intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Chia sẻ: Hinh Duyệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

81
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của luận văn gồm 3 chương được trình bày như sau: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay; Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

  1. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS Vũ Trọng Hách Phản biện 1: PGS-TS Nguyễn Thị Hương Phản biện 2: PGS-TS Nguyễn Hoàng Anh Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp 402, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 9h45 ngày 15 tháng 11 năm 2016 Hà Nội, năm 2016
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ HƯƠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 60.38.01.02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI 2016
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội. Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. BLGĐ đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới, là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con người, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. BLGĐ đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm 1
  4. trọng của BLGĐ là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW)… đã thể hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người. Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bao lực, cụ thể như phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em….Vấn đề phòng, chống BLGĐ cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đều coi BLGĐ là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý các hành vi BLGĐ. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm 2
  5. và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân. Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đã xảy ra và số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội và đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ổn định và phát triển cho xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phòng, chống bạo lực gia đình, loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình trong xã hội, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đề tài "Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay" đã được tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới” do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI biên soạn; “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước 3
  6. trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật; “Phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2008; “Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải pháp” của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình- Trẻ em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;“Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng…. Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ dưới nhiều góc độ khác nhau, Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu đề tài này. 4
  7. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ chính sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó, phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. - Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình góp phần hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia 5
  8. đình, việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước, pháp luật và pháp luật thực định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn giải, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu - Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng chống BLGĐ, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở nước ta hiện nay. - Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về vấn đề BLGĐ, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống BLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 6
  9. Chương 1: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc. 7
  10. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 1.1.1. Khái niệm về bạo lực gia đình Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình" [29]. 1.1.2. Phòng, chống bạo lực gia đình a) Khái niệm phòng bạo lực gia đình b) Khái niệm chống bạo lực gia đình c) Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình 1.1.3. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương và 46 điều. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách trực tiếp, cụ thể về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã điều chỉnh một cách có hệ thống các hành vi bạo lực gia đình để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình. 1.1.4. Vai trò pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình Có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định cho xã hội nhất là trong việc ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật. 1.2. Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 1.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được hiểu là những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực 8
  11. trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình mà nạn nhân của bạo hành gia đình là các thành viên trong gia đình. 1.2.2. Đặc điểm của vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình Thứ nhất, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình luôn là hành vi được xác định của con người. Thứ hai, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Thứ ba, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải là hành vi có lỗi. Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý đầy đủ. 1.2.3. Các loại bạo lực gia đình 1.3. Các yếu tố bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình 1.3.1. Yếu tố chính trị 1.3.2. Yếu tố kinh tế 1.3.3. Yếu tố tư tưởng 1.3.4. Yếu tố pháp lý 1.3.5. Yếu tố xã hội 9
  12. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC 2.1. Khái quát về đặc điểm tỉnh Vĩnh Phúc 2.2. Thực trạng phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc 2.2.1. Thực trạng bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc Theo số liệu thu thập thống kê hàng năm của các cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, và báo cáo tổng kết tình hình triển khai kế hoạch thi hành luật phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2015 của tỉnh Vĩnh Phúc. Từ năm 2009 đến năm 2015 số vụ có bạo lực gia đình được phát hiện trên địa bàn tỉnh qua từng năm cụ thể như sau: Năm 2009 xảy ra 276 vụ; Năm 2010 xảy ra 276 vụ; Năm 2011 xảy ra 497 vụ; Năm 2012 xảy ra 635 vụ; Năm 2013 xảy ra 552 vụ. Năm 2014 xảy ra 395 vụ, năm 2015 xảy ra 265 vụ. Trong 7 năm từ 2009- 2015 tổng số vụ bạo lực gia đình được phát hiện là 2.859 vụ, trong đó có 1.474 vụ bạo lực thể xác (51,5%); 854 vụ bạo lực tinh thần (29,9%); 230 vụ bạo lực kinh tế (8%); 73 vụ bạo lực tình dục (2,5%) [33]. 10
  13. Biểu 2.1. Tổng hợp số vụ bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2009-2014 Tổng số vụ bạo lực gia đình STT Huyện, thành, thị Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 1 Vĩnh Tường 22 29 28 27 40 19 25 2 Yên Lạc 29 35 50 87 88 58 20 3 Tam Dương 54 56 48 92 73 60 43 4 Tam Đảo 76 88 132 102 134 87 70 5 Lập Thạch 30 12 37 33 24 26 20 6 Sông Lô 26 26 30 33 23 13 15 7 Bình Xuyên 24 17 138 121 70 69 35 8 Vĩnh Yên 4 7 10 20 9 20 12 9 Phúc Yên 11 6 24 120 91 43 25 Tổng số 276 276 497 635 552 395 265 Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc Tuy nhiên trong tổng số vụ BLGĐ nêu trên, tính chất, mức độ là ít nghiêm trọng, chủ yếu là mâu thuẫn gia đình và cơ bản được hòa giải ngay tại cơ sở. Tỷ lệ BLGĐ phải xử lý về hành chính hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm tỷ lệ không nhiều. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh, Năm 2010 toàn tỉnh có 979 vụ ly hôn; Năm 2011 có 1.173 vụ án ly hôn tăng 194 vụ so với năm 2010, trong đó có 240 vụ án ly hôn liên quan đến bạo lực gia đình (20,46%). Đặc biệt có 164 vụ bạo lực gia đình phải truy cứu trách nhiệm hình. Theo số liệu của Công an tỉnh từ năm 2008-2015 đã thụ lý giải quyết 142 vụ BLGĐ, điều tra, khởi tố 17 vụ, xử lý vi phạm hành chính 115 vụ BLGĐ; trong 142 vụ có 8 vụ dẫn đến hậu quả chết người, 79 vụ dẫn đến hậu quả thương tích. Điển hình như Chồng là Nguyễn Tiến Thịnh bạo hành vợ là Lê Thị Lý ở phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên; Vụ cha đẻ cưỡng bức con gái ở xã Kim Long, huyện Tam Dương; Vụ con trai đánh mẹ đẻ gãy chân ở Yên Thạch, Sông Lô; Vụ chồng là Nguyễn Văn Hải, thôn Dừa Cả, xã Hải Lựu, Sông Lô dùng dao quắm chém vợ là Phạm Thị Thắm gây tử vong; Vụ chồng Dương Đức Yên, thôn An 11
  14. Khang, xã Yên Thạch, Sông Lô tưới xăng lên người vợ là chị Hà Thị Hiền đốt dẫn đến tử vong; Trường hợp Đỗ Cao Cường Định Trung, Thành phố Vĩnh Yên dùng phích đập đầu vợ; vụ Chồng đánh vợ gây thương tích nặng ở Đồng Cương, Yên Lạc; vụ bênh vợ, con ném bát vào mặt mẹ ở thôn Hòa Loan, xã Lũng Hòa; vụ Phạm Thị Liên ở thôn 5, nhà máy gạch Bồ Sao Vĩnh Tường bị chồng đánh phải nhập viện cấp cứu... . Các vụ bạo lực gia đình thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: bạo lực thể xác, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế, trong đó nạn nhân bạo lực gia đình chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em. Theo số liệu của Sở Y tế từ năm 2008-2015 có 864 nạn nhân bạo lực gia đình đến cơ sở Y tế khám và điều trị, trong đó tuyến tỉnh 91 trường hợp, tuyến huyện 332 trường hợp, tuyến xã 441 trường hợp [33]. Tuy có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành đoàn thể và sự đồng tình lên án các hành vi BLGĐ của người dân nhưng vẫn còn nhiều trường hợp nạn nhân im lặng, cam chịu không khai báo, đôi khi còn che giấu, nhất là bạo lực tình dục, bạo lực tinh thần, nên việc phát hiện, can thiệp, tư vấn xử lý chưa kịp thời. Hầu hết người gây ra bạo lực gia đình đã phải chịu các các biện pháp giáo dục, các hình phạt thích đáng đúng pháp luật, tuy nhiên đó như một hồi chuông báo động nạn bạo lực gia đình ngày một gia tăng và mức độ ngày một nguy hiểm. Chúng ta sẽ xem xét thực trạng bạo lực gia đình dưới các hình thức bạo lực cụ thể: - Bạo lực về thân thể: Người bị bạo lực đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình ở Việt Nam nói chung, Vĩnh Phúc nói riêng. Bạo lực thân thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho con người. Theo số liệu thống kê các huyện, thành, thị năm từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 1.474 vụ bị bạo lực về thân thể (chiếm 51,5%) [33] - Bạo lực về tinh thần: Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh thần là hình thức bạo lực ngày càng phổ biến. Bạo lực về tinh thần đã gây cho người bị bạo hành những chấn động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải chịu đựng những sang chấn tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi. Theo số liệu thống kê các 12
  15. huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 854 vụ bị bạo lực về tinh thần chiếm (29,9%) [33]. - Bạo lực về kinh tế: Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần và bạo lực về kinh tế. Bạo lực về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm giữ và kiểm soát tài chính trong gia đình nhằm tạo ra sự phụ thuộc về mặt kinh tế. Theo số liệu thống kê các huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 230 vụ bị bạo lực về kinh tế chiếm (8%) [33] - Bạo lực tình dục: Một hình thức bạo lực gia đình hiện nay làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người bị bạo lực tình dục. Hình thức bạo lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo số liệu thống kê các huyện, thành, thị từ năm 2008-2015 toàn tỉnh có 2.859 vụ bạo lực gia đình, trong đó có 73 vụ bị bạo lực về tình dục chiếm (2,5%) [33]. Biểu 2.2. Các dạng bạo lực gia đình từ năm 2009-2014 STT Tên đơn vị Hình thức bạo lực Thân thể Tinh thần Tình dục Kinh tế 1 Vĩnh Tường 115 55 0 0 2 Yên Lạc 204 96 7 40 3 Tam Dương 144 147 2 30 4 Tam Đảo 428 79 19 25 5 Lập Thạch 89 73 0 18 6 Sông Lô 74 57 0 10 7 Bình Xuyên 233 145 29 55 8 Vĩnh Yên 33 24 3 4 9 Phúc Yên 154 178 13 48 Tổng số 1.474 854 73 230 Nguồn: Số liệu báo cáo 8 năm thực hiện luật phòng, chống BLGĐ tỉnh Vĩnh Phúc Những kết quả thu được từ các cuộc điều tra về bạo lực gia đình đã cho chúng ta thấy những con số đáng giật mình. Ngoài các vụ bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn rất nhiều các hành vi trái 13
  16. pháp luật khác. Đến nay, chúng ta chưa có số liệu, báo cáo chính thức về các hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình như những hành vi kích động, giúp sức, dung túng, bao che, xử lý không đúng pháp luật, nhưng trên thực tế, những hành vi trái pháp luật này diễn ra khá nhiều. 2.2.2. Thực trạng thực hiện phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc. a) Công tác tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo Ngay sau khi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành (01/07/2008), UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như Quyêt định, kế hoạch, Chương trình... b) Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật Xác định, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực gia đình là một trong những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo hướng dẫn tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, vận động nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hậu quả của các hành vi bạo lực gia đình đến với mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh cụ thể: c) Tổ chức bộ máy Từ năm 2008 mảng gia đình thuộc chức năng quản lý của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch với vai trò là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về công tác gia đình, tuy nhiên về đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình, nhìn chung còn thiếu và hạn chế về chuyên môn. Theo kết quả thống kê về số lượng cán bộ làm công tác gia đình, đối với cấp tỉnh hiện có 03 đồng chí, trong đó có 1 lãnh đạo Sở trực tiếp phụ trách; cấp huyện có 9 đồng chí; Ở cơ sở, không có cán bộ chuyên trách làm công tác gia đình, chỉ có cán bộ văn hóa - xã hội kiêm nhiệm từ đó làm ảnh hưởng đến việc tổ chức triển khai, thực hiện các nhiệm vụ công tác gia đình, đặc biệt là 14
  17. công tác thu thập, thống kế số liệu về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình là rất khó khăn. d) Công tác phối hợp liên ngành Công tác phối hợp liên ngành là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của từng ban, ngành, đoàn thể, đồng thời tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần tích cực thực hiện tốt luật PCBLGĐ. Hầu hết các Sở, ngành của tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, triển khai các nội dung phòng, chống bạo lực gia đình theo ngành mình quản lý. Công tác phối hợp giữa các Sở, ban ngành, đoàn thể trong việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được triển khai khá đồng bộ từ tỉnh đến cở sở, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, giúp cho lãnh đạo, cơ quan đơn vị và người dân nâng cao nhận thức hành vi vi phạm pháp luật, tham gia vào công tác phòng chống BLGĐ có hiệu quả. đ) Công tác thanh tra, kiểm tra. Hàng năm, UBND cấp huyện, xã đã chủ động ban hành kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương chưa được chú trọng. 2.2.3. Đánh giá chung 2.2.3.1. Kết quả đạt được - Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc luôn nhận được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp. - Việc triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình và triển khai thực hiện thí điểm Mô hình can thiệp PCBLGĐ đã có tác dụng thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức, phát huy vai trò vị trí của gia đình, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với công tác gia đình, đặc biệt trong việc thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình... góp phần giảm thiểu các vụ bạo lực gia đình; công tác can thiệp, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đã được triển khai kịp thời và có hiệu quả. 15
  18. - Công tác tuyên truyền, phổ biến được phối hợp triển khai thực hiện với nhiều nội dung, hình thức phong phú, làm cho người dân nâng cao nhận thức về pháp luật, đặc biệt là nắm rõ được các hành vi vi phạm về bạo lực gia đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong việc Phòng chống BLGĐ. - Nhiều đơn vị làm tốt công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 2.2.3.2. Hạn chế - Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Luật PCBLGĐ của một số cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn hình thức, mới chỉ dừng lại ở khâu tổ chức, quán triệt, chưa chỉ đạo quyết liệt, chưa đưa nội dung PCBLGĐ gắn với kế hoạch phát triển KT-XH hàng năm của địa phương; sự phối kết hợp giữa các cấp, các ban ngành đoàn thể chưa chặt chẽ đồng bộ, các nội dung hoạt động chưa phong phú, chính vì vậy công tác phòng chống BLGĐ còn nhiều hạn chế. - Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật và các văn bản thi hành Luật phòng chống BLGĐ còn đơn giản chưa sâu, hình thức tuyên truyền chưa đổi mới, do đó người dân thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung, luật phòng chống BLGĐ nói riêng. - Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này chưa phát huy vai trò trách nhiệm và kỷ cương thực hiện pháp luật chưa nghiêm, Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành nhất là ở cơ sở chưa chặt chẽ đồng bộ; các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi bạo lực gia đình chưa kịp thời; công tác tư vấn, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình theo pháp luật còn yếu. - Đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình nhất là ở cơ sở chưa thật sự nắm chắc các quy định của Luật PCBLGĐ, ảnh hưởng không nhỏ đến việc chỉ đạo thực hiện các mô hình điểm thể hiện ở sự lúng túng, hiệu quả chỉ đạo chưa cao. - Công tác thống kê, thu thập số liệu về bạo lực gia đình chưa thực sự chính xác, chưa phản ánh đúng thực tế, nhiều vụ BLGĐ xảy ra chưa được thống kê đầy đủ, số liệu này chủ yếu là phụ thuộc vào sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ cơ sở. - Kinh phí dành cho công tác phòng chống bạo lực gia đình còn ở mức thấp. Thực sự chưa đáp ứng được so với nhiệm vụ đặt ra. 16
  19. 2.2.3.3. Nguyên nhân hạn chế Kinh phí đầu tư cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Việc triển khai chỉ đạo thực hiện Luật phòng chống bạo lực gia đình chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình từ cấp huyện, cấp xã còn hoạt động kiêm nhiệm, chưa nắm chắc về kiến thức về Luật phòng chống bạo lực gia đình, phần lớn còn yếu về năng lực chuyên môn, đôi khi còn lúng túng trong việc triển khai hoạt động. Bạo lực gia đình đã bị nhìn nhận chưa đúng với tính chất nghiêm trọng của nó, công tác tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình chưa thực sự hiệu quả để giúp cho chính quyền và người dân nhận thấy trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình ở mỗi địa phương. Việc phát hiện và xử lý các vụ bạo lực gia đình chưa kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh. Hình thức phạt đối với các đối tượng gây bạo lực gia đình còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Việc kiểm tra, cập nhật thông tin về bạo lực gia đình còn chậm, chưa kịp thời. Công tác phát hiện, thống kê báo cáo về bạo lực gia đình rất khó khăn nên việc xử lý các hành vi vi phạm bạo lực gia đình chưa kịp thời. Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và các chính sách, pháp luật liên quan công tác gia đình của một bộ phận người dân chưa cao. 2.3. Trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong phòng, chống vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Luật Phòng chống bạo lực gia đình có một chương riêng quy định trách nhiệm của của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Có thể thấy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, mà nguyên nhân chính là do các cơ quan này chưa thật sự ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác này, cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ đã được pháp luật quy định.Trong khi đó, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cũng chưa có một quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này. 17
  20. Thực tiễn vấn nạn bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy: Việc thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao sự hiểu biết, từ đó làm thay đổi về nhận thức vấn đề là hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng dường như chưa được chú ý đúng mức. Pháp luật đã quy định nhưng lại không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế, mà chỉ quy định chung chung trong Chương 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành Luật [29]. Vì vậy, cần có những quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Cần quy định việc tuyên truyền này như là một trách nhiệm thường xuyên của một cơ quan, tổ chức cụ thể ở từng địa phương, từng cơ sở. Để mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần ngăn chặn bạo lực gia đình, trước tiên chính bản thân mỗi nạn nhân phải chủ động lên tiếng nhờ sự can thiệp, giúp đỡ từ các đoàn thể, chính quyền địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng luật bình đẳng giới và luật phòng chống bạo lực gia đình trong mọi tầng lớp nhân dân. Về mặt quản lý nhà nước, bên cạnh việc hoàn thiện khung hành lang pháp lý, thì chính quyền các cấp cần xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân mà nòng cốt là Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ xây dựng mô hình phòng chống bạo lực gia đình ở địa phương, làm cho mỗi gia đình hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Cần xem công tác phòng chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của mọi gia đình và toàn xã hội chứ không của riêng ai. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2