intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu quy trình xử lý mẫu nước tiểu để phân tích một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS bằng phương pháp CE-C4D

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

68
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Nghiên cứu quy trình xử lý mẫu nước tiểu để phân tích một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS bằng phương pháp CE-C4D” trên cùng thiết bị đo mà không khảo sát lại điều kiện tối ưu, nhằm nâng cao khả năng ứng dụng của phương pháp CE-C4D đối với phân tích ma túy nói riêng và các nhóm chất khác nói chung, đáp ứng nhu cầu thực tế. Sau đây là tóm tắt của luận văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu quy trình xử lý mẫu nước tiểu để phân tích một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS bằng phương pháp CE-C4D

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ TẠ THÙY LINH NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH XỬ LÝ MẪU NƯỚC TIỂU  ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHẤT MA TÚY TỔNG HỢP  NHÓM ATS BẰNG PHƯƠNG PHÁP CE­C4D   LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
  2. Hà Nội – 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN  ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ TẠ THÙY LINH NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH XỬ LÝ MẪU NƯỚC TIỂU  ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHẤT MA TÚY TỔNG HỢP  NHÓM ATS BẰNG PHƯƠNG PHÁP CE­C4D Chuyên ngành: Hóa phân tích Mã số: 60440118 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC                     NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
  3.     HD 1: TS. Nguyễn Thị Ánh Hường                                              HD 2: TS. Nguyễn Xuân Trường Hà Nội ­ 2016
  4. MỞ ĐẦU Tệ nạn ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, gây tổn hại sức khỏe, làm suy  thoái nòi  giống,   phẩm  giá  con  người,   phá  hoại  hạnh  phúc  gia  đình,   gây  ảnh   hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Nguy hiểm   hơn nữa, việc tiêm chích ma túy còn là nguyên nhân lan truyền căn bệnh nguy  hiểm HIV/AIDS [2].  Hiện nay, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán và sử  dụng ma túy ngày   càng tinh vi, phức tạp và khó kiểm soát. Các cán bộ phải làm giám định khá nhiều  loại chất và các chế phẩm của chúng, phải sử dụng các phương pháp khoa học   đòi hỏi phải nhanh hơn, chính xác hơn và đặc hiệu hơn. Kết quả giám định phải  là tin cậy và đáp  ứng các yêu cầu của các cơ  quan thực thi luật pháp của mỗi  nước. Do vậy, việc xác định đối tượng có sử  dụng ma túy thông qua giám định  mẫu phẩm sinh học (nước tiểu) của chính đối tượng đó cũng rất cần thiết.  Ở  Việt Nam, việc giám định ma túy trong các mẫu phẩm sinh học được   thực hiện bằng nhiều phương pháp như: phân tích miễn dịch, sắc ký khí (GC),   sắc ký khí – khối phổ (GC­MS), sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với khả năng  phát hiện tốt. Tuy nhiên, đây là loại thiết bị đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn đồng  thời quy trình kèm theo rất phức tạp do đó giá thành phân tích cao, thường được  triển khai ở các phòng thí nghiệm tuyến Trung ương. Trong khi đó, nhu cầu phân   tích   giám   định   các   chất   ma   túy   tại   các   phòng   thí   nghiệm   hình   sự   tuyến   địa   phương là rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu phát triển các phương pháp phân tích   đơn giản, chi phí thấp nhằm hỗ trợ  điều tra tại các phòng thí nghiệm phân tích  ma túy tuyến địa phương là rất cần thiết. Trước tình hình thực tế   đó, nhóm  nghiên cứu của chúng tôi đã nghiên cứu và bước đầu thành công trong việc xác  định một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS trong nước tiểu bằng phương pháp   điện di mao quản sử dụng detector độ  dẫn không tiếp xúc (CE­C4D) với các kết  quả: tối ưu được điều kiện phân tích để tách đồng thời 4 chất ma túy MA, MDA,   4
  5. MDMA và MDEA; giới hạn phát hiện của MA sau khi chiết và trước khi chiết là   10ppb và 500ppb [29]. Tuy nhiên, do nền mẫu nước tiểu thường khá phức tạp, chứa rất nhiều  chất khác nhau như  ezym, vitamin, axit amin, các hợp chất hữu cơ  khác và đặc  biệt là một lượng lớn các ion như: Na+, NH4+, Mg2+, Cl­, SO42­,… Hơn nữa, hàm  lượng các chất ma túy tổng hợp có thể  rất thấp nên các thành phần khác trong  nền mẫu sẽ gây khó khăn cho phương pháp phân tích. Vì thế, để có kết quả phân   tích tốt thì việc làm sạch và làm giàu mẫu là rất cần thiết. Do đó, chúng tôi thực  hiện đề  tài “Nghiên cứu quy trình xử  lý mẫu nước tiểu để  phân tích một số   chất ma túy tổng hợp nhóm ATS bằng phương pháp CE­C4D” trên cùng thiết  bị đo mà không khảo sát lại điều kiện tối ưu, nhằm nâng cao khả năng ứng dụng  của phương pháp CE­C4D đối với phân tích ma túy nói riêng và các nhóm chất   khác nói chung, đáp ứng nhu cầu thực tế. 5
  6. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1. Giới thiệu chung về ma túy tổng hợp nhóm ATS Ma túy là các chất gây nghiện có nguồn gốc tự  nhiên hoặc nhân tạo [2],  khi đưa vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng tâm ­ sinh  lý của cơ thể. Sử dụng ma túy nhiều lần sẽ bị  lệ thuộc cả về thể chất lẫn tâm  lý, gây hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Ma túy tổng hợp dạng Amphetamine (Amphetamine ­ ATS ­ amphetamine­ type­stimulans) là những chất ma túy được tổng hợp ra từ  các hóa chất ban đầu   (tiền chất). Chúng có tác dụng kích thích nhất thời hệ  thống thần kinh trung   ương   gây   hưng   phấn   và   ảo   giác   hoang   tưởng.   Ngoài   Amphetamine,   Methamphetamine (MA) và MDMA (còn gọi là Ecstasy) thì trong nhóm này còn có  rất nhiều chất khác nhau, được quy định trong Công  ước quốc tế  năm 1971 về  sác chất hướng thần như: MDA, MDE, MDEA, PMA, MMDA...Chúng có cấu  trúc hóa học tương tự nhau trên cơ sở khung của Amphetamine, do đó có tác dụng  dược lý giống nhau. Đặc điểm và dạng dùng: Khác với heroine và các chất ma túy khác là các  chất này chỉ có hiệu lực tác dụng tối đa, gây cảm giác đê mê khi được đưa trực   tiếp vào cơ thể qua đường máu. Nếu sử  dụng bằng hình thức uống thì chúng bị  dịch tiêu hóa phân hủy làm giảm tác dụng đáng kể. Vì vậy, trong thực tế Heroine  và các chất ma túy khác có nguồn gốc thuốc phiện chỉ thấy sử dụng qua đường  tiêm, chích hoặc hút, hít mà không sử dụng bằng đường uống. Các chất ATS có  hiệu lực tác dụng khi đưa vào cơ  thể  bằng đường trực tiếp là vào máu và cả  đường tiêu hóa. Chính vì thế, ngoài các hình thức sử  dụng như  đối với các chất  ma túy khác, ma túy tổng hợp còn được sử  dụng bằng hình thức uống. Trong   thực tế, một số ít trường hợp gặp các chất ma túy tổng hợp ATS dưới dạng ống   tiêm hay bột để  pha tiêm, hút, hít, hình thức phổ  biến nhất vẫn là  ở  dạng viên  6
  7. nén, viên nhộng để uống với nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc và những ký   hiệu rất khác nhau. 1.2. Tình hình sử dụng ma túy tổng hợp nhóm ATS trên thế  giới và ở  Việt   Nam 1.2.1. Trên thế giới Theo báo cáo của UNDOC về số người sử dụng ma tuý cho hay, toàn cầu  có từ  172 đến 250 triệu người từng sử  dụng ma tuý trái phép ít nhất một lần   trong   năm.   16   đến   51   triệu   người   sử   dụng   duợc   chất   ma   tuý   thuộc   nhóm  amphetamin; 12 đến 24 triệu người sử dụng ma tuý tổng hợp estasy. Những con   số  trên đây là tính cả  những người từng một lần thử  qua ma tuý (có thể  chưa  nghiện). Còn về số người nghiện ma tuý kinh niên, UNODC ước tính vào khoảng  18 đến 38 triệu người. Hằng năm có khoảng 200.000 người chết vì ma túy. Thực   tế này cho thấy ma túy có ảnh hưởng xấu đến kinh tế, văn hóa của toàn thế giới.  Vì vấn đề nghiêm trọng nên ngày 26/6 hàng năm được Liên Hợp Quốc chọn làm   “Ngày quốc tế phòng, chống lạm dụng ma túy” [10]. Methamphetamine thống lĩnh thị trường các loại ma túy tổng hợp toàn cầu  và đang mở  rộng  ở  Đông Á và Đông Nam Á. Sử  dụng methamphetamine dạng   tinh thể ngày càng tăng ở các khu vực thuộc Bắc Mỹ và châu Âu. Hiện nay, ATS  vẫn là chất ma túy chủ yếu sử dụng ở Nhật. Ngoài ra, số nguời đã sử dụng ATS   ở Thụy Sĩ là 8%, Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%, Brazil là 5%. Tại Úc 25% nam và   12% nữ tuổi từ 20­ 24 đã thử dùng ATS. Số lượng các vụ bắt giữ ATS kể từ năm  2009 – tăng gần gấp đôi  ở  mức trên 144 tấn trong năm 2011 và 2012, và vẫn  ở  mức độ cao vào năm 2013 – cho thấy thị  trường ATS mở rộng nhanh chóng trên  toàn cầu. Cho đến tháng 12 năm 2014, có tổng cộng 541 loại chất kích thần mới  (NPS) có tác động tiêu cực đến sức khỏe đã được phát hiện và báo cáo tại 95  quốc gia và vùng lãnh thổ ­ gia tăng 20% so với số lượng 450 loại của năm ngoái. 1.2.2. Ở Việt Nam 7
  8. Tại Việt Nam, tình hình buôn bán, vận chuyển ma túy ngày càng phức tạp.  Cuộc chiến chống buôn lậu ma túy đã diễn ra trên 30 năm qua, ngày càng trở lên  khốc liệt. Bọn tội phạm ma túy tự  trang bị  vũ khí quân dụng, ngày càng hung   hăng, dùng mọi phương tiện để vận chuyển ma túy vào Việt Nam hay quá cảnh  từ  Việt Nam đi các nước khác. Trong vài năm gần đây, trên hai tuyến biên giới  Việt nam ­ Lào và Việt ­ Trung các lực lượng chức năng đã phát hiện, bắt giữ  gần 5.340 vụ (chiếm 30% tổng số vụ bị bắt giữ trên toàn quốc). Điều đáng lưu ý  là số vụ  và lượng ma túy tổng hợp (chủ  yếu là ma túy đá) bị  phát hiện, bắt giữ  gia tăng nhanh chóng. Các hình thức vận chuyển, cất giấu tinh vi, xảo quyệt như  cất giấu trong hàng hóa, trong cơ  thể, hành lý để  vận chuyển qua đường hàng  không,.... Theo thống kê của Bộ Công an, 6 tháng đầu năm 2013, trong nhiều loại   ma túy bị bắt giữ, có tới 46 kg và 140 nghìn viên ma túy tổng hợp [10].  Trong năm 2014, tình hình mua bán, sử dụng ma túy tổng hợp, nhất là ma  túy tổng hợp dạng “đá” tiếp tục gia tăng, đặc biệt trong giới trẻ; số lượng ma túy   tổng hợp thu giữ  được trong năm 2014 nhiều hơn 147,7 kg ma túy tổng hợp so  với năm 2013. Nguồn ma túy tổng hợp tại Việt Nam chủ yếu từ Trung Quốc vận   chuyển qua các biên giới thuộc tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn vào nội địa. Bên  cạnh đó, đối tượng phạm tội tiếp tục tìm cách sản xuất ma túy tổng hợp để tiêu   thụ ngay trong nội địa. Năm 2014, Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma  túy đã phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ  19195 vụ  với   28880 đối tượng liên quan đến tội phạm ma túy; thu giữ 573,2 kg heroin; 19,3 kg   cocain; 28,8 kg thuốc phiện; 1536 kg cần sa; 231,2 kg và 165314 viên ma túy tổng   hợp cùng nhiều phương tiện, tài sản, vật chứng khác. Một nghiên cứu về thực trạng sử dụng ma túy tổng hợp  ở  các thành phố  lớn cho thấy thuốc lắc (MDMA) là loại ATS phổ  biến  ở  cả  3 thành phố, cao   nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh với gần 80% đối tượng nghiên cứu báo cáo có   sử  dụng loại ATS này. Methamphetamin cũng là loại ATS sử  dụng phổ  biến  ở  Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh (61,00% và 87.12%). Theo nhóm tuổi, các loại  8
  9. ATS như  thuốc lắc hay methamphetamin sử  dụng phổ  biến  ở  tất cả  các nhóm   tuổi (xấp xỉ  từ  50% đối tượng từng nhóm tuổi sử  dụng), trong đó sử  dụng phổ  biến hơn ở nhóm dưới 40 tuổi [12]. Như vậy, để thực hiện đẩy lùi được ma túy thì việc quan trọng là phải có   nguồn chứng cứ kịp thời nhằm thực thi luật pháp và điều trị ngộ độc, cai nghiện.   Do đó việc xây dựng một phương pháp giám định ma túy nhanh, chính xác là rất   cần thiết. 1.3. Một số phương pháp xác định ma túy tổng hợp nhóm ATS Việc phân tích ma túy tổng hợp nhóm ATS được thực hiện bằng nhiều  phương pháp khác nhau như  các phương pháp sắc ký, phương pháp điện hóa,  phương pháp phân tích miễn dịch học, phương pháp điện di mao quản… 1.3.1. Phương pháp điện hóa E.M.P.J. Garrido cùng cộng sự [15] đã tiến hành nghiên cứu tính chất điện   hóa   của   amphetamin   (A),   methamphetamin   (MA),   methylenedioxyamphetamin   (MDA) và methylenedioxymethamphetamin (MDMA) trong các dung dịch  đệm  khác nhau bằng phương pháp vôn ampe vòng, sóng vuông, xung vi phân trên điện  cực glassy carbon trong khoảng pH 1,2 đến 12,2. Với MA, sóng anot xuất hiện ở  pH trên 9, Ep  = +0,92V.  Ở pH 2 có thể quan sát được sóng anot của MDA, Ep =  +1,17V. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của MDMA khi sử  dụng   phương pháp von ampe xung vi phân tương ứng là 1,2 và 3,7 µM. Các tác giả  đã  định lượng MDMA trong mẫu huyết tương thêm chuẩn. Kết quả  thu được hiệu  suất thu hồi 99,5%; 100,6%; 100,2%, độ lệch chuẩn (RSD) 1,4; 0,9; 1,1 % tương   ứng với các mức hàm lượng thêm chuẩn 15; 30; 45µM.  1.3.2. Phương pháp ELISA Nguyên tắc: Phương pháp ELISA có rất nhiều dạng mà đặc điểm chung là  đều dựa trên sự  kết hợp đặc hiệu giữa kháng nguyên và kháng thể, trong đó  kháng thể được gắn với một enzyme. Khi cho thêm cơ chất thích hợp (thường là   9
  10. nitrophenol phosphate) vào phản  ứng, enzyme sẽ  thủy phân cơ  chất thành một   chất có màu. Sự  xuất hiện màu chứng tỏ  đã xảy ra phản  ứng đặc hiệu giữa   kháng thể với kháng nguyên và thông qua cường độ  màu mà biết được nồng độ  kháng nguyên hay kháng thể cần phát hiện. Marleen Laloup và cộng sự [24] đã sử dụng phương pháp này để  xác định  amphetamin, MDMA, MDA trong mẫu máu và nước bọt. Phương pháp phân tích  này  có  thể   dự   đoán  được   sự   hiện   diện  của   một   trong   hai  amphetamin   hoặc  MDMA/MDA (MDMA và sản phẩm chuyển hóa của nó MDA) với độ  nhạy đạt  98,3% và độ đặc hiệu 100%. Đây là một kỹ thuật sàng lọc nhanh và chính xác để  xác định amphetamin, MDMA/MDA trong các mẫu nước bọt và huyết tương  dương tính. 1.4. Các phương pháp xử lý mẫu phẩm sinh học Hàm lượng ma túy nhóm ATS trong mẫu phẩm sinh học thường nhỏ  vì  thế  việc nghiên cứu phương pháp để  xử  lý làm giàu mẫu là rất cần thiết. Hiện  nay có 2 phương pháp chiết xuất thuờng dùng là chiết lỏng – lỏng và chiết pha   rắn. 1.4.1. Phương pháp chiết lỏng – lỏng Chiết lỏng­lỏng là phương pháp chiết dựa trên sự  phân bố  khác nhau của   chất tan giữa hai pha không trộn lẫn vào nhau thường một pha là nước và pha còn  lại là dung môi hữu cơ không tan hoặc rất ít hòa tan trong nước. Quá trình chiết   là quá trình chuyển chất tan từ pha nước vào pha hữu cơ được thực hiện qua bề  mặt tiếp xúc giữa hai pha nhờ các tương tác hóa học giữa tác nhân chiết và chất  cần chiết [8,9].  Để có được kết quả chiết tốt, quá trình chiết phải có các điều kiện chiết   cần thiết. Điều kiện chiết chất phân tích vào pha hữu cơ:  + Dung môi chiết và dịch chiết là hai pha không được trộn lẫn, trong đó   dung môi phải có độ  tinh khiết cao, đảm bảo không làm nhiễm bẩn chất phân   tích;  10
  11. + Hệ số tách α càng khác 1 càng tốt  + Cân bằng chiết đạt được nhanh và thuận nghịch, sự  phân lớp phải rõ   ràng để giải chiết được tốt + Phải chọn được điều kiện chiết tối ưu bao gồm pH của dung dịch, nồng   độ tác nhân chiết, nồng độ thuốc thử, chất phụ gia… Phương pháp chiết lỏng – lỏng có thể áp dụng cho các chất bay hơi, chất   lỏng và rắn với những ưu điểm như các thiết bị đơn giản, hiện có rất nhiều dung   môi tinh khiết với độ hòa tan và chọn lọc tốt, hòa tan mẫu thuận lợi và phù hợp  với thiết bị sắc ký. 1.4.2. Phương pháp chiết pha rắn Chiết pha rắn là một dạng sắc ký lỏng được cải tiến thành hấp thụ  pha   rắn với các cơ chế khác nhau. Kỹ thuật này dựa trên nguyên tắc sự phân bố của  chất tan giữa hai pha không tan vào nhau [8]. Hiện nay chiết pha rắn đang được sử  dụng phổ  biến trong lĩnh vực phân   tích cho mục đích xác định cả các chất vô cơ và hữu cơ, các kim loại và phi kim   do những ưu điểm sau: + Hiệu suất thu hồi cao + Cân bằng chiết đạt nhanh và có tính thuận nghịch + Thích hợp cho mẫu lượng nhỏ và phân tích lượng vết các chất + Thao tác đơn giản, dễ sử dụng, có thể tiến hành hàng loạt + Khả năng làm giàu và làm sạch chất phân tích lớn Như  vậy, có thể  nhận thấy có nhiều phương pháp xác định các chất ma   túy nhưng các phương pháp này đều đòi hỏi trang thiết bị hiện đại, yêu cầu kỹ  thuật cao. Tuy nhiên, phương pháp điện di mao quản cho thấy rất có tiềm năng  bởi vì phương pháp điện di mao quản sử dụng detector đo độ dẫn không tiếp xúc  (CE­C4D) là phương pháp phân tích mới với những  ưu điểm như: thiết bị  tương  đối đơn giản, chi phí thấp, hoạt động đơn giản, có thể tự động hóa và triển khai  11
  12. phân tích ngay tại hiện trường với một lượng nhỏ mẫu và hóa chất phục vụ kịp  thời quá trình điều tra. Do đó, chúng tôi tập trung nghiên cứu quy trình phân tích  một   số   chất   ma   túy   tổng   hợp   ATS   trên   thiết   bị   điện   di   mao   quản   sử   dụng  detector độ dẫn không tiếp xúc, kết nối kiểu tụ điện. CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM 2.1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận văn là: Nghiên cứu quy trình xử  lý mẫu nước tiểu để  phân tích một số  chất ma túy tổng hợp nhóm ATS   (gồm: MA, MDA, MDMA,  MDEA) bằng phương pháp điện di mao quản, sử dụng detector đo độ dẫn không   tiếp xúc theo kiểu kết nối tụ điện (CE­C4D). 2.1.2. Nội dung nghiên cứu Để  đạt được mục tiêu đề  ra, các nội dung nghiên cứu cần thực hiện bao   gồm: 12
  13. ­ Tổng quan tài liệu về các phương pháp khác nhau để xác định đồng một số  hợp chất ma túy tổng hợp nhóm ATS và các phương pháp xử lý mẫu nước tiểu. ­ Xây dựng đường chuẩn của các chất phân tích. ­ Đánh giá phương pháp phân tích (xác định LOD, LOQ, độ đúng, độ chụm). ­ Nghiên cứu, tối ưu quy trình chiết lỏng và chiết pha rắn để xử lý làm sạch,  làm giàu mẫu nước tiểu. ­ Áp dụng phân tích một số mẫu nước tiểu do Viện Khoa học hình sự và Đội  giám định hóa học – Phòng kỹ thuật hình sự ­ CATP Hà Nội cung cấp. ­ Thực hiện phân tích đối chứng một số mẫu bằng phương pháp GC/MS do  Viện Khoa học hình sự thực hiện. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp phân tích Phương pháp phân tích là phương pháp điện di mao quản sử dụng detector   độ dẫn không tiếp xúc kết nối kiểu tụ điện (CE – C 4D). Thiết bị này được thiết  kế  và chế  tạo bởi Công ty 3Sanalysis (http://www.3sanalysis.vn/) trên cơ  sở  hợp  tác với nhóm nghiên cứu của GS. Peter Hauser (Thụy Sỹ), là thiết bị có nguồn thế  cao lên đến 20kv, có thể  thực hiện bán tự  động (hình 2.1). Hệ  thiết bị  này hiện   đang được triển khai nghiên cứu hoàn thiện và phát triển  ứng dụng tại Bộ môn  Hóa Phân tích, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự  nhiên, Đại học  Quốc gia Hà Nội [1]. 13
  14. Hình 2.1. Hệ thiết bị CE­C4D  (1: Hộp thế an toàn, 2: Bộ điều khiển cao thế, 3: Cảm biến đo độ dẫn không tiếp  xúc, 4: Ống dẫn dung dịch đệm, 5: Núm điều chỉnh , 6: Bộ phận điều khiển, 7:  Bình khí nén) 2.3. Hóa chất và thiết bị 2.3.1. Hóa chất Tất cả  các hóa chất sử dụng đều thuộc loại tinh khiết phân tích và được   pha chế bằng nước deion. 2.3.1.1. Chất chuẩn ­ MA (Lipomed, hàm lượng dạng bazơ =80,2%) ­ MDA (Lipomed, hàm lượng dạng bazơ = 82,8%) ­ MDMA (Lipomed, hàm lượng dạng bazơ = 83,71%) ­ MDEA (Lipomed, hàm lượng dạng bazơ = 84,66%) 2.3.1.2. Hóa chất, dung môi ­ L­ Arginine (C6H14N4O2) (Fluka, hàm lượng > 99,5%) ­ Axit acetic (CH3COOH), (PA, Merck, Đức) ­ Axit clohydric (HCl), (PA, Merck, Đức) ­ Axit photphoric (H3PO4) (PA, Deajung, Hàn Quốc, 85%) 14
  15. ­ Natri hydroxyd (NaOH), (PA, Merck, Đức) ­ Methanol (CH3OH), (PA, Merck, Đức) ­ Etyl axetat (CH3COOC2H5), (PA, Deajung, Hàn Quốc, >99,9%) ­ 2­propanol (C3H8O), (PA, Deajung, Hàn Quốc, >99,8%) ­ Diclometan (CH2Cl2), (PA, Deajung, Hàn Quốc, 99%) 2.3.1.3. Chuẩn bị các dung dịch hóa chất * Pha các dung dịch chuẩn gốc Cân chính xác từng chất phân tích trên cân phân tích (độ chính xác 0,1mg):   0,0125 g MA, 0,0121 g MDA, 0,0119 g MDMA, 0,0118 g MDEA chuy ển vào bình   định mức 10,0 mL, thêm 4 mL Methanol và đem rung siêu âm 30 phút sau đó định   mức đến vạch bằng nước deion ta được các dung dịch chuẩn gốc 1000ppm.  Các dung dịch chuẩn nồng độ  nhỏ  hơn được pha loãng bằng nước deion  theo tỉ lệ thích hợp từ dung dịch chuẩn gốc 1000 ppm trước khi phân tích. *   Pha dung dịch đệm điện di Dung dịch pha động điện di kết hợp giữa Arginine và axit acetic được pha   như  sau:  Cân chính xác 0,0435g Arginine chuyển vào cốc có mỏ  50,0 mL rung   siêu âm trong 5 phút cho tan hết sau đó thêm từ từ axit axetic vào đến khi pH của   dung dịch là 4.5 (sử dụng máy đo pH). Dung dịch đệm được pha mới hàng ngày. 15
  16. CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Phương pháp (CE­C4D) đã được sử  dụng để  nghiên cứu tách và xác định  đồng thời một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS [29] và bước đầu đã đạt được  một số kết quả về điều kiện tối  ưu phân tích 4 chất ma túy MA, MDA, MDMA  và MDEA. Tuy nhiên, do nền mẫu nước tiểu phức tạp và hàm lượng các chất  phân tích trong nước tiểu thường rất nhỏ  nên việc xử  lý mẫu là rất cần thiết.  Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào quy trình xử lý mẫu nước tiểu trên   cơ sở kỹ thuật chiết lỏng ­ lỏng và chiết pha rắn nhằm nâng cao hiệu quả phân  tích bốn chất ma túy nhóm ATS nêu trên bằng phương pháp CE­C4D. Các nội  dung nghiên cứu cụ thể bao gồm: xây dựng và đánh giá lại đường chuẩn, giá trị  LOD, LOQ tại thời điểm nghiên cứu; khảo sát điều kiện tối ưu xử lý mẫu nước   tiểu trên cơ sở  kỹ thuật lỏng ­lỏng và chiết pha rắn (SPE) nhằm nâng cao hiệu  quả phân tích; áp dụng phân tích một số mẫu thực tế và tiến hành đối chứng với  phương pháp truyền thống (GC­MS) do Viện Khoa học Hình sự thực hiện. 3.1. Xây dựng đường chuẩn của các chất phân tích 3.1.1. Xây dựng đường chuẩn Các dung dịch sử  dụng để  lập đường chuẩn có nồng độ  trong khoảng   5÷120 với MA và 10÷140ppm với MDA, MDAM, MDEA và được pha loãng từ  các dung dịch chuẩn gốc ban đầu. Mỗi dung dịch được bơm 3 lần và thực hiện   quá trình điện di trên thiết bị  điện di mao quản sử  dụng detector độ  dẫn không   tiếp xúc với các điều kiện tối ưu như sau: ­ Mao quản silica đường kính trong ID = 50 µm, tổng chiều dài: 60cm (chiều  dài hiệu dụng 53cm). 16
  17. ­ Phương pháp bơm mẫu: Thủy động lực học kiểu xiphông ở độ cao 10 cm. ­ Thời gian bơm mẫu: 45 s ­ Dung dịch đệm điện di: Arg/Ace (10 mM) pH = 4,5. ­ Thế tách: 10 kV ­ Giá trị  diện tích pic trung bình là kết quả  được sử  dụng để  lập đường   chuẩn. Bảng 3.1. Phương trình hồi quy của các chất phân tích Chất phân tích Phương trình hồi quy Hệ số tương quan R2      MA y = (­0,9818±2,0367) + (2,0003±0,0564)x 0,9994      MDA y = (­0,9677±1,8107) + (1,0187±0,0251)x 0,9995      MDMA y = (­1,2708±2,0969) + (1,3137±0,0290)x 0,9989      MDEA y = (­0,8904±3,7057) + (1,3182±0,0513)x 0,9996 Từ  các kết quả trên cho thấy hệ số tương quan R 2 của các chất phân tích  đều lớn hơn 0,99 đồng thời giá trị  P value
  18. Dung môi 1: Cloroform/isopropanol(9/1v/v)  Dung môi 2: Diclometan/ isopropanol (9/1 v/v)  Dung môi 3: Etyl axetat  Kết quả thu được được thể hiện trong hình 3.5: MDA MA MDMA 10mV 1 MDEA 2 3 600 700 800 900 1000 Thêi gian di chuyÓn (s) Hình 3.5. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS với các dung môi chiết khác nhau (đường 1,2,3 tương ứng với dung môi  1,2,3) Từ kết quả trên ta thấy etyl acetat là dung môi cho hiệu quả chiết tốt nhất,   hiệu suất thu hồi từ 78­102%. Ngoài ra, etyl acetat lại dễ bay hơi, không độc hại  rất thuận lợi cho quá trình chiết nên chúng tôi lựa chọn dung môi này cho các  khảo sát tiếp theo. 3.2.2. Khảo sát pH của môi trường chiết Hệ số phân bố của dung môi chiết phụ thuộc vào độ pH của dung dịch vì   vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quá trình chiết về độ thu hồi cũng  như khả năng làm sạch, làm giàu mẫu. Mà các chất phân tích có pKa trong khoảng  9,7 ­ 9,9, vì thế  chúng tôi đã khảo sát  ảnh hưởng của pH môi trường chiết đến  hiệu suất chiết trong khoảng pH xung quanh giá trị pKa, cụ thể là từ 7 đến 11, sử  dụng NH4OH để điều chỉnh pH. Kết quả được thể hiện trong hình 3.7: 18
  19. Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc hiệu suất thu hồi vào pH  môi trường chiết Từ kết quả trên ta thấy, tại pH từ 8­10 cho hiệu quả chiết tốt đối với tất  cả  các chất phân tích.Trong đó, hiệu suất thu hồi tại pH=9 là cao nhất do vậy   chúng tôi lựa chọn pH =9 là pH chiết tối ưu. 3.2.3. Khảo sát thể tích dung môi  chiết Thể   tích   dung   môi   chiết   ảnh   hưởng   đến   chất   lượng   chiết   mẫu.   Nếu   lượng dung môi ít thì hiệu quả  chiết không cao, còn nếu lượng dung môi quá   nhiều sẽ không làm tăng hiệu quả chiết, thậm chí sẽ gây khó khăn trong quá trình  cô đuổi dung môi và tốn kém khi phân tích đồng thời nhiều mẫu. Việc khảo sát   thể  tích dung môi chiết được thực hiện với 4 mức thể tích dung môi etyl axetat   khác nhau là 1ml, 2ml, 3ml, 4ml và được chiết lặp 2 lần. Kết quả thu được được  thể hiện trong hình 3.8 và hình 3.9: 20mV MDA MA MDMA 4ml MDEA 3ml 2ml 1ml 700 800 900 1000 Thêi gian di chuyÓn (s) Hình 3.8. Điện di đồ kết quả khảo sát với lượng dung môi  19
  20. chiết khác nhau Như vậy, quy trình chiết lỏng – lỏng tối ưu như sau:  Lấy 5 ml mẫu nước tiểu vào ống nghiệm có nắp xoáy; kiềm hóa mẫu về  pH = 9 bằng dung dịch NH4OH 25% (kiểm tra bằng giấy quỳ); chiết mẫu bằng 3   ml etyl axetat, lắc trong vòng 10 phút; ly tâm cho tách lớp; hút lớp etyl axetat (lớp   trên), đuổi dung môi bằng dòng khí N2, hòa tan cặn chiết với lượng metanol thích  hợp (100µL) rồi phân tích trên thiết bị CE­C 4D. Với quy trình này, giới hạn phát  hiện đạt được với MA là 10ppb, với MDA, MDMA, MDEA là 50ppb. 3.3. Nghiên cứu, tối ưu các điều kiện của quá trình chiết pha rắn nhằm xác  định MA, MDA, MDMA, MDEA trong mẫu nước tiểu 3.3.1. Khảo sát lựa chọn cột chiết Dựa trên các vật liệu sẵn có trong phòng thí nghiệm, chúng tôi sử dụng hai   loại cột SCX và C18 để tiến hành xử lý mẫu.  Kết quả khảo sát quy trình xử lý mẫu nước tiểu trên cơ sở sử dụng hai  loại cột chiết C18 và SCX được thể hiện trong hình 3.10 và bảng 3.16: Bảng 3.16. Hiệu suất thu hồi của quá trình chiết khi sử dụng cột SCX và cột  C18 Hiệu suất thu hồi (%) Loại cột MA MDA MDMA MDEA SCX 79,9 36,3 ­ 60,0 C18 71,5 79,9 82,1 88,9 Kết quả trên cho thấy khi sử dụng cột SCX không phát hiện được tín hiệu  của chất MDMA và độ thu hồi của các chất khá thấp. Mặt khác với cột C18 phát   hiện được tất cả các chất phân tích, độ thu hồi từ 71 ÷ 89%. Do đó, chúng tôi lựa   chọn cột C18 cho những khảo sát tiếp theo. 3.4.2. Khảo sát pH của dung dịch đệm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0