉnh Thanh Hoá đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Góp phần vào nghiên cứu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công   mỹ  nghệ  của tỉnh  Thanh Hoá, tôi chọn đề  tài: “ơiải  pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng   thủ  công mỹ  nghệ  trên địa bàn tình Thanh Hoá” làm luận văn thạc sỹ  chuyên ngành:  Quản lý kinh tế. 2. Mục đích và nhiệm yụ nghiên cứu của đề tài a)Mục đích: ­ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của ngành hàng thủ công mỹ  nghệ xuất khẩu ­ Đe xuất giải pháp từ góc độ quản lý Nhà nước để phát triển hàng thủ  công mỹ  nghệ xuất khẩu của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay. b) Nhiệm vụ: Đe đạt mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài cần thực hiện các nội dung sau: ­ Đưa ra những luận cứ khoa học làm cơ sở và định hướng cho vấn đề nghiên cứu   thông qua hệ thống hoá lý luận về xuất khẩu, vai trò và công cụ quản lý của chính quyền  địa phương đối với đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ công   mỹ nghệ nói riêng. ­ Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ  nghệ, các chủ  tr­ ương và biện pháp của tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ  công mỹ  nghệ trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2001 ­ 2007. ­ Đề  xuất với tinh  Thanh Hoá những chủ  trương, giải pháp chủ  yếu nhằm thúc  
  4. đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2010, hướng tới năm 2020. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu: Đề tài lấy hoạt động tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất  khẩu hàng thủ  công mỹ  nghệ  và các chủ  trương, biện pháp của t inh Thanh Hoá đối với  xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm đối tượng nghiên cứu. ­ Phạm vi nghiên cứu: Đe tài giới hạn nghiên cứu các chủ trương, biện pháp của   cơ  quan Quản lý Nhà nước tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ  công  mỹ  nghệ trên địa bàn tình, các vấn đề  khác có liên quan chỉ  được đề  cập ở  mức độ  cần   thiết để đảm bảo tính đồng bộ, tổng thể của vấn đề nghiên cứu. Thời gian: thực trạng từ  2001 ­ 2007, giải pháp đến năm 2010, hướng tới năm   2020 và những năm tiếp sau. 4.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu này là: phương pháp duy vật   biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ  thể  bao gồm: phương pháp   thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp khung logic, nghiên cứu so sánh, phỏng vấn. Các thông tin, số liệu phục vụ cho nghiên cứu này chủ yếu là các số liệu thứ cấp   tò các báo cáo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tình, các sở, ban ngành của tình; các kết quả  nghiên cứu của một số đề tài nghiên cứu đã được công bố. Các số liệu sơ  cấp được thu thập bổ  sung cho nghiên cứu qua phỏng vấn sâu do   tác giả luận văn thực hiện trong năm 2007­2008. Đối tượng phỏng vấn là các nhà quản lý   ở  tỉnh, huyện và một số  làng nghề; một số  doanh nghiệp, chủ  hộ  sản xuất   kinh  doanh  hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, một số doanh nghiệp thương mại. 5.Dự kiến những đóng góp của đề tài Đe tài nghiên cứu có một số đóng góp chính sau đây: ­ Đề tài góp phần hệ thống hoá và phát triển một bước những vấn đề cơ  bản về  hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ  công mỹ  nghệ  nói riêng của  tỉnh, vai trò và công cụ của chính quyền tinh đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu. ­ Bằng cách tiếp cận hệ  thống, logic đề  tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng   hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá; phân tích đánh giá các   chủ  trương, biện pháp mà tinh Thanh Hoá đã thực hiện trong những năm qua nhằm đẩy   mạnh hoạt động xuất khẩu. ­ Đề  xuất, kiến nghị  với chính quyền Tỉnh một số  giải pháp chủ  yếu góp phần   đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010,  
  5. hướng tới năm 2020. 6.Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết  cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tình Thanh Hoá giai  đoạn 2001 ­ 2007 Chương 3:  Phương hướng và giải pháp cơ  bản đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ  công mỹ nghệ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, hướng tới năm 2020. Chương 1 Những vấn đề Ctf bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 1.1. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam có truyền thống hàng trăm hàng ngàn năm, gắn  liền với tên những làng nghề phố  nghề, được biểu hiện qua những sản phẩm độc đáo ­   tinh xảo ­ hoàn mỹ. Từ thế kỷ XI dưới thời Lý việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã  được thực hiện. Khi đó các sản phẩm chỉ bao gồm: gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy đó, tơ lụa,   đồ  bạc, sừng, ngà... Qua 11 thế  kỷ  các phường thợ, làng nghề  truyền thống đã trải qua  nhiều bước thăng trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc, dệt quai thao) nhưng bên   cạnh đó cũng có một số làng nghề mới xuất hiện và phát triển. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như đồ gốm sứ, sơn  mài, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa, đồ bạc, ngà, sừng... nổi tiếng trên thế giới nhờ những nét độc  đáo mang đậm sắc thái văn hoá dân tộc, những đường nét hoa văn tinh tế qua bàn tay khéo  léo, tinh xảo của các nghệ nhân. Gắn liền với những sản phẩm đó là các làng nghề truyền  thống đã tồn tại và phát triển từ ngàn đời nay và đã trở thành một trong những di sản văn  hoá quý báu của dân tộc Việt Nam. Ngày nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, trong đó  có nhiều sản phẩm của các làng nghề truyền thống, đã có mặt và được ưa chuộng trên thị  trường thế giới. 1.1.1. Vai trò, đặc điểm của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ a) Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Xuất khẩu và nhập khẩu là 2  lĩnh  vực hoạt động có mối quan hệ  chặt chẽ  với  nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển trong một tổng thể  thống nhất biện chứng. Do   mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu rất chặt chẽ với nhau nên mỗi quốc gia, mỗi   địa phương thường biểu thị  mối quan hệ  đó thông qua cán cân thương mại tức là bảng  
  6. cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia và địa phương đó. Đe phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong điều kiện tiến bộ khoa học công   nghệ, mở rộng phạm vi phân công lao động xã hội, quốc tế hoá đời sống kinh tế thì phát  triển xuất khẩu thường được coi là lĩnh vực quan trọng nhất để tận dụng tài nguyên thiên  nhiên, lực lượng lao động đông đảo tạo ra việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống  nhân  dân. Bởi vậy xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng chiếm vị  trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế  của địa phương, của doanh nghiệp, trở  thảnh đòn treo quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế  phát triển. Vai trò to lớn của  xuất khẩu hàng hoá thể hiện ở các nội dung: Thủ   nhất,   xuất  khẩu  tạo   nguồn  vốn  ngoại  tệ   cho  nhập  khẩu   và   phục   vụ  sự  nghiệp công nghiệp hoả. Xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng tạo nguồn vốn  ngoại tệ  cho nhập khẩu và phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hoá của địa phương, doanh   nghiệp. Công nghiệp hoá tạo ra lợi ích giúp các ngành công nghiệp phát triển, sản xuất   phát triển, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp  ở  các địa phương hiện nay,   khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của các địa phương. Công nghiệp hoá   nhanh trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc  thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Các nguồn vốn nước ngoài như  vay, viện trợ... tuy quan trọng nhưng cuối cùng   cũng phải trả  bằng cách này hay cách khác, trong khi đó ngân sách của Trung  ương cấp  ngày càng hạn hẹp. Nguồn vốn quan trọng nhất  để  nhập khẩu, công nghiệp hoá địa  phương là tích cực đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ để có ngoại tệ nhập  khẩu. Bởi vậy xuất khẩu của các địa phương quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập   khẩu, quyết định tốc độ công nghiệp hoá của chính địa phương đó. Thủ  hai, xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, thúc đẩy kỉnh tế  phát   ừiểri. ở  góc độ  địa phương, hiện nay vẫn tồn tại cách nhìn nhận về  tác động của xuất  khẩu đối với sự phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: ­ Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu, nếu   chỉ  thụ  động chờ  sự  “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ  nhỏ  bé, tăng trưởng   chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế hạn chế. ­ Thị trường quốc tế  là hướng quan trọng để  tổ  chức sản xuất, xuất khẩu do đó   cần xuất phát từ  nhu cầu thị  trường quốc tế  để  tổ  chức sản xuất. Điều này sẽ  có tác 
  7. dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động   của xuất khẩu thể hiện: (1) Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ  hội  phát triển thuận lợi. Chẳng hạn nếu phát triển xuất khẩu TCMN tức là tạo cơ  hội cho  các ngành trồng cói, đay... và các vùng nguyên liệu phát triển, sẽ phát triển các làng nghề  về TCMN. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho   sản xuất. (2) Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên  năng lực sản xuất. Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn, kỹ thuật và công nghệ  tiên tiến từ nước ngoài vào doanh nghiệp sản xuất. Thứ ba, xuất khẩu góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sổng, giảm bớt tệ nạn xã hội. Tác động của xuất khẩu đối với xã hội bao gồm nhiều mặt, trước hết thúc đẩy   các ngành sản xuất phục hồi và phát triển, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng   vạn lao động thủ  công, tạo việc làm có thu nhập  ổn định. Góp phần giải quyết nỗi lo   không có việc làm của thanh niên và các tầng lớp xã hội khác. Xuất khẩu còn tạo ra   nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một   phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy quan hệ kỉnh tế đổi ngoại. Xuất khẩu là một hoạt động có sớm hơn các hoạt động kinh tế  đối ngoại khác,  tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ  này phát triển. Chính sách xuất khẩu hàng hoá thúc  đẩy quan hệ tín dựng, đầu tư, mở rộng thị trường du lịch, vận tải quốc tế... Mặt khác các   quan hệ này lại tạo điều kiện để  mở  rộng xuất khẩu, kinh tế phát triển và gắn bó chặt  chẽ với phân công lao động quốc tế. Thủ  năm, xuất khẩu là nhân tố  thúc đẩy các doanh nghiệp luôn đổi mới và hoàn   thiện quản lý sản xuất kinh doanh. Với những lý do đã trình bày  ở  trên cho thấy xuất khẩu hàng hoá nói chung và   hàng TCMN nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để  phát triển   kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ  hội để tham   gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm.  Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với  thị trường. Do cạnh tranh sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi   mới, hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời xuất khẩu giúp doanh nghiệp có 
  8. ngoại tệ để tái đầu tư cho quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm   việc, tạo ra thu nhập ổn định, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu sản xuất và tiêu   dùng cần thiết, vừa  đáp  ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi   nhuận. Ngoài ra khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có cơ  hội mở  rộng   buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ  sở đảm bảo lợi ích cho tất cả  các bên, tăng doanh số và lợi nhuận; đồng thời phân tán và chia sẻ  rủi ro, mất mát trong   hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín của doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của   doanh nghiệp trên thương trường. Xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới  kinh doanh của doanh nghiệp,   chẳng hạn như  hoạt  động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất,   marketing cũng như sự phân bố và mở rộng trong việc cấp giấy phép. Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc tạo nguồn vốn chủ yếu để đầu tư, mua  sắm mở  rộng  kinh  doanh, trang bị  máy móc, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu thiết bị,   nguyên vật liệu, đổi mới dây chuyền công nghệ... Có thể nói hoạt động xuất khẩu đóng   vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Hàng thủ  công mỹ  nghệ  là những sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc nên   không những chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn là những sản phẩm văn hoá phục vụ  đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng thủ  công mỹ  nghệ  ngày  càng gia tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Vì vậy, cần tận dụng những điểm mạnh có  được để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là việc làm cần thiết  vì không những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn tạo được nhiều công ăn   việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Do hàng thủ công mỹ nghệ  được sản xuất chủ  yếu từ  nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước và nguyên liệu nhập   khẩu thường không đáng kể  nên xuất khẩu hàng thủ  công mỹ  nghệ  đạt mức thực thu  ngoại tệ  rất cao, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động nông thôn.   Mặt khác, hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ  nghệ đều mang những giá trị văn hoá, lịch   sử  nhất định nên việc xuất khẩu các mặt hàng này cũng có một vai trò không nhỏ  trong   việc truyền bá, giao lưu văn hoá Việt Nam đến các nước trên thế giới. b) Đặc điểm xuất khẩu hàng TCMN ­ Đặc điểm về sản phẩm: Đặc điểm nổi bật về  sản phẩm hàng TCMN chủ  yếu và phổ  biến là sản phẩm 
  9. thủ công truyền thống in đậm sắc thái văn hoá trong sản phẩm. Sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày; phần lớn   quá trình sản xuất bằng tay, riêng công đoạn hỗ  trợ  có thể  sử  dụng máy móc; sản xuất   dựa trên kỹ thuật hay công nghệ truyền thống (có từ 100 năm về trước) nhưng có thể tiến  hành cải tiến kỹ  thuật hay công nghệ  mà không  ảnh hưởng cơ  bản đến sản phẩm thủ  công đó; sử dụng phần lớn nguyên liệu truyền thống có tại địa phương. Sản phẩm hàng thủ công mỹ  nghệ của các làng nghề truyền thống đều là sự  kết   giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm đều   mang tính cá biệt và có sắc thái đặc trưng riêng của mỗi một làng nghề. Cùng là đồ gốm   sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt đâu là gốm, sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc   Ninh) với Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ  ở các đình, chùa, hoa  văn trên các trống đồng đến những nét chấm phá trên các bức thêu... đều mang vóc dáng   dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn  và tín ngưỡng tôn giáo của từng vừng. Các sản phẩm hàng TCMN vừa có giá trị  sử  dựng vừa có giá trị  thẩm mỹ  cao,  nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền,   chùa,... Người thợ  thủ  công sản xuất hàng thủ  công, trước hết là do yêu cầu  kinh tế  và  nguồn sống của mình. Do đó, sản phẩm thủ  công truyền thống tự  thân đã là sản phẩm   hàng hoá. Đó là các sản phẩm có giá trị kinh tế, nhưng đậm nét mỹ thuật, mỹ nghệ duyên  dáng, thanh thoát bởi đó là sự kết hợp khéo léo, nhuần nhị vẻ đẹp nghệ  thuật cổ với vẻ  đẹp cách tân rất hiện đại, vừa sâu lắng, tinh tế lại vừa bóng bẩy. Chứng được mua bán,  trao đổi với số lượng lớn trên thị trường trong nước và quốc tế, đem lại nguồn lợi  kinh tế  cho đất nước, cho doanh nghiệp cũng như cho người thợ ở các làng nghề. ­ Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Hiện nay, sản phẩm hàng thủ  công mỹ  nghệ  không chỉ  tiêu dùng trong nước mà  còn được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới. Sản phẩm hàng thủ  công mỹ  nghệ  rất khác nhau, mang nét đặc trưng của làng  nghề  và thoả  mãn những nhu cầu riêng biệt của con người, do vậy mỗi làng nghề  đều   hướng tới những thị trường riêng. Vì vậy, sự thăng trầm trong thị trường tiêu thụ của các   làng nghề cũng phụ thuộc vào sự thăng trầm của từng thị trường đó. Sản phẩm hàng TCMN hiện nay không chỉ có khả năng đáp ứng được nhu cầu đa  dạng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước, có khả  năng đáp  ứng được  nhu cầu của thị trường thế giới.
  10. ­ Đặc điểm về vốn và quan hệ tín dụng: Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho các làng nghề hoạt động được  trong cơ  chế  thị  trường, vốn là yếu tố  quan trọng giúp các cơ  sở   ở  các làng nghề  mua   sắm nguyên liệu, dựng cụ sản xuất, trả công cho lao động... vốn đảm bảo cho quá t rình  sản xuất ở các làng nghề diễn ra liên tục. Mặt khác, vốn còn là yếu tố giúp các cơ sở của   các làng nghề  đầu tư  máy móc thiết bị, mở  rộng quy mô sản xuất đi lên sản xuất lớn.   Nhu cầu về  vốn cho sản xuất  kinh doanh  ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để sản   xuất hàng xuất khẩu. Đa số  nguồn vốn sản xuất của các làng nghề  hiện nay là của cá  nhân hoặc hộ gia đình. Các nguồn vốn chủ yếu trong các làng nghề hiện nay gồm nhiều   hình thức nhưng chủ yếu là hai hình thức: vốn tự có và vốn vay. Vốn tự  có hiện chiếm vị  trí đặc biệt quan trọng trong các làng nghề, đặc biệt   trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế vay vốn đang gặp nhiều bất cập. Tuy nhiên, để đảm  bảo làng nghề phát triển, không thể dựa hoàn toàn vào nguồn vốn tự có được, do lượng   vốn này quá nhỏ so với yêu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. Đặc biệt,   đối với các cơ  sở  sản xuất đã chuyên môn hoá, cần mở  rộng phát triển sản xuất luôn đi   cùng với đôỉ mới công nghệ, tạo lập mặt bằng nhà xưởng. Vốn vay đang có nhu cầu ngày càng tăng. Việc đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng  hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như đào tạo công nhân đòi hỏi cũng   phải có vốn đầu tư. vốn tự có trong các cơ sở sản xuất của làng nghề không đáng kể so   với nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt do đổi mới công nghệ hay mở rộng quy   mô sản xuất. Bởi vậy, vốn vay hiện nay chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển   làng nghề nói riêng cũng như ngành nghề nông thôn nói chung. Tại các làng nghề hiện nay quy mô vốn của đa số các cơ sở còn nhỏ, mức độ đầu   tư cho tài sản cố định còn thấp, nhiều cơ sở thiếu vốn nhưng lại không có nhiều cơ  hội   để tiếp cận các nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi; đã xuất hiện một   số hộ và cá nhân có vốn đứng ra làm “chủ bao mua”, “cai đầu dài”, làm đại lý cung ứng   nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm cho cả làng. Nhiều “ông cai” có trong tay từ hàng trăm   triệu đồng đến hàng tỷ đồng. Những nguời này có quan hệ với chủ bao mua lớn ở các đô  thị  như  Hà Nội, Thành phố  HCM và hiểu rõ nhất các kênh cung  ứng và xuất khẩu hàng   thủ công mỹ nghệ. 1.1.2. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ ạ)  Cơ cẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ
  11. Ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có thể được phân loại thành 10 tiểu ngành, gồm các nhóm cơ bản dưới đây: ­ Tre, mây, cói, lá ­ Gốm ­Gỗ ­ Thêu ­Dệt ­ Kim loại ­ Giấy thủ công ­ Các loại nguyên liệu khác nhau ­ Tác phẩm nghệ thuật ­ Khác Theo báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan hợp   tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thì sản xuất hàng thủ  công ở  tất cả  những tiểu ngành này   chủ yếu dựa trên một hệ thống gồm 2.017 làng nghề trên toàn quốc. Trong 10 nhóm hàng  nêu trên, có các nhóm hàng cần quan tâm là: * Tre, mây, cỏi và lá Từ nguồn dồi dào nguyên liệu thô ở các địa phương như tre, mây, cói và lá và cũng   gồm có các nguyên liệu thô như  guột, bèo tây, chuối hoặc rơm, Việt Nam sản xuất ra   những đồ  dùng trong gia đình như  rổ, nôi, va­li, túi mua hàng, thảm lót (đĩa, cốc), bình  phong và nhiều vật dụng khác. Các sản phẩm được phục vụ  cho mục đích sử  dụng và  trang trí, sản phẩm rất đa dạng, phục vụ những thị hiếu khác nhau của khách hàng. Sản   phẩm đan thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các sản phẩm này được sản xuất  ở  nhiều tỉnh, thảnh  phố  trên cả  nước nhưng hầu hết tập trung  ở  Hà Tây, Hà Nam, Thái   Bình, Thanh Hoá, Khánh Hoà, Tiền Giang. Trong các năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm   thủ  công từ  nguyên liệu bèo tây đã phát triển nở  rộ. Có nhiều làng nghề   ở  các t ỉnh phía  nam như Tiền Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chuyên  về  các sản phẩm từ  bèo tây. Hoạt động cung cấp nguyên liệu như  tre, mây, lá là một   ngành tự thân có tầm quan trọng đặc biệt đối với thu nhập  ở vùng nông thôn. Tuy nhiên,  các nguyên liệu thô dồi dào trước kia ngày càng trở  nên khan hiếm. Việt Nam hiện phải   nhập khẩu tre từ  Trung Quốc và mây từ  Lào, Campuchia và In­đô­nê­xi­a. Nguyên liệu  mây càn phải có sự lưu tâm đặc biệt do nó có truyền thống rất lâu đời. Việt Nam đã luôn   được nhìn nhận là một đất nước của mây (đứng thứ ba chỉ sau In­đô­nê­xi­a và Ma­lai­xi­
  12. a) và người Việt Nam rất giỏi chế tạo các sản phẩm không chỉ  từ  các giỏ  đan làm bằng   mây mà còn cả  những đồ  dùng bằng mây sử  dựng trong nhà và ngoài trời. Ghế, bàn và   ngăn kéo mây sản xuất ở Việt Nam đã trở nên rất phổ biến ở nhiều nước như Đức, Italia  và Mỹ với nhu cầu thậm chí còn đang tăng lên. * Gốm sứ Nghề  gốm của Việt Nam có thể  được chia ra làm 04 nhóm chính: Bộ  đồ  ăn, bình   và lọ hoa, tượng và những vật dụng trang trí khác. Tuỳ thuộc vào công nghệ và nhiệt độ  nung mà các sản phẩm sẽ là gốm, sứ. sành hay đất nung. Nghề gốm đã có ở Việt Nam từ  hàng ngàn năm nay và các cơ sở sản xuất gốm phân bổ trên khắp cả nước. Tuy nhiên, một   số  trung tâm sản xuất sản phẩm gốm lớn nằm  ở Hà Nội (Bát Tràng), Đồng Nai và Bình  Dương. Gần đây, các sản phẩm nghệ thuật làm từ  sành phục vụ nhu cầu trang trí nhà và   vườn đã phát triển mạnh ở các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long, Hà Nam và Bắc Ninh và đã thu   hút được sự chú ý đặc biệt của các nhà nhập khẩu trên khắp thế giới. * Thêu ren và các sản phẩm dệt Các sản phẩm thêu ren bằng tay hầu hết là khăn trải bàn, quần áo, váy, túi và   những vật dụng sử dụng thông thường. Những sản phẩm này được tạo ra chủ yếu ở các  làng nghề trong các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam. Trước kia, những sản   phẩm này chủ  yếu được xuất khẩu sang các nước Đông Âu nhưng ngày nay, thị  trường   xuất khẩu đã mở rộng sang nhiều nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italia.  Các nhà xuất khẩu sản phẩm này gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thâm nhập thị  trường mới và cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất bằng máy từ các nhà máy của Trung   Quốc. Sản phẩm dệt  ở  Việt Nam được tạo ra từ  432 làng nghề, trong đó có nhiều sản   phẩm tò các dân tộc thiểu số. Các nguyên liệu sử dụng phổ biến là lụa,  cotton, len và sợi  lanh. Hầu hết 90% các làng nghề dệt đan phân bổ ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là khu vực  đồng bằng Sông Hồng. Quy mô sản phẩm dệt nhìn chung không đa dạng và hầu hết thành  phẩm có giá trị  gia tăng thấp. Sản phẩm từ  lụa và   cotton  là các nguồn thu nhập chính.  Khăn tay làm từ  cotton (ở Thái Bình, Hà Tây, Nam Định...), sản phẩm dùng trong nhà tắm  và nhà bếp làm từ  các nguyên liệu dệt khác (Ninh Bình, Hà Tây...) là một số  những sản  phẩm dệt có tiềm năng xuất khẩu cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết các nguyên liệu cotton thô   đều phải nhập khẩu. Nhóm khác gồm có các dân tộc thiểu số sống  ở các khu vực miền   núi sử dụng các khung cửi và một số nguyên liệu đặc biệt và nhuộm màu tự nhiên. Đây là  các nhóm sản phẩm có tiềm năng phát triển rất tốt nếu chúng ta phát triển các thị trường 
  13. ngách cũng như  tập trung vào thị  trường thương mại bình đẳng. Do những khó khăn về  nguồn nguyên liệu thô, các nhà sản xuất đang ngày càng sử  dựng các nguyên liệu thô   nhập khẩu giá rẻ, điều này sẽ làm giảm chất lượng các sản phẩm. Đối với các sản phẩm   dệt và các sản phẩm của người thiểu số  định hướng để  xuất khẩu, điều vô cùng quan  trọng quyết định đến thành công là sự  sẵn có của nguyên liệu thô chất lượng cao, cải   thiện chất lượng và phát triển thị trường * Sản phẩm đá quý và kim loại Các vật phẩm dùng để trang trí và sản phẩm quà tặng làm từ kim loại như tượng   nhỏ, đồ trang sức, chuông, chiêng và khung tranh. Trong số những sản phẩm này, các vật   dụng như đồ mạ bạc, đồ đồng chế  tác và đồ  đúc bằng đồng thiếc được xuất khẩu. Gần  đây, sản phẩm chế tác đồng đã tăng mạnh về   kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt do sự  kết   hợp giữa sản phẩm đồng chế tác với các nguyên liệu tự nhiên khác như  mây, bèo tây và   các nguyên liệu khác. Trên cơ  sở  kết hợp nguyên liệu này, có thể  tạo ra nhiều loại sản   phẩm đa dạng trong thời điểm hiện nay. Có 45 làng nghề chạm khảm/tạc đá trong nước.   Mặc dù 90% phân bổ ở miền Bắc, nhưng những làng nghề nổi tiếng nhất cả trong nước  và quốc tế lại thuộc khu vực miền Trung (thành phố Đà Nằng). Thiết kế đang thịnh hành   về chạm khảm đá cơ bản tập trung vào hình ảnh tôn giáo, tượng phật, tượng người, động   vật và dụng cụ trong nhà. Thẳm mỹ  của những thiết kế này cơ  bản thiên về  châu á. Đá  rắn chủ  yếu được sử  dụng đối với các sản phẩm truyền thống như  hình  ảnh về  phật,  hình  ảnh động vật truyền thống, các cột kiến trúc trang trí, lồng cầu thang... Nhiều thiết   kế  có thể  được áp dụng đối với các loại đá mềm. Đá trắng có thể  được nhuộm th ảnh  nhiều màu khác nhau, do đó, có thể tương thích với những thiết kế đa dạng. Những sản  phẩm từ  đá cho EU, Hoa Kỳ  và Canađa gồm có tượng và các vật dụng trong vườn. Sử  dụng đá mềm đang có xu hướng tăng lên. Các nhà mua hàng nước ngoài thường thích  những thiết kế đơn giản và chưa hoàn thiện trên các sản phẩm đá thủ công. * Gỗ mỹ nghệ Nhóm sản phẩm có ưu thế lớn của ngành gỗ là đồ dùng trong nhà, chiếm hơn 70%   kim ngạch xuất khẩu. Hầu hết hoạt động sản xuất đồ dùng làm từ gỗ tập trung ở các t inh  khu vực phía Bắc của Việt Nam như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Hà Tây,   trong khi đó thì ngành chế  biến gỗ  công nghiệp lại chủ  yếu tập trung  ở  các tỉnh miền   Trung và miền Nam. Các nhóm sản phẩm quan trọng tập trung vào sản phẩm bàn và đồ  bếp. ở Việt Nam, những sản phẩm này chủ yếu được làm từ gỗ nhẹ hơn như gỗ thông và   gỗ  thích. Cũng có các hoạt động sản xuất lớn về  các phụ  kiện như  khung tranh, khung  
  14. ảnh, khung gương. Một số các sản phẩm thủ công đồ gỗ đòi hỏi sự tinh xảo như tượng,  gỗ  chạm khảm đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt phục vụ  cho các thị  trường châu á   như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. b) Phân loại các sản phẩm thủ công mỹ nghệ ­ Phân loại theo tỉnh chất của sản phẩm, có hai nhóm lớn: Nhóm các sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: chạm,   khảm vàng ­ bạc, chạm khảm gỗ, đồ  sơn mài, tranh dân gian, đồ  gốm mỹ  nghệ, lụa tơ  tằm, thổ cẩm, thêu... Đây là nhóm các mặt hàng không thể mất vị trí trong quá trình CNH,  HĐH bởi sản phẩm mang tính nghệ  thuật, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc  được. Đối với các nghề và làng nghề sản xuất các mặt hàng này, chứng ta cần phải phát   huy được công nghệ  truyền thống, động viên được các nghệ  nhân tích cực truyền nghề  để tránh đứt gãy nghề truyền thống, song vẫn cần phải sử dụng một số yếu tố k ỹ thu ật   hiện đại vào những khâu sản xuất cần thiết, nhưng chủ yếu là cải tiến, nhằm giảm nhẹ  sức người, nâng cao hiệu quả công nghệ truyền thống và sự sáng tạo của nghệ nhân. Nhóm các sản phẩm mà phần nhiều mang giá trị  sử  dụng như  gạch, ngói thông  dụng, dệt may thông dụng, nông cụ, đồ gỗ thông dụng, các hàng nhựa ­ cao su ­ thuỷ tinh,   đường kẹo, nước chấm... Nhìn về tương lai, những làng nghề sản xuất các mặt hàng này   sẽ  bị  sức ép mạnh của kỹ  thuật và công nghệ  hiện đại.. Bởi thế, những nghề  và làng   nghề  đó cần được đầu tư  đổi mới công nghệ, đi dần vào guồng máy công nghiệp hiện   đại. ­ Phân loại theo mục đích sản xuất, có 3 nhóm sản phẩm: Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu đáp  ứng nhu cầu của   khách hàng quốc tế (xuất khẩu qua hải quan và xuất khẩu tại chỗ cho khách du lịch quốc   tế). Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích tiêu thụ trên thị trường trong nước,   đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước. Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính gia đình  sản xuất tự sản tự tiêu (phần sản phẩm này chiếm tỷ trọng rất nhỏ). ­ Phân loại theo định hướng khách hàng tiêu thụ, cỏ 3 nhóm sản phẩm cơ bản: Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trang trí trong các gia đình hoặc văn phòng, khách sạn, nhà hàng,... Nhóm sản phẩm này chủ yếu là hàng TCMN tinh  xảo, có tính dị  biệt cao đáp  ứng nhu cầu các thị  trường “ngách” đa dạng trong và ngoài  nước.
  15. Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp  ứng nhu cầu ăn, mặc,  ở, đi, lại và sử  dụng làm phương tiện sinh hoạt của con người... Đây là các sản phẩm được sản xuất  hàng loạt với các tập khách hàng tương đối lớn và thông dụng, t ính dị biệt của sản phẩm   không cao. Các sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất như nguyên liêu, công cụ... Hiện nay, phạm vi hoạt động kinh doanh của không ít làng nghề không còn bó hẹp   trong từng địa phương như trước đây nữa mà đã trở nên rộng rãi, ở cả quy mô quốc gia và   quốc tế.  ở  hầu hết các làng nghề, tính  chất “bí truyền” đã bị  phá vỡ, nên công nghệ  truyền thống từ  “làng gốc” đã phát triển sang các làng nghề  khác trong xã, trong vùng,   hình thành nên các xã nghề, vùng nghề, các cụm công nghiệp làng nghề. Vì thế, quy mô  sản phẩm hàng hoá của các làng nghề truyền thống ngày càng lớn, chuyển sang sản xuất   hàng loạt. ­ Phân loại theo quốc tịch của khách hàng: Các tập khách hàng quốc tế  (đối với các sản phẩm xuất khẩu qua biên giới và  xuất khẩu tại chỗ) gồm: các nhà nhập khẩu nước ngoài, các nhà sản xuất và người tiêu   dùng có quốc tịch nước ngoài. Các tập khách hàng trong nước gồm: các nhà sản xuất trong nước (đối với các sản  phẩm là nguyên liệu, vật liệu, công cụ  sản xuất ...); các doanh nghiệp kinh doanh xuất   nhập khẩu, các doanh nghiệp và chủ đầu tư  xây dựng (đối với các sản phẩm là vật liệu  xây dựng, trang trí nội thất); người tiêu dùng  ở  các đô thị  và nông thôn (đối với các sản   phẩm thủ  công mỹ  nghệ  và hàng tiêu dùng đáp  ứng nhu cầu thẩm mỹ, ăn,  ở, đi lại của   dân cư...). ­ Phân loại theo hình thức lưu thông phân phổi và tiêu dùng, có các tập khách hàng sau: Các nhà nhập khẩu nước ngoài trực tiếp ký hợp đồng tiêu thụ  sản phẩm với các  doanh nghiệp ở các làng nghề truyền thống. Các doang nghiệp  kinh  doanh xuất nhập khẩu Việt Nam ký hợp đồng cung cấp  nguyên liệu thu mua sản phẩm để  sản xuất hoặc hợp đồng thu mua gom sản phẩm của   các làng nghề xuất khẩu. Các thương nhân ở các đô thị lớn ký hợp đồng. 1.1.3. Các chủ thể tổ chức sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Tất cả các nhóm ngành chính về gỗ, mây, tre, cói, gốm, dệt, thêu và sơn mài thông   thường được sản xuất thông qua các hộ  gia đình nhỏ  trong làng nghề.  Nguyên liệu thô 
  16. hoặc là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu (các nhóm nguyên liệu như  mây, tre,  cói, chạm khắc gỗ, gốm...) thường được các cá nhân hoặc các hộ  sản xuất đơn lẻ  trực  tiếp khai thác và thu hoạch từ các khu rừng lân cận ở các địa phương hoặc ở các tỉnh khác   trong nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho những người thu gom với giá rất thấp để  kiếm sống hàng ngày. Đối với các sản phẩm khác như  dệt và thêu, hầu hết nguyên liệu   thô gồm có vải hoặc chỉ được nhập khẩu do nguyên liệu sẵn có trong nước chất lượng   thấp. Tơ Việt Nam có chất lượng tốt nhưng kỹ thuật nhuộm lại không đảm bảo. ­ Doanh nghiệp thu gom nguyên liệu  thu thập nguyên liệu thô từ  những nhà sản  xuất nguyên liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên liệu tới các  nhà bán buôn ở các tỉnh. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này làm cho kênh   nguyên liệu thô trở nên phức tạp và làm nâng giá mặt bằng sản xuất. ­ Doanh nghiệp xử  lý nguyên liệu thô thu mua nguyên liệu từ  những nhà thu gom  hay những người bán buôn  ở  các tỉnh. Họ  hoàn toàn khác những nhà sản xuất nguyên  liệu/thu gom nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia vào nhiều hơn khâu xử  lý và bán  nguyên liệu đã được chế biến ­ Nhà sản xuất chủ yếu là các hộ gia đình  tại làng nghề  ở các khu vực nông thôn,   đây là lực lượng lao động chính trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Ngành gốm phát  triển ở mức độ cao hơn với sự xuất hiện của nhiều nhà máy tuyển dụng các lao động làm  việc dài hạn. Mặc dù mức thu nhập vẫn còn thấp, nhưng sản xuất hàng thủ  công vẫn mang lại  cho các hộ nhỏ kiếm được nguồn thu phi nông nghiệp bền vững bên cạnh việc sản xuất   lương thực cơ bản. Trong nhiều trường hợp, thu nhập từ sản xu ất hàng thủ công cao hơn  so với sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, với công việc đan ghế  mây, một người nông   dân có thể kiếm được trung bình 20.000 đồng/ngày (tương đương với 1 euro), số tiền này   gấp hai lần so với việc người đó kiếm được từ  sản xuất lúa trên diện tích gieo trồng  trung bình là 360 m2. Mức thu nhập thay đổi từ  một nhóm sản phẩm này so với nhóm sản phẩm khác,   với những người sản xuất đồ  nội thất, tỷ  lệ  trung bình là 1,5 đôla Mỹ/ngày (thuộc diện  thu nhập cao) trong khi ở tiểu ngành thêu lại có mức thu nhập ở mức thấp nhất với trung   bình khoảng 0,55 đôla Mỹ/ngày. Sản xuất theo kiểu gia đình  ở  các khu vực nông thôn thực sự  rẻ  hơn so với sản   xuất tại nhà máy ở các thành phố lớn. Người thu gom sản phẩm là những người sống tại các làng nghề và có vai trò như 
  17. cầu nối giữa những thương gia kinh doanh mặt hàng này với các nhà sản xuất. Họ  giữ  trọng trách đối với nhiều loại công việc, từ  cung cấp nguyên liệu cho người sản xuất   (không thường xuyên), giám sát sản xuất, thu gom hàng và đôi khi họ cũng phụ trách khâu   hoàn thiện sản phẩm (xử lý, nhuộm màu...) và đóng gói. Cơ sở kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn là những doanh nghiệp sản xuất quy   mô nhỏ đặt tại các làng và có nhiều nhân công, có trang thiết bị căn bản và cũng thực hiện   hoạt động thu gom sản phẩm, giám sát sản xuất và hoạt động hoàn thiện sản phẩm. Doanh nghiệp cung cấp máy móc hiện tại không có vai trò lớn do trang thiết bị sử  dụng trong ngành thủ  công mỹ  nghệ  rất đơn giản, chỉ  bao gồm lò nung gốm, máy sấy,  máy tiện, máy nặn, máy may nhỏ, máy khoan, thiết bị phun dùng cho sản xuất đồ nội thất  hoặc máy may cho sản phẩm dệt... Doanh nghiệp xuất khẩu  tìm kiếm nguồn hàng từ  các nhà sản xuất  ở  các làng   nghề, các nhà thu gom sản phẩm hoặc các nhà   kinh  doanh sản phẩm này  ở  nông thôn.  Hầu hết các đơn hàng thực hiện theo hình thức hợp đồng phụ  (subcon tract) với các nhà   sản xuất. Trong một số  trường hợp, các nhà xuất khẩu cũng cung cấp cho các nhà sản   xuất ở các làng nghề nguyên liệu thô hoặc những cấu phần được làm sẵn. Một phàn của hoạt động sản xuất đang ngày càng có xu hướng được thực hiện tại   nhà máy của các nhà xuất khẩu (sản phẩm cần những kỹ năng hoặc trang thiết bị đặc   biệt, khâu hoàn thiện sản phẩm, sản xuất những cấu phàn làm sẵn cho những thợ dệt và   thợ gốm đòi hỏi công nghệ hiện đại) với lực lượng lao động gồm vài trăm, thậm chí hàng   ngàn người. Trước đây, các nhà xuất khẩu hàng thủ công ở một số thành phố chính và các t inh  khác hầu như đều là những doanh nghiệp nhà nước. Vài năm trở  lại đây, có sự  gia tăng  nhanh chóng về số lượng các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân hoạt động  kinh doanh  rất thành công và đang cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp quốc doanh. Các nhà xuất  khẩu khu vực tư nhân có tầm quan trọng ngày càng tăng. Doanh nghiệp nhập khẩu hầu hết là những nhà bán buôn ở Châu Âu, Châu á hoặc  Chây Mỹ, các cửa hàng lớn ở nước ngoài và những chuỗi bán lẻ mua trực tiếp từ các nhà  sản xuất hoặc xuất khẩu của Việt Nam. Một số khách hàng quốc tế  có đại lý hoặc văn  phòng đại diện ở Việt Nam để tìm kiếm các sảm phẩm thủ công. Một vài người trong số  họ  là những doanh nghiệp lớn có thương hiệu nổi tiếng trên thế  giới. Những công ty   nước ngoài này có vai trò quan trọng trên thị trường và họ mua với số lượng lớn. Toàn bộ  khối lượng xuất khẩu hàng thủ  công Việt Nam hiện nay phụ  thuộc lớn  
  18. vào một số rất ít những nhà mua hàng lớn. Một chuỗi bán lẻ   ở  Châu Âu chiếm khoảng   20% khối lượng xuất khẩu trên toàn quốc, một số ít hãng khác cũng nắm giữ vị trí quan   trọng. Sự có mặt và các hoạt động mua hàng của những chuỗi như vậy ở Việt Nam mang   lại một lợi thế lớn cho đất nước và cũng là lý do chính làm cho ngành có mức tăng trưởng   nhanh chóng. Tuy nhiên, sự chiếm ưu thế cũng là một mối đe dọa lớn do ngành phải phụ  thuộc nhiều vào họ. Thông thường, các công ty nước ngoài tìm kiếm sản phẩm thông qua các nhà xuất  khẩu (công ty tư nhân và những công ty xuất khẩu của nhà nước). Khách hàng thường lập   kế  hoạch sản xuất của họ  trước từ  3­6 tháng. Họ  cung cấp cho các  nhà xuất khẩu   catalogue, hình ảnh và những bức vẽ cùng với mã hàng và đặt hàng theo các mã hàng của  họ. Doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đặc biệt là các cửa hàng ở  các thành phố  lớn là  Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng có vai trò quan trọng trong marketìng sản phẩm   thủ công của Việt Nam Các sản phẩm thủ công trưng bày ở những cửa hàng này hầu hết   được các chủ  cửa hàng lấy từ  các làng nghề  hoặc do các nhà thu gom và đôi khi do các  công ty tư nhân ở các làng nghề giới thiệu. Các cửa hàng tự phân biệt  mình bằng chất lượng sản phẩm hàng hoá. Một số các   cửa hàng chuyên về  các sản phẩm chất lượng cao. Trong trường hợp này, thu nhập của   họ hầu hết là do xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài và họ cũng đã mang đến khá  nhiều thiết kế mới và thông tin cho các làng nghề. Họ phát triển các sản phẩm mới như  một chiến lược cạnh tranh với các cửa hàng khác. Nhiều cửa hàng cũng nhằm vào đối  tượng khách hàng là dân cư trong nước và khách du lịch. Công ty giao nhận và kho vận hoặc là các công ty trong nước hoặc là các công ty  nước ngoài cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, từ  tờ  khai và thủ  tục hải quan tới thuê  contener, thuê tàu, vận chuyển nội địa... Cạnh tranh giữa các công ty vận chuyển rất khốc   liệt. Mỗi công ty thường có thế mạnh trên một tuyến vận chuyển cụ thể. 1.1.4. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của làng nghề a) Quan niệm về làng nghề Làng, xã với cơ cấu và tổ chức của nó là hiện tượng đặc thù của xã hội Việt Nam,  được hình thành và phát triển rất lâu đời ­ Là nơi sinh ra các làng nghề thủ công. Quá t rình  phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. “Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có các nghề tách ra  khỏi sản xuất nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập, chiếm  ưu thế về số hộ, số 
  19. lao động và số thu nhập so với nghề nông” [21, tr7]. Làng nghề  có nhiều loại, có loại làng một nghề, làng nhiều nghề; có loại làng  nghề truyền thống, làng nghề mới ­ Làng một nghề  là những làng ngoài nghề  nông ra chỉ  còn thêm một nghề  duy  nhất chiếm ưu thế tuyệt đối như: Lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, chạm bạc Đồng Xâm... ­ Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số nghề khác ­ Làng nghề truyền thống là những làng mà ở đó nghề được hình thành, tồn tại và  phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác ­ Làng nghề  mới là những làng nghề  xuất hiện do sự  lan toả  của các làng nghề  truyền thống trong những năm gàn đây (những năm sau cách mạng), đặc biệt trong quá  trình đổi mới, thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường. b) Các nhân tẻ chủ yếu ảnh hưởng đến việc khôi phục và phát triển của các   làng nghề ở nông thôn ­ Sự biến động của nhu cầu thị trường ­ Các chính sách của Nhà nước ­ Kết cấu hạ  tầng (Hệ  thống đường giao thông, hệ  thống cung cấp điện nước,   bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục, điều kiện sinh hoạt...) ­ Yếu tố  truyền thống (sự  lưu giữ  truyền đạt những  kinh  nghiệm, kỹ  thuật của  sản xuất, những thói quen nghề nghiệp, những đức tính kiên trì, cần mẫn sáng tạo và cả ý  chí quyết tâm đạt tới giá trị  sản phẩm tốt, bền, đẹp về  hình dáng mẫu mã của các nghệ  nhân, thợ cả cho người thợ thế hệ sau) ­ Nguồn nguyên liệu là  nhân tố   ảnh hưởng đến sự  hình  thành và phát triển làng  nghề, tới việc đa dạng hoá sản phẩm trong các làng nghề  (khối lượng, chất lượng và   khoảng cách cung cấp nguyên vật liệu cho làng nghề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát  triển của các làng nghề  bởi lẽ  chất lượng nguyên liệu  ảnh hưởng đến chất lượng sản   phẩm làng nghề làm ra, trữ lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng đến sự tồn tại lâu dài của  làng nghề, khoảng cách cung cấp nguyên vật liệu ảnh hưởng đến giá th ành sản phẩm của  các cơ sở sản xuất). c) Đặc điểm của các làng nghề ở nông thôn Việt Nam ­ Làng nghề tồn tại ở nông thôn gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp ­ Sản xuất trong các làng nghề (đặc biệt là làng nghề thủ công truyền thống) chủ  yếu bằng phương pháp thủ công, công nghệ thô sơ, lạc hậu ­ Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề nông thôn chủ yếu là 
  20. quy mô gia đình ­ Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền nghề ­ Sản phẩm của các làng nghề  đa dạng trong đó có một số  sản phẩm có tính mỹ  thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. d) Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế ­ xã hội ở nông thôn Làng nghề không chỉ đơn thuần làm ra các sản phẩm hàng hoá, mà còn là nơi tiềm  ẩn những giá trị văn hoá tinh thần và nơi bảo lưu, giữ gìn công nghệ truyền thống lâu đời   của dân tộc. Môi trường văn hoá làng nghề  phản ánh sinh động cách sống, lối sống và   nếp sống giàu tính nhân văn. Có thể khái quát vai trò của làng nghề trên một số mặt chủ  yếu sau: ­ Góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực   nông thôn ­ Là nhân tố  quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  nông thôn  theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ­ Góp phần tăng khối lượng hàng hoá và sự đa dạng về chửng loại hàng hoá phục   vụ cho nhu cầu nền kinh tế ­ Tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng một nông thôn Việt Nam mới, hiện đại ­ Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc 1.1.5. Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ạ) Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc   đặt mua của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu sản phẩm này cho   khách nước ngoài. Hình thức xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi chính các doanh nghiệp trực tiếp bán sản   phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là công ty có thể kiểm soát toàn  bộ hoặc từng phần kế hoạch marketing ở nước ngoài, thu thập được thông tin phản hồi ở  thị  trường, từ  đó có thể  cải tiến sản phẩm trong sản xuất, trong  kinh doanh xuất khẩu,  tập trung nỗ lực của mình cho sản phẩm do mình sản xuất và bảo vệ tốt hơn  nhãn hiệu,  bản quyền và những tài sản vô hình, đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất   khẩu hàng hoá, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp   nếu hàng hoá thoả mãn yêu cầu của đối tác giao dịch, có điều kiện thâm nhập thị trường,   chủ động trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, phương thức này còn bộc lộ  một   số nhược điểm như: không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng được, đòi 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2