intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng

Chia sẻ: Hinh Duyệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

105
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công "Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng" gồm có 3 chương: Cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã; Thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng; Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI TIẾN VIẾT CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG TỈNH LÂM ĐỒNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số : 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG ĐẮK LẮK – NĂM 2017
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Sản Phản biện 1:................................................................... ..................................................................... Phản biện 2:................................................................... ..................................................................... Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia, Phân viện khu vực Tây Nguyên. Địa điểm: Phòng………………………..........................................., Nhà……………………………………………………………….... Số:……….- Đường………- Thành phố Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk. Thời gian: vào hồi……giờ……..tháng…..năm 2017 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Khi nói về vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [23; tr.269]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Chiến lược phát triển cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” cũng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam; có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của bộ máy Nhà nước, là chỗ dựa, là công cụ sắc bén để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ sở cho chiến lược ổn định và phát triển đất nước, là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn. Trong đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với Nhà nước. Sở dĩ như vậy vì họ là những cán bộ trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn dân cư, giải quyết mọi nhu cầu của dân cư, bảo đảm sự phát triển kinh tế của địa phương, duy trì trật tự, an ninh, an toàn xã hội trên địa bàn cấp xã. Sự nghiệp đổi mới đất nước muốn thành công phải tạo sự chuyển biến tích cực từ cơ sở, mà sự chuyển biến ở cơ sở lại phụ thuộc rất quan trọng ở chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là CBCC cấp xã. Huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng được thành lập ngày 17-11-2004 theo Quyết định số 189/2004/NĐ-CP của Chính phủ, trên cơ sở tách và nhập 5 xã vùng sâu, vùng xa của huyện Lâm Hà và 3 xã của huyện Lạc Dương (Lâm Đồng). Khi mới thành lập, tình hình kinh tế - xã hội của huyện hết sức khó khăn: hạ tầng cơ sở thấp kém, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo cao (73,2%), trình độ dân trí thấp, điều kiện canh tác lạc hậu... Do yêu cầu của nhiệm vụ phát triển KT-XH, đảm bảo ổn định an ninh-quốc phòng, năm 2005 huyện Đam Rông được thành lập trong bối cảnh cán bộ chủ chốt được điều động từ huyện Lạc Dương, Lâm Hà đến và được “đôn” từ các xã, thôn lên. Từ một địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt khó khăn của 2 huyện Lạc Dương và Lâm Hà, nên khi được thành lập, bộ máy tổ chức của huyện mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu về trình độ kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ là một thực tế khách quan. Nhận thức được điều đó, ngay từ ngày đầu được thành lập, Ban Thường vụ Huyện ủy Đam Rông đặt ra quyết tâm phải kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, bằng nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền - đoàn thể, thông qua việc tiếp nhận cán bộ trẻ đã qua đào tạo chính quy, lựa chọn, bổ nhiệm các trí thức trẻ theo Đề án 600 của Chính phủ, đưa đi đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức xã (đã cử 136 CBCC học lớp trung cấp lý luận chính trị, 293 CBCC học chuyên môn nghiệp vụ hệ tại chức, 25 CBCC học lớp trung cấp quản lý hành chính...), tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn các tổ chức Đảng, chính quyền - đoàn thể hoạt động đúng nội quy, quy định, đạt hiệu quả và tạo được uy tín đối với quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn tồn tại nhiều bất cập, đó là đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới đội ngũ CBCC cấp xã còn bộc lộ nhiều yếu kém về phẩm chất, năng lực còn thấp. Do vậy, việc xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng đội ngũ CBCC cấp xã và đưa ra một hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng có đủ phẩm chất, trình độ năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp bách. 1
  4. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em lựa chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ CC cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Về vấn đề “Chất lượng đội ngũ CBCC” đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể các công trình nghiên cứu có liên quan như sau: - TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ CBCC” NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. - PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. - Luận án tiến sĩ, đề tài “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Chu Xuân Khánh, năm 2010, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. - Nguyễn Minh Sản, “Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009. - Bài báo “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số (DTTS) ở Lâm Đồng”. - Bài báo “Đam Rông đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị”. Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, luận văn, sách chuyên khảo đều đã tiếp cận ở nhiều nội dung cụ thể khác nhau để giải quyết tốt mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra. Trong chừng mực nhất định, các nghiên cứu trên đây đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về chất lượng công chức cấp xã ở Việt Nam trong tình hình mới. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt và có hệ thống về “Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng”. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt và có hệ thống về vấn đề này dưới góc độ của khoa học quản lý công. Với kết quả nghiên cứu của luận văn, hy vọng sẽ góp phần khắc phục trình trạng nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng của công chức cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng trong những năm tiếp theo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới. Để thực hiện mục đích trên đây, luận văn có 3 nhiệm vụ chủ yếu: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã; Phân tích thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, qua đó xác định ưu điểm, những vấn đề còn tồn tại của hoạt động này Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng: là công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi về nội dung, nghiên cứu chất lượng của 7 chức danh công chức sau: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội. 2
  5. Phạm vi nghiên cứu về không gian gồm chất lượng công chức cấp xã của 8 xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Phạm vi về thời gian từ năm 2011 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cán bộ và chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức nói chung; chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng và kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả của các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập tài liệu: Đây là phương pháp truyền thống được sử dụng trong phần lớn các nghiên cứu. Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú bao gồm các tài liệu đã được xuất bản, tài liệu của cơ quan lưu trữ, tài liệu trên Internet. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Nhìn chung, các tài liệu về nâng cao chất lượng CBCC đều viết một cách khái quát, có nhiều nguồn số liệu khác nhau…Do đó, cần phải có sự chọn lọc tư liệu để tổng hợp thành các dữ liệu mang tính khái quát hóa. Đồng thời, khi sử dụng phương pháp so sánh, bản chất của sự việc sẽ được làm rõ và người nghiên cứu có cơ sở để phân tích thực trạng, nhận xét và đánh giá, định hướng xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng CC cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn +Về lý luận: - Làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt nêu bật những cơ sở khách quan để xây dựng đội ngũ CC cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Đánh giá đúng mặt mạnh, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, từ đó làm tiền đề để xây dựng và nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ CC cấp xã ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. - Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CC cấp xã trong giai đoạn hiện nay. +Về thực tiễn: - Những kết luận và những giải pháp rút ra từ Đề tài có thể giúp cấp ủy Đảng, chính quyền của huyện trong công tác xây dựng, hoạch định chính sách và quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. - Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện hoặc tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến nội dung này. - Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên quan sau này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã Chương 2: Thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng 3
  6. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1 CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã ở Việt Nam hiện nay công chức cấp xã đã được xác định rõ ràng về địa vị pháp lý là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Là những chức danh chuyên môn được tuyển dụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 “… Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. 1.1.2. Đặc điểm công chức cấp xã có thể nhận diện về những đặc điểm riêng của công chức cấp xã, một bộ phận của công chức nước ta, có một số đặc điểm: Thứ nhất, công chức cấp xã là chủ thể thực thi công vụ. Việc thực thi công vụ phải theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã và tuân theo pháp luật. Thứ hai, công chức cấp xã là người gần dân nhất. Họ là những người trực tiếp làm với dân, góp phần đưa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời họ là những người tham mưu cho cơ quan chức năng để các cơ quan này ban hành các chính sách phù hợp với thực tế. Thứ ba, hoạt động quản lý của công chức cấp xã là hoạt động đa dạng và phức tạp nên đòi hỏi đội ngũ công chức cấp xã phải có phẩm chất, trình độ, kỹ năng và thái độ hành vi đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. 1.1.3. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã Thứ nhất, là người tham mưu, giúp việc cho cán bộ chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở cơ sở. Công chức cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý và tổ chức công việc ở xã. Thông qua việc trực tiếp tiếp xúc làm việc với nhân dân, công chức cấp xã là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân trên quan hệ hành chính, giải quyết công việc. Vì vậy, cũng như vị trí của cán bộ, công chức cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân. Thứ hai, công chức cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực tiếp đảm bảo kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Họ là những người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu tranh chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thông qua hoạt động của công chức cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình. 1.1.4. Tiêu chuẩn của công chức cấp xã Theo đó, các chức danh công chức cấp xã ở khu vực đồng bằng và đô thị có những tiêu chuẩn cụ thể giống nhau, đó là: Về độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu; 4
  7. Về học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông; Về lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương đương sơ cấp trở lên. Riêng đối với hai chức danh công chức: Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng Quân sự, do yêu cầu của nhiệm vụ nên sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên; Về chuyên môn, nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp ngành chuyên môn trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước và phải sử dụng được kỹ thuật tin học phục vụ công tác chuyên môn (đối với Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng Quân sự xã phải biết sử dụng thành thạo các trang, thiết bị phù hợp với ngành chuyên môn). 1.1.5. Nhiệm vụ của các chức danh công chức cấp xã ) và nông thôn (xã). 1.2. Chất lượng công chức xã 1.2.1. Khái niệm chất lượng công chức cấp xã Từ việc phân tích những quan niệm khác nhau trên đây có thể rút ra quan niệm như sau: Chất lượng công chức cấp xã là tổng hợp các tiêu chí về phẩm chất, kiến thức, năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao của công chức cấp xã. Như vậy, nói tới chất lượng công chức cấp xã là nói tới phẩm chất chính trị, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phẩm chất đạo đức; trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, trình độ Lý luận chính trị, trình độ quản lý hành chính Nhà nước, trình độ tin học và ngoại ngữ và năng lực của người công chức nó quy định mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người công chức xã trong quá trình thực thi công vụ của mình. 1.2.2 Các tiêu chí đánh giá chất lượng công chức cấp xã. 1.2.2.1. Tiêu chí phẩm chất chính trị. Thứ nhất, phẩm chất chính trị, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Phẩm chất là giá trị và tính chất tốt đẹp của con người hay vật gì, cái làm nên giá trị của người hay của vật. Phẩm chất của công chức là những giá trị tốt đẹp của người công chức về ý thức tư tưởng, chính trị, văn hóa, đạo đức, tinh thần... Phẩm chất chính trị của người công chức thể hiện ở ý thức (về mặt tinh thần) và hành vi (về mặt thực tiễn) của mỗi người công chức. Những phẩm chất này được hình thành và rèn luyện trong quá trình học tập, tu dưỡng và trong thực tiễn công tác của mỗi người. Thứ hai, phẩm chất đạo đức Đạo đức được hiểu là phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội. Phẩm chất đạo đức của người công chức là những giá trị tốt đẹp của công chức về cách ứng xử trong mối quan hệ của họ với người khác, với tập thể, với nhân dân và xã hội. Phẩm chất đạo đức của người công chức là khả năng nhận thức và tự giác thực hiện những hành vi phù hợp với giá trị đạo đức, nhân văn của dân tộc; là quan niệm một cách đúng đắn về cái tốt, cái xấu, 5
  8. 1.2.2.2. Tiêu chí năng lực. Năng lực là một khái niệm rộng, nó là tổng hợp các đặc điểm phẩm chất tâm lý phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó đạt được kết quả. Năng lực được hình thành một phần trên cơ sở tư chất tự nhiên của mỗi cá nhân, một phần là qua quá trình đào tạo, giáo dục, qua hoạt động thực tiễn cũng như quá trình tự rèn luyện của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, mà phần lớn do công tác, do luyện tập mà có”. Năng lực được phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn, người lười biếng, trốn tránh lao động thì năng lực không thể phát triển được. Lênin đã nói: “Chỉ dựa vào tinh thần xung kích phấn khởi và nhiệt tình không thôi, thì không thể làm được gì cả” và cũng khẳng định “Lòng trung thành được kết hợp với năng lực hiểu biết về con người, về năng lực giải quyết những vấn đề về tổ chức thì chỉ có lòng trung thành đó mới có thể rèn luyện ra tổ chức lớn”. 1.2.2.3. Tiêu chí kiến thức Kiến thức con người nói chung được đánh giá qua nhiều tiêu chí, trong đó những tiêu chí có thể lượng hóa và cũng có những tiêu chí không thể lượng hóa. Dưới đây là một số tiêu chí cơ bản được sử dụng phổ biến để đánh giá kiến thức của công chức: Thứ nhất, trình độ học vấn Là chương trình giáo dục quốc dân mà công chức đã được trang bị. Nó là tổng thể những kiến thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để từ đó hình thành nên kiến thức chuyên môn và nhân cách của người công chức. Trình độ học vấn được đánh giá bằng số năm thực tế mà công chức được học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, cũng cần phải chú trọng một cách thức đánh giá rất quan trọng là trình độ thực tế của công chức, vì trong nhiều trường hợp trình độ học vấn và bằng cấp không tương xứng nhau. Thứ hai, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Được phản ánh thông qua kiến thức chuyên môn mà công chức được trang bị. Đó là sản phẩm của đào tạo, là kết quả của quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hình thành kỹ năng nghề nghiệp của công chức. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng được phản ánh thông qua 2 khía cạnh: Một là, bằng cấp chuyên môn mà công chức có, được tính từ chứng chỉ nghề, sơ cấp về chuyên môn, nghiệp vụ trở lên. Hai là, khả năng vận dụng có hiệu quả kiến thức chuyên môn vào trong thực tế công tác, phát huy được hiệu quả, mang lại giá trị thực tế. Đây chính là một khâu còn rất nhiều hạn chế của công chức cấp xã. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc đánh giá công chức theo bằng cấp chuyên môn và bằng cấp là một tiêu chí quan trọng để tuyển dụng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Cách thức đánh giá và sử dụng công chức như thế đã quá lạc hậu, nó không thể thích nghi với một nền hành chính chuyên nghiệp và hiện đại, nơi mà tất cả đều được đánh giá bằng kết quả thực tế chứ không phải ở bằng cấp. Dù thế việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá công chức cấp xã hiện nay vẫn phụ thuộc rất nhiều vào bằng cấp mà công chức có được. Thứ ba, trình độ Lý luận chính trị Được hiểu là khả năng tư duy LLCT của công chức. Nó phản ánh nhận thức thế giới quan của công chức về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy dựa trên cơ sở chủ 6
  9. nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó cũng phản ánh sự nhận thức đúng đắn của công chức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cũng giống như trình độ học vấn, trình độ LLCT được phản ánh đồng thời thông qua 2 khía cạnh: Một là, đó là chương trình LLCT mà công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. Hai là, đó là khả năng tư duy lý luận thực tế của công chức. Có nghĩa là chất lượng lý luận thực sự của công chức, là khả năng thực tế của công chức cấp xã trong việc vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng vấn đề, từng nhiệm vụ cụ thể tại địa phương, giải quyết một cách có cơ sở khoa học, chính xác, mang lại hiệu quả cao. Theo quy định, công chức cấp xã phải đạt trình độ Lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên. Thứ tư, trình độ quản lý Nhà nước Trình độ QLNN là tổng hợp những kiến thức, kỹ năng của công chức về nhà nước, pháp luật, quản lý hành chính Nhà nước và khả năng vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả những kiến thức đó vào trong thực tiễn công tác. Nó được hình thành chủ yếu khi công chức được tuyển dụng và bước vào làm việc trong cơ quan nhà nước. Đối với công chức cấp xã, do mỗi vị trí chức danh đều có những đặc thù riêng, nên việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn rất cần đến kiến thức QLNN theo một mối quan hệ cơ hữu với nhau: trình độ chuyên môn tương ứng với vị trí đảm nhận + kiến thức QLNN. Có như thế những kiến thức chuyên môn của công chức khi được áp dụng trong QLNN ở cơ sở mới mang lại kết quả thực tế, đúng với quy định. Thứ năm, trình độ tin học Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin và truyền thông, do đó việc trang bị và nâng cao trình độ tin học cho công chức là rất cần thiết, nó trở thành đòi hỏi bắt buộc đối với hoạt động tác nghiệp chuyên môn của công chức, là cơ sở để thực hiện việc hiện đại hóa nền hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính hiện đại. 1.2.2.4. Tiêu chí kỹ năng nghiệp vụ Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng nghề nghiệp bao giờ cũng gắn với một hoạt động cụ thể ở một lĩnh vực cụ thể như: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phối hợp, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng soạn thảo văn bản… Đây là sản phẩm của quá trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm thông qua đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, công tác. Vì thế khi cho rằng quản lý là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật thì kỹ năng chính là nghệ thuật của hoạt động quản lý cũng như tác nghiệp chuyên môn của công chức. 1.2.2.5. Tiêu chí thái độ, hành vi Thái độ là một trong 3 bộ phận cấu thành nên năng lực công chức. Trong nhiều trường hợp chính thái độ là nhân tố quyết định năng lực chuyên môn và kết quả thực thi công vụ của công chức trong thực tế. Đánh giá thái độ là một việc khó vì các tiêu chí gần như chỉ định tính mà khó có thể định lượng bằng các con số cụ thể. Xuất phát từ đặc điểm thực thi công vụ của công chức cấp xã, trong luận văn này việc đánh giá thái độ của công chức cấp xã được thể hiện qua các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan 7
  10. Thứ hai, tinh thần, ý thức trách nhiệm đối với việc thực thi công vụ Thứ ba, tinh thần hợp tác, cầu thị, sự cởi mở trong giao tiếp với nhân dân Thứ tư, tinh thần, ý thức học tập, rèn luyện về đức, chuyên môn nghiệp vụ Thứ năm, thái độ phục vụ người dân 1.2. CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ . 1.2.1. Khái niệm chất lượng công chức cấp xã Khi nghiên cứu về nội hàm khái niệm chất lượng của công chức cấp xã ta phải xét dưới hai đặc tính: Một là, là phẩm chất, giá trị của công chức cấp xã bao gồm kiến thức, năng lực, các kỹ năng, phẩm chất đạo đức. Đó là tổng hợp các yếu tố chuyên môn được đào tạo, kinh nghiệm làm việc, năng khiếu cá nhân, yếu tố tiềm năng hoặc thiên bẩm để nâng cao khả năng làm việc. Hai là, trên cơ sở phẩm chất là khả năng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Ở khía cạnh này là sự đánh giá của xã hội nói chung và nhân dân địa phương nơi công chức công tác. 1.2.2 Các tiêu chí đánh giá công chức xã. 1.2.2.1.Tiêu chí phẩm chất Thứ nhất, phẩm chất chính trị, chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Thứ hai, phẩm chất đạo đức 1.2.2. 2Tiêu chí kiến thức Thứ nhất, trình độ học vấn Thứ hai, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Thứ ba, trình độ lý luận chính trị Thứ tư, trình độ quản lý nhà nước Thứ năm, trình độ tin học 1.2.2.3. Tiêu chí kỹ năng nghiệp vụ . Kỹ năng soạn thảo văn bản Kỹ năng phối hợp trong công tác Kỹ năng lập kế hoạch công tác cá nhân Kỹ năng giao tiếp và thuyết trình, giao tiếp Kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin trong công tác Kỹ năng phân tích và giải quyết công việc Tin học 1.2.2.4 Tiêu chí thái độ, hành vi Thứ nhất, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan Thứ hai, tinh thần, ý thức trách nhiệm đối với việc thực thi công vụ Thứ ba, tinh thần hợp tác, cầu thị, sự cởi mở trong giao tiếp với nhân dân Thứ tư, tinh thần, ý thức học tập, rèn luyện về đức, chuyên môn nghiệp vụ Thứ năm, thái độ phục vụ người dân 8
  11. 1.3 SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC XÃ. Trong công cuộc đổi mới đất nước cùng tiến trình hội nhập quốc tế đặt ra một yêu cầu to lớn và cấp bách về xây dựng đội ngũ công chức cấp cơ sở nói chung và công chức cấp xã nói riêng có đủ phẩm chất và năng lực, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, nâng cao chất lượng công chức cấp xã là tất yếu khách quan bởi các lý do sau: Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò của chính quyền xã Thứ hai, xuất phát từ đặc thù và yêu cầu quản lý Nhà nước của chính quyền cấp xã Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại, mang tính chuyên nghiệp Thứ tư, nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã nhằm khắc phục những yếu kém hiện có của công chức cấp xã 1.4. YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ 1.4.1. Các yếu tố khách quan Thứ nhất, công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức cấp xã Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra Thứ tư, chính sách tiền lương và chế độ ưu đãi Thứ năm, điều kiện và môi trường làm việc Thứ sáu, văn hóa địa phương và văn hóa công sở 1.4.2. Yếu tố chủ quan Thứ nhất, định hướng giá trị của cá nhân Thứ hai, kinh nghiệm thực tiễn của công chức cấp xã Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG 2.1. Khái quát về thành phố huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng 2.1.1. Lịch sử hình thành và điều kiện tự nhiên Đam Rông là huyện miền núi, nằm về hướng Tây Bắc của tỉnh Lâm Đồng, trên trục đường Quốc lộ 27 từ Lâm Đồng đi Đắk Lắk với tổng diện tích tự nhiên là 86.090 ha, trong đó đa số là diện tích đất Lâm nghiệp với 66.909 ha, chiếm 77,1% diện tích tự nhiên. Huyện Đam Rông được thành lập theo Nghị định số 189/2004/NĐ-CP ngày 17/11/2004 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách 05 xã vùng sâu, vùng xa của huyện Lâm Hà và 03 xã của huyện Lạc Dương. Trong bối cảnh buổi đầu mới thành lập, điều kiện kinh tế - xã hội của huyện hết sức khó khăn: cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn nhiều thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 73,19%, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 2,6 triệu đồng/người/năm, trình độ dân trí và trình độ canh tác lạc hậu; trong khi đó đội ngũ cán bộ về đảm nhận công tác được tập hợp từ nhiều nguồn, vừa thiếu, vừa chưa am hiểu hết tình hình thực tế tại địa phương, điều kiện làm việc và ăn ở hết sức khó khăn. Tuy nhiên, được sự quan tâm lãnh đạo thường xuyên và tập trung của Tỉnh uỷ, HĐND - UBND tỉnh, sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan tỉnh, các Bộ, ngành Trung ương, đặc biệt là sự quyết tâm, đồng thuận của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện nhà đã giúp huyện sớm vượt qua khó khăn và từng bước đi lên phát triển. Đến nay, sau 10 năm hình thành và xây dựng, huyện Đam Rông đã thu được nhiều thành tựu đáng tự hào, diện mạo của huyện đã có sự thay đổi rõ nét, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. 9
  12. Huyện Đam Rông có 8 xã: Đạ Knàng, Đạ Long, Đạ M'rong, Đạ Rsal, Đạ Tông, Liêng S’rôhn, Phi Liêng, Rô Men 2.1.2 Khái quát về kinh tế - xã hội Tổng dân số của toàn huyện đến nay là 11.964 hộ với 47.069 nhân khẩu, trong đó hầu hết là người đồng bào dân tộc thiểu số với 8.787 hộ/35.018 nhân khẩu (chiếm 74,4% dân số của toàn huyện) chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên và một số đồng bào dân tộc thiểu số di cư từ các tỉnh Miền núi phía Bắc đến sinh sống, như: Tày, Nùng, Dao. Mường, Thái, Hoa và H’Mông tạo nên cộng đồng với trên 20 thành phần dân tộc chung sống, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Kết quả qua 05 năm (2011 – 2015) đầu tư phát triển diện mạo vùng dân tộc thiểu số của huyện đã có nhiều thay đổi; đời sống về vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số đã được cải thiện nâng cao, nhất là tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể qua các năm, đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo của huyện giảm còn 7,5% trong đó tỷ lệ hộ nghèo người đồng bào dân tộc thiểu số giảm còn 11%(theo chuẩn nghèo cũ). Tình hinh an ninh, chính trị, trật tự xã hội luôn được ổn định và giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hiệu quả, tích cực đã đạt được, nhìn chung tình hình phát triển vùng dân tộc thiểu số của huyện vẫn còn chậm; nhiều vấn đề bức xúc về nước sinh hoạt, đất sản xuất, tình trạng dân di cư tụ do vẫn chưa được đảm bảo và giải quyết dứt điểm; tỷ lệ hộ nghèo sau khi rà soát theo chuẩn nghèo đa chiều còn cao, chiếm 37,11% trong đó tỷ lệ hộ nghèo là người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 55,4%. Tình hình an ninh chính trị tuy được giữ vững, nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn định... 2.2. Chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Đam Rông tỉnh Lâm Đồng hiện nay 2.2.1. Khái quát về công chức cấp xã huyện Đam Rông Huyện Đam Rông hiện có 8 đơn vị hành chính cấp xã, với tổng số cán bộ, công chức cấp xã tính đến tháng 10/2016 là 188 người, cụ thể: + Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Sơ cấp và chưa qua đào tạo 3 người chiếm tỷ lệ 3,12%; trung cấp 47 người chiếm tỷ lệ 49%; cao đẳng 8 người chiếm tỷ lệ 8,33 %, đại học 38 người chiếm tỷ lệ 39,6%. + Lý luận chính trị: Sơ cấp và chưa qua đào tạo 63 người chiếm tỷ lệ 66%, trung cấp 33 người chiếm tỷ lệ 34%. + Độ tuổi: dưới 30 chiếm tỷ lệ 32,29%; từ 30 đến 45 chiếm tỷ lệ 57,29%; từ 45 đến 51 chiếm tỷ lệ 10,41% ; từ 51 đến 60 chiếm tỷ lệ 4,06%. 2.2.2. Về phẩm chất của công chức cấp xã huyện Đam Rông Về cơ bản công chức cấp xã huyện Đam Rông đã được rèn luyện, thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã lựa chọn, luôn trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tinh thần đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp đổi mới ngày càng thu nhiều thắng lợi. 2.2.3. Về trình độ của công chức cấp xã huyện Đam Rông Thứ nhất, về trình độ học vấn Số công chức có trình độ văn hoá tốt nghiệp THCS là 01 người, chiếm 1%; trình độ văn hoá tốt nghiệp THPT là 95 người, chiếm 98%. Qua thống kê cho thấy mặt bằng chung thì công chức cấp xã của huyện có trình độ học vấn THPT tương đối cao (98%), chỉ có 01 trường hợp trình độ THCS là công chức lớn tuổi sắp về hưu không có nhu cầu học tập nâng cao trình độ, nhưng có kinh nghiệm và uy tín đối với cơ sở, giữ chức danh Trưởng công an xã. Thứ hai, về trình độ chuyên môn 10
  13. Công chức cấp xã huyện Đam Rông có trình độ chuyên môn sơ cấp 03 người, chiếm 3,1%, trình độ chuyên môn trung cấp 47 người, chiếm 49%, trình độ cao đẳng 08 người, chiếm 8,3%, trình độ đại học 38 người, chiếm 39,6%. Số công chức đạt chuẩn về trình độ chuyên môn là 93 người, chiếm 96,9%. Thứ ba, về trình độ lý luận chính trị Công chức cấp xã huyện Đam Rông có trình độ lý luận chính trị sơ cấp 06 người, chiếm 6,3%, trình độ lý luận chính trị trung cấp 33 người, chiếm tỷ lệ 34,4%, chưa qua đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị 57 người, chiếm 59,4%. Tổng số công chức cấp xã đạt chuẩn về trình độ lý luận chính trị là 39 người, chiếm tỷ lệ 40,6%. Thứ ba, về trình độ quản lý nhà nước Công chức được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà theo chức danh là 06 người, chiếm 6,3%, chưa qua bồi kiến thức quản lý nhà nước 90 người, chiếm 93,7%. 2.2.4. Về kỹ năng nghiệp vụ của công chức cấp chức cấp xã huyện Đam Rông Công chức cấp xã trên địa bàn huyện trong những năm gần đây đã được bồi dưỡng về các kỹ năng để đáp ứng yêu cầu giải quyết công việc theo yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới thể hiện theo những nội dung sau: Thứ nhất, kỹ năng nắm vững các chủ trương, chính sách để cụ thể hóa trong thực thi nhiệm vụ Thứ hai, kỹ năng tuyên truyền và phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước Thứ ba, kỹ năng tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước 2.2.5. Thái độ hành vi của công chức đối với nhân dân Thực tế về văn hóa ứng xử của công chức cấp xã ở huyện hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được khắc phục như: Thứ nhất, tinh thần và thái độ. Thứ hai, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ. 2.2.6. Kết quả phân loại chất lượng công chức xã Qua kết quả đánh giá công chức trên của các xã, phường trên địa bàn huyện, từ năm 2011 - 2016 đa số công chức đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ (trên 90%), số lượng công chức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực cơ bản hoàn thành khối lượng công việc được giao nhưng chưa đạt yêu cầu trong tình hình hiện nay (dưới 10%) 11
  14. Kết quả phân phân loại công chức xã giai đoạn 2011 - đến nay Tổng số Kết quả đánh giá, xếp loại công Hoàn Hoàn Tổng số chức thành thành Năm công chức được xuất Hoàn thành tốt Không hoàn nhiệm vụ hiện có đánh sắc nhiệm vụ thành nhiệm vụ còn hạn chế giá, xếp nhiệm về năng lực loại vụ 2011 68 67 16 49 2 2012 71 69 19 47 3 2013 80 80 24 53 3 2014 96 96 26 66 4 2015 96 96 19 70 7 2016 96 96 19 72 5 (Nguồn phòng Nội vụ huyện Đam Rông - Lâm Đồng) 2.2.7. Điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc Điều kiện làm việc của công chức cấp xã nhìn chung được cải thiện đáng kể; bình quân mỗi xã, phường được trang bị 08 máy vi tính và 01 máy fax, 01 máy photocopy phục vụ cho công tác của cấp ủy, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, một số trang thiết bị văn phòng đã cũ, chưa có điều kiện thay thế. 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG 2.3.1. Kết quả đạt được Qua phân tích thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng có thể đánh giá về những kết quả đạt được như sau: Thứ nhất, cơ bản đảm bảo về số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng, trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí chức danh công tác. Thứ hai, phần lớn công chức cấp xã hiện đang công tác đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Thứ ba, về chuyên môn nghiệp vụ, một số chức danh đã có phần lớn công chức có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí công tác, một số vị trí chức đã đạt chuẩn theo quy định. Thứ tư, trong thực thi công vụ một bộ phận khá lớn công chức cấp xã của huyện đã phát huy được trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phục vụ đạt yêu cầu, nhiệm vụ tại địa phương. Thứ năm, việc đánh giá, bố trí, sử dụng công chức cấp xã được tiến hành thường xuyên, về cơ bản đã đảm bảo nguyên tắc, yêu cầu công tác. 2.3.2. Những hạn chế, yếu kém Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, đội ngũ công chức cấp xã thành phố huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng còn bộc lộ một số hạn chế sau: Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, đội ngũ công chức cấp xã thành phố huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng còn bộc lộ một số hạn chế sau: 12
  15. Thứ nhất, về năng lực và kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ. Do hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nên chất lượng không đồng đều; nhận thức và tác phong còn mang dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung nên thiếu sự năng động sáng tạo, ngồi chờ giao việc. Đội ngũ công chức cấp xã nhìn chung chưa được bồi dưỡng đầy đủ những kiến thức theo tiêu chuẩn quy định, nhất là những kiến thức về quản lý Nhà nước, về pháp luật, về kỹ năng và nghiệp vụ hành chính; công chức đạt chuẩn về ba mặt học vấn, chuyên môn nghiệp vụ còn thấp (mới chỉ đạt 63%). Một bộ phận công chức cấp xã chưa được đào tạo một cách bài bản, chính quy về chuyên môn nghiệp vụ (nhất là Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng Quân sự xã). Nhận thức không đồng đều, thiếu chủ động sáng tạo; việc vận dụng các chủ trương, chính sách của cấp trên vào điều kiện cụ thể của địa phương chưa linh hoạt, nhiều nơi còn sao chép một cách máy móc. Không ít trường hợp chưa nắm vững chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không nắm vững các quy định của pháp luật, vì vậy quá trình chỉ đạo điều hành, giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tuỳ tiện theo cảm tính cá nhân, không căn cứ vào quy định của pháp luật dẫn đến vi phạm kỷ luật. Thứ hai, công chức chuyên môn cấp xã của huyện chưa được bố trí sử dụng một cách ổn định, chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của công chức chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ được giao, còn bất cập, hẫng hụt về năng lực quản lý Nhà nước về xã hội, kinh tế thị trường, pháp luật, hành chính, kỹ năng xử lý tình huống, cũng như khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý còn hạn chế. Thứ ba, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận công chức cấp xã chưa tốt, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần và thía độ phục vụ nhân dân chưa cao; tình trạng sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn một cách triệt để, gây nên sự trì trệ, trở ngại trong việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cấp xã. Hạn chế về khả năng tư duy, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, thiếu khả năng nghiên cứu, tổng hợp tình hình, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; tinh thần hợp tác, phối hợp công việc còn nhiều hạn chế, nên hiệu quả công tác không cao. Thứ tư, một bộ phận sa sút về phẩm chất, đạo đức lối sống; thiếu tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ không tốt, có biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa dân, gây phiền hà cho nhân dân. Tình trạng tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương tuy đã có các giải pháp ngăn ngừa, nhưng hiệu quả còn thấp, có trường hợp phải xử ký trách nhiệm hình sự. Những hạn chế như trên của công chức cấp xã ở huyện đang làm trở ngại cho tiến trình đổi mới, làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả hoạt động công vụ của chính quyền cấp xã hiện nay. Vì vậy, công tác xây dựng, nâng cao chất lượng, năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã huyện Đam rông là rất cần thiết. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ công chức cấp xã, nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là: Thứ nhất, cơ chế quản lý, sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với công chức cấp xã còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo được động lực khuyến khích đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, đặc biệt là chưa có chính sách hợp lý để thu hút sinh viên mới ra trường tình nguyện về công tác ở cấp xã. Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cho công chức cấp xã chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng vẫn chưa thật sự chủ động, chủ yếu trên cơ sở có công văn từ cấp trên hoặc từ các trung tâm đào đạo gửi thông báo tuyển sinh, căn cứ vào thực trạng, nhu cầu của CBCC của đơn vị rồi mới lập danh sách đăng ký đào tạo, bồi dưỡng. Số lượng cán bộ trẻ được cử đi đào tạo còn hạn chế, đặc biệt là đào tạo về Lý luận 13
  16. chính trị. Một số cán bộ, công chức đi học mang tính đối phó là chủ yếu, học để lấy bằng cấp, chứng chỉ, chứ chưa có mục đích rõ ràng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ công tác. Các kỹ năng hành chính của công chức cấp xã chưa đồng đều, đặc biệt đối với số công chức trẻ như áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ còn nhiều hạn chế. Nhận thức của một bộ phận công chức cấp xã về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình trong bộ máy nhà nước chưa rõ ràng, chưa thấy rõ đòi hỏi về năng lực trong thực thi công vụ, từ đó chưa thực sự tích cực phấn đấu để vươn lên. Thứ ba, tiền lương của công chức cấp xã hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với thời giao lao động, sức lực, trí tuệ mà họ bỏ ra và trách nhiệm mà họ phải gánh chịu; chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu và không phải là nguồn thu nhập chính của hầu hết công chức cấp xã, do đó mức lương như hiện nay không còn có ý nghĩa khuyến khích, động viên công chức cấp xã tâm huyết với công việc. Công chức cấp xã ở huyện phần lớn đều sản xuất nông nghiệp, là lao động chính của gia đình, vì vậy có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc ở cơ quan là không tránh khỏi. Thứ tư, chính quyền các xã chưa dự báo được nhu cầu công chức trong tương lai để chủ động tạo nguồn đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung thay thế về lâu dài, nên khi công chức chuyên môn được bố trí công việc khác thì không có nguồn thay thế kịp thời, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động công vụ tại cấp xã. Có địa phương công chức xã phần lớn là con, cháu của lãnh đạo xã nên ỷ lại, thiếu ý chí phấn đấu. Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra thực thi công vụ ở cấp xã chưa được thực hiện thường xuyên nên nhiều vấn đề sai phạm của công chức cấp xã chưa được uốn nắn, khắc phục kịp thời, cũng như chưa kịp thời động viên, khen thưởng đối với những công chức hoạt động tích cực, xuất sắc. Việc đánh giá công chức cấp xã chỉ mang tính hình thức, người làm tốt cũng như người chưa tích cực đến cuối năm đều được đánh giá như nhau. Điều đó làm cho công tác giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức đối với công chức cấp xã chỉ mang tính chung chung, khẩu hiệu, chưa có quy định ràng buộc rõ ràng. Nhìn chung, chất lượng hiệu quả hoạt động công chức cấp xã ở huyện Đam Rông hiện nay chưa cao, nhiều công chức cấp xã còn yếu về năng lực chuyên môn, kiến thức về quản lý hành chính Nhà nước, cũng như khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ. Trong khi xu hướng phân cấp mạnh cho chính quyền cấp xã đang trở thành một yêu cầu tất yếu, do đó cần phải có đội ngũ công chức cấp xã đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt mới đảm đương được công việc, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công vụ của chính quyền cấp xã trong thời gian tới. 14
  17. CHƯƠNG 3 QUAN ĐIÊM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG 3.1. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG 3.1.1. Quan điểm chung về nâng cao chất lượng công chức cấp xã Mục tiêu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiêu chuẩn chung, có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại Điều 8 đã khẳng định: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Lâm Đồng lần thứ X, nhiệm kỳ 2016-2021, định hướng kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở (cấp xã) với mục tiêu là xây dựng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chuẩn hóa, chú ý trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo theo đúng chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng đổi mới phương thức, nội dung đào tạo, bồi dưỡng hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra trong quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính, tính chuyên môn và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin. Thực hiện tốt chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao mà tỉnh có nhu cầu về công tác, chú ý quan tâm đối với những cán bộ tình nguyện về công tác vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện nghiêm các quy định về tuyển dụng và quản lý cán bộ, công chức. Căn cứ và nhu cầu, vị trí việc làm, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức để tuyển dụng những người đủ tiêu chuẩn. Thực hiện tốt việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức để xác định đúng năng lực thực tế. Thực hiện các chính sách thích hợp đối với những người không đủ tiêu chuẩn phải đưa ra khỏi bộ máy. Xây dựng đội ngũ công chức trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến nghị và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng trước hết là phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn 15
  18. đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn có quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài. Xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Lâm Đồng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân và dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng. Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng bảo thủ, hẹp hòi, cục bộ địa phương, thiếu khách quan trong việc đánh giá, sử dụng nguồn nhân lực, nhất là bố trí, sử dụng cán bộ. Thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ, nhất là nâng cao vai trò của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, các tổ chức sự nghiệp và các thành phần kinh tế để xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức viên chức, viên chức. 3.1.2. Quan điểm, định hướng của huyện Đam Rông Cán bộ công chức có vai trò rất quan trọng là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ mới là xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của thành phố. Đảm bảo thống nhất Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ công chức, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và đổi mới cơ chế chính sách đối với cán bộ. Phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng và chất lượng; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ; đủ sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển của thành phố (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III). 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN ĐAM RÔNG, TỈNH LÂM ĐỒNG Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng, từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu quả công việc của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật xã hội chủ nghĩa. Một trong số những giải pháp trọng tâm là xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả. Đội ngũ công chức cấp xã chính là hạt nhân, có vị trí, vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc thực thi các nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương. Công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng, là nền tảng ở cơ sở. Địa phương mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ công chức xã. Công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, do đó, đầu tư xây dựng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất, đạo đức, có năng lực thực thi công vụ là nhiệm vụ bức thiết của cấp ủy chính quyền các cấp. Với tầm quan trọng đó, dựa vào điều kiện cụ thể của huyện Đam Rông, một số giải pháp được đề xuất để nâng cao chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố như sau: 3.2.1. Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu về phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức Trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng và huyện Đam Rông đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều chủ trương biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến lề lối; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống; kiên quyết chống hành vi quan liêu tham nhũng, lãng phí tiêu cực, 16
  19. thiếu trách nhiệm nhũng nhiễu nhân dân của công chức. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông vẫn chưa thực sự chuyển biến tốt theo hướng phục vụ nhân dân, kỷ luật, kỷ cương hành chính vẫn còn chưa nghiêm; tác phong lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân và một bộ phận công chức chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong tình hình mới. Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ của công chức cấp xã huyện Đam Rông thiết thực và hiệu quả, cần xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Công chức cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu học, biết học và học có hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng hợp tác, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm; kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống lại dốt nát, nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, đố kỵ, lối sống buông thả và sa đọa. Đồng thời, thường xuyên giáo dục và nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức công vụ, đạo đức cá nhân: Giáo dục đạo đức công vụ là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ và phức tạp, vừa cấp bách vừa lâu dài, phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong thực tiễn hoạt động công vụ và trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là một quá trình giáo dục tổng hợp bao gồm giáo dục chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, ý thức lao động, kỹ năng lao động nghề nghiệp, giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, tình thương yêu con người… Đặc biệt, chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm đạo đức. Ở chừng mực nào đó, cần thiết phải thể chế hóa những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm pháp luật. Mặt khác, coi việc xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, một mặt giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức tỉnh tự phán xử và làm cho lương tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là quá trình biến nhận thức cái tất yếu thành cái tự do, biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm, thành niềm tin vững chắc, thành sự thôi thúc bên trong, hình thành ý thức cái cần phải làm để khỏi xấu hổ trước người khác và trước bản thân. Thông qua hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân, công chức không chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo ra điều hiện cơ bản để đạt được hạnh phúc. Rèn luyện đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Mặt khác, kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ. Với những hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà về thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân. Đặc biệt, các trường hợp tái phạm có tổ chức, có tình tiết nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời và công bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình nhằm đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo đức. Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây phiền hà cho tiếp nhận, xử lý công việc của công dân; kiên quyết loại bỏ những khâu trung gian, thủ tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết, công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về trình tự, thủ tục hành chính nhằm tránh tình trạng công chức lợi dụng kẽ hở từ những quy định của pháp luật và vận dụng tùy tiện trong giải quyết công việc. Nâng cao đạo đức công vụ là một đòi hỏi tất yếu và để thực hiện được cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của người công chức, vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và vừa ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng, nâng cao đạo đức công vụ, trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công chức, đây cũng là kết quả từ nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội. 17
  20. Hiện nay, tham nhũng, tiêu cực đã trở thành điều nhức nhối trong đời sống xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giảm hiệu lực của cơ quan Nhà nước các cấp trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội; là lực cản lớn của quá trình đổi mới xây dựng đất nước, mảnh đất tốt gieo mầm cho các thế lực thù địch lợi dụng để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta. Để chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ công chức nhất là công chức cấp xã là công việc cấp bách và cần tập trung vào một số nhiệm vụ như thực hiện nghiêm túc kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khoá IX; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với công chức; tổ chức học tập quán triệt xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Luật Chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm; duy trì thành nề nếp việc học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục cho công chức chính quyền cấp xã noi theo tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp tục duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê và phê bình trong công chức cấp xã. Thực hiện nghiêm chế độ nhận xét, đánh giá đối với công chức, đặc biệt là khâu thông báo công khai đối với công chức về những ưu, khuyết điểm của công chức để họ có kế hoạch phấn đấu. Đồng thời, cần bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước về quản lý tài chính, quản lý công sản, xây dựng cơ bản,… không tạo kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng. Xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng. Duy trì thành nề nếp việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, sử dụng tài sản công. Ngoài ra, cần thực hiện tốt chế độ kê khai tài sản công chức theo quy định; chế độ công khai hóa hoạt động công vụ, nhất là trong các công việc quan hệ với công dân, trong các lĩnh vực liên quan đến những vấn đề nhạy cảm được xã hội quan tâm như chính sách cán bộ, công chức, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản và tài chính, ngân sách,… Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng và giám sát mọi hoạt động, sinh hoạt của công chức cấp xã. Bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Xử lý nghiêm khắc, thích đáng những công chức cấp xã thoái hóa, biến chất. 3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức cấp xã Tuyển dụng công chức nói chung và công chức cấp xã là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng công chức sau này. Đây là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp và rất dễ xảy ra tiêu cực. Trong thời gian qua, công tác tuyển dụng đã có nhiều đổi mới tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định, vì vậy để nâng cao chất lượng thực thi công vụ của công chức cấp xã, công tác tuyển dụng cần phải được thực hiện một số hoạt động sau: Đổi mới nội dung và cách thức thi tuyển công chức: Nội dung thi tuyển công chức cấp xã phải gắn với chuyên ngành của vị trí dự tuyển để khảo sát được trình độ và các kỹ năng của thí sinh, đảm bảo thí sinh có thể thực hiện ngay công việc ở vị trí tuyển dụng; kỹ năng soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước; kỹ năng ứng dựng công nghệ thông tin. Ứng dụng công nghệ thông tin trong phương pháp thi tuyển trắc nghiệm kiến thức chung qua máy tính nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo khách quan, công bằng và góp phần phòng chống tiêu cực trong thi tuyển công chức. Đảm bảo công tác tuyển dụng công chức xã được diễn ra theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh và tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh. Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và số lượng công chức cấp xã theo từng chức danh được UBND huyện giao (trên cơ sở quyết định giao chỉ tiêu của UBND tỉnh), UBND các xã có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2