YOMEDIA
ADSENSE
Trao quyền cho người dân: Phương thức nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công
14
lượt xem 7
download
lượt xem 7
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết Trao quyền cho người dân: Phương thức nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công giới thiệu việc trao quyền cho người dân và các hình thức cụ thể của nó đã được thực hiện và mang lại hiệu quả tích cực tại nhiều quốc gia Châu Á thuộc nhóm đang phát triển, như những kinh nghiệm quản trị tốt được Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) khuyến nghị tham khảo và áp dụng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Trao quyền cho người dân: Phương thức nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công
- TRAO QUYỀN CHO NGƢỜI DÂN: PHƢƠNG THỨC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG ThS.Vũ Quang Huy – chuyên ngành QLHCNN Khoa Hành chính – Luật, Trường Đại học Thủ Dầu Một Tóm tắt: Dịch vụ công thường đại diện cho bộ mặt của quốc gia bởi nó là kênh giao tiếp chủ yếu giữa phần lớn người dân với chính quyền. Do vậy, việc tìm kiếm các phương thức cung cấp dịch vụ công hiệu quả cho người dân có vai trò quan trọng. Bài viết giới thiệu việc trao quyền cho người dân và các hình thức cụ thể của n đã được thực hiện và mang lại hiệu quả tích cực tại nhiều quốc gia Châu Á thuộc nh m đang phát triển, như những kinh nghiệm quản trị tốt được Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) khuyến nghị tham khảo và áp dụng. Từ khóa: Dịch vụ công, trao quyền 1. Đặt vấn đề Ngân hàng phát triển Châu Á tại Philippines nhận định1, mặc dù chƣơng trình phát triển Châu Á đã đạt đƣợc nhiều kết quả ấn tƣợng trong việc hƣớng đến mục tiêu thịnh vƣợng, giảm nghèo, gia tăng các chỉ số đo lƣờng xã hội; theo đó, ấn tƣợng nhất vẫn là các tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục, tăng cƣờng bình đẳng giới, giảm suy dinh dƣỡng và thiếu ăn. Tuy nhiên, khu vực Châu Á vẫn đang đi sau nhiều khu vực trên thế giới về khả năng cung cấp các dịch vụ công cơ bản và chất lƣợng của các dịch vụ đó. Các vấn đề còn tồn tại hiện nay khá đa dạng, không chỉ về số lƣợng và chất lƣợng, mà còn liên quan đến khả năng tiếp cận các dịch vụ này của ngƣời nghèo, tình trạng tham nhũng dƣới các hình thức bòn rút nguồn lực và nhận hối lộ. Những vấn đề này đã ảnh hƣởng nghiêm trọng đến ngƣời nghèo, vốn phải đang vật lộn với mức thu nhập thấp hoặc đơn giản là không có cơ hội tiếp cận các dịch vụ. Chính phủ các quốc gia Châu Á thƣờng tiêu tốn những khoản tiền khổng lồ cho việc cung cấp dịch vụ công, ngƣợc lại thể chế yếu kém đã không giúp cho những nỗ lực này chuyển hoá thành việc cải thiện các chỉ số phúc lợi xã hội, nhƣ thời gian thụ hƣởng giáo dục, cơ hội phát triển, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cung cấp nƣớc sạch… một cách liên tục trong mọi điều kiện. Những cải cách thể chế và chính sách, cùng với việc trao quyền cho ngƣời dân đối với những nhu cầu dịch vụ tốt hơn, có thể thúc đẩy quá trình giải trình và cải thiện sự tƣơng tác giữa chính quyền và ngƣời dân. Bài viết này nghiên cứu nhà nƣớc và những thay đổi trong dịch vụ công ở các quốc gia đang phát triển tại Châu Á và đánh giá những thách thức mà các nhà hoạch định chính sách và các đơn vị cung cấp dịch vụ công trực tiếp phải đối mặt, đặc biệt 1 . Anil B. Deolalikar, Shikha Jha, Pilipinas F. Quising (2015), Governance in Developing Asia: Public Service Delivery and Empowerment, Edward Elgar Publishing Limited 629
- chú ý đến những bằng chứng và bài học, xem xét vai trò của quản trị nhà nƣớc và trao quyền trong cải thiện cung cấp dịch vụ công. Trọng tâm tập trung vào hai yếu tố, bởi vì không chắc rằng cung cấp dịch vụ công sẽ đƣợc cải thiện thông qua sự gia tăng đáng kể chi tiêu ngân sách, ít nhất trong tƣơng lai có thể dự đoán trƣớc. Nhƣng trao quyền cho ngƣời dân có thể gia tăng mức độ hiệu quả của chi tiêu công hiện thời cho các dịch vụ cần thiết. 2. Nội dung 2.1. Quan niệm về dịch vụ công và vấn đề trao quyền cho ngƣời dân Dịch vụ công Dịch vụ công là những dịch vụ cần thiết đƣợc cung cấp bởi chính phủ. Việc cung cấp này đồng thời đƣợc thực hiện trực tiếp qua hai kênh gồm các tổ chức thuộc khu vực công2; và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) nhƣng đƣợc ngân sách tài trợ để cung cấp dịch vụ công. Ngày nay, dịch vụ công là những nhu cầu cần thiết và cơ bản cho đời sống thƣờng nhật, nên dƣới góc độ khoa học pháp lý cũng đƣợc xem nhƣ những quyền con ngƣời cơ bản3 (lƣu ý, khác với quyền công dân) và nhà nƣớc đƣợc trông đợi nhƣ ngƣời đảm bảo việc cung cấp mang giá trị phổ quát cho mọi ngƣời dân, bất kể mức thu nhập. Dịch vụ công có thể đƣợc phân chia thành ba nhóm lớn nhƣ sau: (i) các tiện ích cần thiết hoặc các dịch vụ thuộc cơ sở hạ tầng, ví dụ cung cấp điện, gas, nƣớc, dịch vụ viễn thông và giao thông; (ii) các dịch vụ xã hội nhƣ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, nhà ở và phúc lợi xã hội (các chƣơng trình an sinh xã hội và giảm nghèo); (iii) các dịch vụ pháp lý nhƣ hệ thống đăng ký đất đai, sang tên và xác nhận quyền sở hữu tài sản; cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận; thiết lập các tiêu chuẩn an toàn và môi trƣờng; ban hành và thực thi các quy định. Ở các quốc gia đang phát triển, một số các dịch vụ, bao gồm dịch vụ nông nghiệp mở rộng dành cho nông dân, chƣơng trình kế hoạch gia đình và chuỗi hỗ trợ thu nhập, cho thấy tính cần thiết nhằm đạt đƣợc mục tiêu phát triển quốc gia (tăng trƣởng kinh tế, tái phân phối thu nhập, giảm nghèo và ổn định dân số). Trong phần lớn các trƣờng hợp, dịch vụ công không liên quan đến sản xuất hàng hoá; và các tổ chức độc quyền cấp độ địa phƣơng hay quốc gia cung cấp, đặc biệt trong các lĩnh vực mang tính độc quyền tự nhiên nhƣ sản xuất điện. 2 Theo Hệ thống Tài khoản quốc gia của Liên hiệp quốc 2008 (SNA 2008), khu vực công bao gồm khu vực chính phủ và khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc. (i) Khu vực chính . phủ bao gồm các đơn vị chính phủ hoặc đơn vị ―vô vị lợi‖ do chính phủ kiểm soát với nhiệm vụ cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công phi thị trƣờng, gồm: chính quyền trung ƣơng, chính quyền địa phƣơng và các quỹ bảo hiểm xã hội (gồm quỹ hƣu trí cho công nhân viên nhà nƣớc và quỹ bảo hiểm xã hội nói chung cho xã hội kể cả khu vực tƣ nhân nhƣ hƣu trí, tuổi già, thất nghiệp, y tế). (ii) Khu vực DNNN trong lĩnh vực tài chính và phi tài chính là doanh nghiệp do nhà nƣớc nắm trên một nửa cổ phần hoặc theo quy định của pháp luật có quyền quyết định chính sách và quyền bổ nhiệm hội đồng quản trị hoặc giám đốc. 3 Quyền con ngƣời (hay nhân quyền) đƣợc định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con ngƣời mà nếu không đƣợc hƣởng thì chúng ta sẽ không . thể sống nhƣ một con ngƣời Quyền con ngƣời là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều đƣợc hƣởng; không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền . thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nƣớc nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà nƣớc, có thể ban phát hay tƣớc bỏ các quyền con ngƣời. Quyền con ngƣời và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhƣng không đồng nhất. Quyền công dân là một khái niệm xuất hiện cùng cách mạng tƣ sản. Cách mạng tƣ sản đã đƣa con ngƣời từ địa vị những thần dân trở thành những công dân (với tƣ cách là những thành viên bình đẳng trong mô t nhà nƣớc) và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con ngƣời dƣới hình thức các quyền công dân. Nhƣ vậy, về bản chất, các quyền công dân chính là những quyền con ngƣời đƣợc các nhà nƣớc thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. 630
- Mặc dù không phải tất yếu, ở một khía cạnh nào đó, đặc tính của dịch vụ công cũng là hàng hoá công bởi tính không loại trừ, không cạnh tranh và ảnh hƣởng ngoại biên tích cực4. Do vậy, các nhà cung cấp dịch vụ tƣ nhân có xu hƣớng ―phung phí‖ khi cung cấp cho các đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng, kết quả việc cung cấp thƣờng dƣới điều kiện tốt nhất (suboptimal). Thất bại của điều tiết thị trƣờng gây ra vấn đề tranh cãi mang tính truyền thống đối với việc can thiệp của nhà nƣớc. Nhà nƣớc cần cung cấp dịch vụ vớ mức độ xã hội tối ƣu bằng cách cân bằng lợi ích xã hội cận biên với chi phí xã hội cận biên. Dịch vụ công ích đặc biệt quan trọng với ngƣời nghèo và giảm bất bình đẳng xã hội. Khác với ngƣời có thu nhập cao, ngƣời nghèo thƣờng không có khả năng thay thế bằng các dịch vụ có chi phí cao hơn của khu vực tƣ nhân. Hệ thống tái phân phối thu nhập công tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của ngƣời nghèo thông qua việc cung cấp những dịch vụ công thiết yếu nhƣ thực phẩm, chăm sóc y tế theo cách dễ tiếp cận. Nhƣ đƣợc đề cập trƣớc đó, đối với hầu hết mọi ngƣời trong một đất nƣớc, nhà nƣớc biểu hiện qua cách thức cung cấp dịch vụ công, bởi vì những dịch vụ công là hình thức chủ yếu – nếu không muốn nói là duy nhất – liên hệ giữa các cá nhân với bộ máy cơ quan công quyền. Do vậy, ngƣời dân đánh giá chất lƣợng chính quyền thông qua các trải nghiệm dịch vụ công thiết yếu. Họ suy ra rằng, thƣờng là khá chính xác, quản trị quốc gia yếu kém nếu họ không thể tiếp cận dịch vụ cơ bản, nếu những dịch vụ công có chất lƣợng kém và nếu họ phải viện đến việc hối lộ để tiếp cận các dịch vụ. Đặc biệt, những công dân không có khả năng nhìn nhà nƣớc trong một vai trò thống nhất, mà thƣờng nhƣ nhiều mảnh cắt khác nhau. Thật vậy, báo cáo nghiên cứu hộ gia đình ở Trung Quốc (Saich 2012) diễn tả mức độ hài lòng cao nhất đối với chính quyền trung ƣơng và thấp nhất đối với chính quyền địa phƣơng. Trong khảo sát này, hơn 90% ngƣời phản hồi khá hài lòng hoặc cực kỳ hài lòng với chính quyền trung ƣơng, nhƣng chỉ hơn 60% có cùng đánh giá. Bởi vì chính quyền địa phƣơng ở Trung Quốc cung cấp hầu hết các dịch vụ, sự khác biệt rõ rệt này chắc chắn do tác động của chất lƣợng cung cấp dịch vụ công. Trong khảo sát, ngƣời phản hồi thƣờng đề cập đến tình trạng tham nhũng (40%) và thiếu năng lực của quan chức địa phƣơng (30%) nhƣ những nguyên nhận thấy đƣợc của tình trạng này. Khi các quốc gia trở nên giàu có và tiêu chuẩn cuộc sống đƣợc nâng cao, mọi công dân đều có nhu cầu đƣợc nói lên hoặc đƣợc lắng nghe nhiều hơn về chất lƣợng dịch vụ công. 2.2. Trao quyền cho ngƣời dân Trao quyền đƣợc định nghĩa nhƣ ―quá trình nâng cao năng lực cá nhân hay nhóm nhằm ra quyết định lựa chọn có chủ đích và chuyển hoá các lựa chọn này thành các hành động và kết quả mong muốn‖ (Alsop et al. 2006). Trao quyền hiệu quả đòi hỏi thiết lập những không gian cho ngƣời dân tham gia thông qua những quyền có tính pháp lý, khung quản trị và những thoả thuận mang tính thể chế. Nó cũng yêu cầu xây 4. Dịch từ cụm từ ―Positive externality‖ ví dụ khi bạn bỏ tiền ra để chữa trị bệnh cúm, điều này làm giảm khả năng lan tràn bệnh cúng ra toàn xã hội nên việc bạn "tiêu thụ , dịch vụ y tế" có ảnh hƣởng ngoại biên tích cực. 631
- dựng năng lực và bố trí nguồn lực thích hợp để thiết lập cơ chế tiếp nhận và giải trình phản hồi của ngƣời dân. Trong một số trƣờng hợp, quyền lực có thể đƣợc nắm giữ bởi ngƣời dân hoặc những phần thấp nhất trong xã hội. Nhƣng điều này không phổ biến, chỉ xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt, nó có xu hƣớng liên quan đến việc chia sẻ lời than phiền, sự huy động quần chúng và các liên minh xã hội dân sự với các chính trị gia cấp tiến. Nhƣng trong những trƣờng hợp khác, công dân và cộng đồng có thể đƣợc trao quyền từ trên xuống bởi giới cầm quyền. Từ khi trao quyền đƣợc tạo điều kiện dễ dàng từ XHDS hoặc từ bên ngoài, định nghĩa của nó đƣợc liên tục mở rộng đủ để bao hàm quyền lực đạt đƣợc nói chung. Làm thế nào để ngƣời đƣợc trao quyền thực thi quyền lực nhằm cải thiện chất lƣợng cung cấp dịch vụ công? Đảm bảo cung cấp một cách tƣơng xứng dịch vụ công có chất lƣợng và công bằng trong tiếp cận cho mọi thành phần trong XH đòi hỏi các nỗ lực chính sách trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nó bao gồm, nhƣng không phải là tất cả, năng lực của bộ máy hành chính, các tiến trình chính trị, hệ thống tƣ pháp hiệu lực, các tổ chức trực tiếp cung cấp dịch vụ công có năng lực quản trị chất lƣợng và hiệu quả, ngƣời dân đƣợc trao quyền. Trong những năm gần đây, lần lƣợt nhiều quốc gia thực hiện tiến trình trao quyền nhƣ một phƣơng tiện quan trọng nhằm hƣớng đến mục tiêu nâng cao chất lƣợng cung cấp dịch vụ công. Trao quyền là sự mở rộng sự tiếp cận và năng lực của ngƣời nghèo để tham gia, thƣơng lƣợng, ảnh hƣởng, kiểm soát và buộc những ngƣời có trách nhiệm giải trình về chính sách tác động đến đời sống của họ. Sự tiếp cận và năng lực có thể mang tính cá nhân hoặc cộng đồng. Trong nghĩa rộng nhất, trao quyền là sự mở rộng quyền tự do lựa chọn và hành động. Bốn yếu tố chủ chốt của trao quyền cho ngƣời nghèo là: (i) Tiếp cận thông tin; (ii) Hoà nhập (inclusion) và tham gia; (iii) Giải trình; (iv) và Năng lực quản trị địa phƣơng. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ và hoạt động mang tính hỗ tƣơng. Những ngƣời dân đƣợc trang bị kiến thức tốt sẽ tiếp nhận đƣợc lợi ích từ các cơ hội, tiếp cận các dịch vụ, thực thi các quyền, thƣơng lƣợng hiệu quả, và yêu cầu các tổ chức thuộc nhà nƣớc và xã hội khác giải trình. Giả thuyết chủ chốt là việc đầu tƣ vào ngƣời nghèo và các tổ chức của họ thƣờng sẽ dẫn đến sự cải thiện kết quả phát triển, bao gồm: (i) Cải thiện năng lực quản trị; (ii) Cung cấp dịch vụ đƣợc vận hành (function) tốt và mang tính hoà nhập hơn; (iii) Công bằng hơn trong tiếp cận thị trƣờng; (iv) Khuyến khích xã hội dân sự và các tổ chức của ngƣời nghèo; (v) Đảm bảo sự tiếp cận và tự do lựa chọn. Tuy nhiên, việc đầu tƣ này phải đƣợc nhà nƣớc xác nhận bằng các cải cách, giúp gia tăng tầm quan trọng của việc trao quyền. 632
- Khái niệm trao quyền đƣợc khuyến khích bởi cách tiếp cận về quyền và năng lực của học giả Amartya Sen5. Cách tiếp cận này nhấn mạnh quyền tự do lựa chọn, năng lực và cơ hội. Theo đó, mỗi ngƣời phải có quyền tự do trong chọn lựa cá nhân, có khả năng biến sự lựa chọn thành hành động trên thực tế, và có một môi trƣờng khả dĩ cho phép họ thực hiện các hoạt động đó (Sen 2005). ―Ý tƣởng tự do nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao quyền, để ngƣời dân tự giúp lấy mình, tập trung vào từng cá nhân bởi chính họ cũng là một thành phần tham gia vào sự phát triển của bản thân‖ (Stiglitz, Sen, Fitoussi 2009:151). Do vậy, trao quyền tạo khả năng cho những con ngƣời bị tƣớc đoạt trở thành những tác nhân có hiệu lực trong tiến trình phát triển cộng đồng. ―Sự khác biệt trong năng lực để thực hiện có thể nảy sinh ngay cả khi các phƣơng tiện tƣơng đồng giữa các cá nhân. Điều này xuất phát từ nhiều lý do: (i) sự khác biệt về thể chất và trí tuệ (ngƣời khuyết tật, đang mắc bệnh), (ii) khác biệt trong các nguồn lực cộng đồng (hệ thống chăm sóc sức khoẻ, hệ thống tƣơng trợ và kết nối cộng đồng), (iii) khác biệt về môi trƣờng sống (khí hậu, khả năng lây truyền dịch bệnh, tội phạm), (iv) hoặc khác biệt trong vị thế so với ngƣời khác…‖ (Sen 2005:154). Khái niệm trao quyền đƣợc xem xét trong các chiều kích khác nhau, bao gồm những tiềm năng sẵn có, cơ hội, sự tự do chọn lựa, và năng lực cá nhân và nhóm để thực hiện các lựa chọn, chuyển hoá thành những kết quả mong muốn (Báo cáo phát triển toàn cầu 2001; Narayan 2005; Alsop, Bertelsen và Holland 2006; Ibrahim và Alkire 2007). Có thể nói, trao quyền là chiếc chìa khoá giúp ngƣời nghèo gầy dựng tài sản và thoát khỏi tình trạng hiện tại. 2.3. Các hình thức trao quyền cụ thể Trao quyền cho phép ngƣời dân và cộng đồng yêu cầu nhà nƣớc phải có trách nhiệm giải trình đối với việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu. Khách hàng - ngƣời dân cũng có khả năng ảnh hƣởng đến chất lƣợng cung cấp dịch vụ bằng cách tác động trực tiếp lên những nhà cung cấp. Trao quyền có thể diễn ra bằng nhiều thiết chế khác nhau: (i) Thực thi các quyền cơ bản, nhờ đó nhà nƣớc tạo điều kiện cho ngƣời dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng nhƣ quyền thụ hƣởng các dịch vụ XH và các nhu cầu thiết yếu (nhƣ thực phẩm, việc làm, y tế, giáo dục); (ii) Tham gia giám sát các hoạt động, ngƣời dân và cộng đồng có thể tham gia giám sát và đánh giá việc thực thi cùng nhƣ thành tích của dịch vụ công, thƣờng là theo những khung tiêu chuẩn đánh giá họ tập hợp đƣợc, và trên nền tảng này sẽ xuất hiện nhu cầu cải thiện chất lƣợng đối với nhà cung cấp; và cuối cùng, (iii) cộng đồng tham gia và định hướng sự phát triển, nhóm ngƣời sử dụng dịch vụ hoặc toàn bộ cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ, do vậy có thể kiểm soát trực tiếp số lƣợng và chất lƣợng các dịch vụ đƣợc cung cấp. 5 Amartya Kumar Sen (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1933) là nhà kinh tế học, triết gia Ấn Độ. Năm 1998, ông đƣợc trao giải Nobel kinh tế bởi những đóng góp về: kinh tế phúc lợi, công trình về sự khan hiếm các nguồn lực, nguyên lý phát triển con ngƣời, những cơ chế nằm bên dƣới sự nghèo nàn và lý thuyết về chủ nghĩa tự do chính trị. Ông là ngƣời Á châu đầu tiên và cũng là ngƣời châu Á ngoài Israel duy nhất đƣợc giải thƣởng này. 633
- Thực thi các quyền cơ bản Một số dịch vụ công đƣợc xem nhƣ thiết yếu đảm bảo cho con ngƣời đƣợc sống một cách tử tế - điều đƣợc xem nhƣ quyền cơ bản của con ngƣời6. Một hình thức phổ biến của trao quyền là việc thực thi các quyền cơ bản. Việc thực thi này đƣợc quy định trong các khung pháp lý hoặc các định chế quốc gia với từng vai trò và trách nhiệm cụ thể trong việc thực thi thẩm quyền, cũng nhƣ các tiêu chuẩn và thủ tục cho ngƣời đủ điều kiện tham gia. Có hai hình thức thực thi các quyền cơ bản: Một, quyền của những công dân với một số dịch vụ cụ thể; Hai, quyền tiếp cận thông tin, là công cụ bảo đảm cho ngƣời dân có thể thực hiện quyền của mình. Trong cả hai trƣờng hợp, nó là nghĩa vụ bắt buộc nhà nƣớc cam kết ngƣời dân sẽ đƣợc thực hiện các quyền đã ghi nhận. Ngay từ những năm 1946, ĐHĐ LHQ đã thông qua Nghị quyết 59(I), khẳng định: ―…Tự do thông tin là quyền con ngƣời cơ bản và… là nền tảng của các quyền tự do LHQ tôn vinh‖. Trong khi nhiều quốc gia Á Châu đã tôn trọng quyền tự do thông tin của ngƣời dân, thì thiểu số còn lại tìm mọi cách ngăn cấm. Một quốc gia quyền tự do thông tin đang đƣợc sử dụng một cách rộng khắp từ nhiều năm nay là Ấn Độ, nơi Quốc hội đã thông qua Luật tiếp cận thông tin (RTI) năm 2005. Thật vậy, Ấn Độ đã tiến xa hơn phần lớn các quốc gia đang phát triển khác trong việc áp dụng các quyền cơ bản vào thực tế. Hai cuộc vận động có ảnh hƣởng lan toả ở Ấn Độ là: quyền có việc làm và quyền có lƣơng thực đều có nguồn gốc từ cuộc vận động cho quyền tiếp cận thông tin từ những năm 1990 nhƣ là một yếu tố căn bản của quyền công dân nhằm tham gia vào tiến trình quản trị của nhà nƣớc. Quyền tiếp cận thông tin đã mở toang nhà nƣớc, ngƣời dân và các nhóm XHDS đã dùng thông tin nhằm thực hiện việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ, chi tiết các hoạt động của nhà nƣớc. Nó cũng buộc hệ thống hành chính phải thừa nhận các khái niệm minh bạch, giải trình và trao quyền cho ngƣời dân. Có lẽ thách thức lớn nhất trong việc thực thi cách tiếp cận quyền cơ bản là giới hạn nguồn lực các quốc gia thu nhập thấp phải đối mặt. Nhiều quyền kinh tế, xã hội – hệ thống bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục – đặc biệt đòi hỏi sự tiêu tốn nguồn lực (resource-intensive) (Munro 2008:33). Nó là vấn đề quan trọng tại Ấn Độ, nếu muốn sự mở rộng các quyền trở nên vững chắc và liên tục. Có sự e ngại rằng việc nhận thức các quyền này sẽ dẫn đến các cam kết của chính quyền trở nên quá nhiều và kém linh hoạt, đe doạ sự ổn định vĩ mô và gây ra hiệu ứng chèn lấn các hoạt động đầu tƣ khác trong khu vực công lẫn khu vực tƣ nhân (Kelka và Shah 2011). Cùng lúc đó, nếu các chƣơng trình thực thi quyền cơ bản đƣợc xem xét để trở thành nguồn chính hƣớng tới giải quyết đói nghèo và bất bình đẳng, khi ấy việc sử dụng các nguồn lực hạn chế của chính phủ một cách hiệu lực và hiệu quả sẽ đƣợc đảm bảo. Điều chỉnh ngân sách có chất lƣợng yêu cầu tái phân bổ chi tiêu công từ bất bình đẳng, tốn kém và bao cấp không đúng đối tƣợng đối với xăng, dầu, điện năng sang những dịch vụ cần thiết và những chƣơng trình mục tiêu. Thêm vào đó, sự giới hạn nguồn lực chính quyền phải 6 Thƣờng đƣợc ghi nhận trong các bản tuyên ngôn, hiến pháp của nhiều quốc gia. 634
- đối mặt đã tạo ra sự đánh đổi cần thiết giữa chi phí đầu tƣ với hoạt động hiện tại và phí tổn cho việc duy trì, là những đầu vào cần thiết nhằm duy trì chất lƣợng dịch vụ công. Tham gia giám sát các hoạt động Hoạt động này bao phủ một phạm vi tham gia giám sát và nhiều công cụ đánh giá khác nhau, bao gồm thẻ báo cáo công dân (citizen report cards), thẻ điểm cộng đồng (community score cards), giám sát xã hội (social audit) và các buổi điều trần (public hearings), hệ thống khắc phục lời phàn nàn (grievance redress system), khảo sát quan điểm (opinion surveys). Hoạt động giám sát sự ảnh hƣởng và hiệu quả của PPM trong cung cung cấp dịch vụ công dựa trên các sáng kiến minh bạch và giải trình đã cho thấy sự phổ biến thông tin là thành phần chủ chốt của PPM (Joshi 2010, McGee và Gaventa 2010). Thêm vào đó, các thiết chế giải trình XH trong các chƣơng trình giám sát khá hiệu quả trong việc vạch trần tham nhũng, gia tăng nhận thức về thực thi quyền, thực hiện việc trao quyền cho ngƣời dân nhằm khẳng định các quyền của họ, và tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân tham gia vào quy trình cung cấp dịch vụ công. Mặt khác, dựa trên sự xem xét lại cách tiếp cận giải trình XH đƣợc đồng thuận bởi Ngân hàng Thế giới và các học giả Agarwal, Heltberg và Diachok (2009), đã cho rằng sự tác động của giải trình XH là khá ―mỏng‖, do vậy cần phải có những đánh giá tác động khắc khe. (i) Thẻ báo cáo công dân Thẻ báo cáo công dân (Citizen report cards) có tác dụng thu thập thông tin về nhận thức và quan điểm của ngƣời sử dụng về chất lƣợng cung ứng, kết quả, tính hữu ích của dịch vụ và những hành động khắc phục các yếu kém từ phía nhà cung cấp. Công cụ này nhằm tạo ra những công dân có ý thức và chuyển hoá những đòi hỏi cải cách thành kết quả trên thực tế. Thẻ báo cáo công dân đƣợc áp dụng đầu tiên tại thành phố Bangalore (Ấn Độ) năm 1994, dùng cho việc xếp hạng chất lƣợng các nhà cung cấp dịch vụ điện, nƣớc sạch, viễn thông, nhà ở, ngân hàng, bệnh viện… Từ những kết quả thu đƣợc, công cụ này trở nên phổ biến và đƣợc nhiều quốc gia Châu Á đang phát triển kế thừa. Hoạt động đánh giá đƣợc triển khai trong các năm 1994 và 1999 đã khơi dậy trong ngƣời dân Ấn Độ nhận thức về quyền, qua đó góp phần cải thiện đáng kể chất lƣợng của nhiều loại dịch vụ (Ravindra 2004). Tại Ahmedabad (Ấn Độ), thẻ báo cáo cũng đƣợc triển khai năm 1997 nhằm đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ cấp thoát nƣớc, điện năng của những phụ nữ nghèo. Khảo sát đã tiết lộ sự thất vọng với chất lƣợng và làm bật lên điểm nghẽn trong phổ cập dịch vụ cho đông đảo cƣ dân. Trong khi chỉ 6% những ngƣời tham gia phàn nàn việc thiếu các hành động khắc phục, nhƣng nhận thức của ngƣời dân đã tạo ra áp lực cho việc cải thiện từng bƣớc trong cung cấp dịch vụ công. Ở Philippines, thẻ báo cáo công dân đƣợc tiến hành năm 2001 cố gắng tập hợp ý kiến ngƣời dân địa phƣơng về chất lƣợng các dịch vụ, đánh giá tính tiện lợi và mức độ hài lòng tại chín thành phố thuộc vùng thủ đô. Kết quả khảo sát đƣợc các thành phố sử dụng làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và dự kiến ngân sách. Thậm chí, ở thành phố 635
- Makati, kết quả này dẫn đến việc thiết lập các đƣờng dây nóng để hồi đáp các yêu cầu của cƣ dân đô thị. (ii) Giám sát xã hội Giám sát xã hội đối với dịch vụ công khuyến khích ngƣời dân trực tiếp tham gia giám sát chất lƣợng dịch vụ, khả năng tiếp cận và kết quả mang lại – một quá trình thƣờng bị đẩy thành những cuộc xung đột trực tiếp giữa cộng đồng và nhà cung cấp trong các cuộc họp chung. Phần này tập trung vào các ví dụ trình bày hai phƣơng thức vận hành khác nhau: (i) Đạo luật Đảm bảo lao động nông thôn quốc gia Mahatma Gandhi (The Mahatma Gandhi National Rural Employment Guarantee Act - NREGA) và Hệ thống phân bổ công cộng (The Public Distribution System - PDS) liên quan đến việc giám sát và thảo luận trong các buổi điều trần; và các hoạt động hỗ trợ của Tổ chức các công dân của Abra quan tâm đến quản trị tốt (The Concerned Citizens of Abra for Good Government - CCAGG)7 ở Philippines phổ biến các kết quả giám sát thông qua việc tạo áp lực một cách có tổ chức. Việc ra đời Đạo luật NREGA năm 2006 lần đầu tiên đã ghi nhận giám sát nhƣ một cách thức mang tính pháp lý nhằm bảo vệ sự minh bạch và giải trình tại Ấn Độ. Từ đó, giám sát xã hội trở thành một phần của hầu hết các chƣơng trình của chính phủ thuộc lĩnh vực xã hội. Giám sát XH liên quan đến việc thẩm tra và xác nhận sự sai biệt trong dữ liệu của chính phủ và chi tiêu trên thực tế. Những vi phạm đƣợc thảo luận bởi những ngƣời thụ hƣởng dịch vụ, hội đồng tự quản và công chức địa phƣơng, những phát hiện sẽ đƣợc chia sẻ với quận (district) và công chức cấp trên để thực thi. Tuy nhiên, mức độ và chất lƣợng là những yếu tố kiềm hãm chủ yếu việc thực thi chƣơng trình giám sát xã hội hiệu quả (Pande và Mann 2012). Andhra Pradesh là ngoại lệ duy nhất nơi chƣơng trình giám sát xã hội đƣợc thể chế hoá, một hƣớng dẫn độc lập cho việc giám sát đƣợc thiết lập cho khoảng 1.800 cuộc giám sát diễn ra trong các năm từ 2006 đến 2011. Theo nghiên cứu của Aiyar, Kapoor và Samji (2011) cho thấy vấn đề tham nhũng bao gồm việc lập ra những ngƣời thụ hƣởng không có thật, biển thủ công quỹ, phân biệt đẳng cấp và giới tính; những khó khăn trong tiếp cận thông tin. Tháng 3 năm 2011, việc giám sát đã phơi bày ra ánh sáng vụ gian lận hơn 1 triệu Rupi. Các nghiên cứu đều xác nhận tính hiệu quả và thành công của giám sát xã hội trong việc tăng cƣờng sức mạnh tiếng nói ngƣời dân bằng việc ghi nhận chính thức các phản ánh và tạo điều kiện cho họ tham gia tiến trình thực thi chính sách. (iii) Thẻ điểm cộng đồng 7 CCAGG là tổ chức phi chính phủ (NGO) đƣợc thành lập năm 1986 ở tỉnh Abra phía nam Philippines. Từ năm 2001, tổ chức này đã điều hành chƣơng trình giám sát các dự án xây dựng hạ tầng của chính quyền địa phƣơng với các nhóm xã hội có liên quan khác nhau, bao gồm cả ngƣời nghèo và phụ nữ (PAF, Sirker và Cosic, 2007:46). Những phát hiện và bằng chứng đã đƣợc chuyển cho các chuyên gia và kế toán viên, những ngƣời sẽ tiếp tục việc điều tra chi tiết hơn. Việc giám sát thƣờng xuyên đã làm gia tăng mối quan hệ hợp tác với chính quyền địa phƣơng, và có minh chứng cho thấy họ đã sử dụng các báo cáo của CCAGG nhƣ cơ sở cho việc thành lập các quỹ đầu tƣ công. 636
- Mỗi thẻ điểm cộng đồng là một giao thoa giữa thẻ báo cáo công dân và giám sát xã hội (World Bank 2005). Nó kết hợp việc tham gia theo dõi kết quả đầu vào (hoặc theo dõi đầu ra), bảng tự đánh giá của nhà cung cấp, biên bản cuộc họp giữa các bên. Trong đó, việc đánh giá các kết quả thực hiện đƣợc thảo luận và đƣa ra các biện pháp khắc phục. Ngƣợc lại với thẻ báo cáo công dân, thẻ điểm cộng đồng đa phần dựa trên sự tham gia đánh giá chất lƣợng và kết quả cung cấp dịch vụ của các thành viên cộng đồng, và thảo luận các vấn đề đƣợc tìm thấy với nhà cung cấp. thẻ điểm cộng đồng đƣợc sử dụng rộng rãi tại Ấn Độ và Etiopia. Năm 2006, Trung tâm Quản trị công tốt ở Hyderabad (Ấn Độ) thực thi một dự án tiên phong nhằm áp dụng thẻ điểm cộng đồng đánh giá hai trung tâm y tế cơ sở tại Quận Visakhapatnam (World Bank 2007). Thẻ điểm cộng đồng tập hợp quan điểm và nhận thức của ngƣời dùng về năng lực các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và các nhân viên y tế. Khảo sát cho thấy sự thất vọng của với hành vi và phong cách làm việc, giờ làm việc và năng lực nhân sự y tế, cách thức phản hồi các yếu kém. Nhiều ngƣời dân không có kiến thức về quyền thụ hƣởng và chất lƣợng dịch vụ. Với những kết quả thu đƣợc, lãnh đạo và nhân viên y tế đƣợc tham gia các khoá huấn luyện để cải thiện thái độ, giờ làm việc của các trung tâm y tế đã thay đổi, và hệ thống khắc phục các yếu kém và trung tâm thuốc dự phòng cũng đƣợc thành lập. Dự án Các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản đƣợc thực hiện bởi Chính phủ Etiopia thực hiện trong các năm 2008/09 đã giới thiệu thiết chế giải trình xã hội trong phân bổ dịch vụ địa phƣơng. Dự án sử dụng nhiều công cụ, bao gồm thẻ báo cáo công dân, thẻ điểm cộng đồng và tham gia xây dựng ngân sách. Một đánh giá độc lập của dự án đã cân nhắc thẻ điểm cộng đồng đặc biệt hiệu quả trong việc thu hút các phản hồi của ngƣời sử dụng dịch vụ (Taddesse và cộng sự 2010). Nó cho phép kết hợp các công dân và nhà cung cấp dịch vụ với nhau nhằm đánh giá chất lƣợng, sự công bằng và hiệu quả của các dịch vụ cơ bản thuộc các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, nƣớc sạch, vệ sinh dịch tễ và nông nghiệp. Đánh giá dự án đã ghi nhận bằng văn bản các bằng chứng cải thiện trong phân bổ dịch vụ nhƣ kết quả việc thực thi các hành động khắc phục. Sự tham gia của cộng đồng và phát triển hƣớng đến cộng đồng Một hình thức quan trọng khác của trách nhiệm giải trình xã hội là các nhóm ngƣời sử dụng cùng tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ. Có hai phƣơng thức chính của phát triển tham gia, bao gồm: phát triển dựa trên cộng đồng và địa phƣơng phân quyền. Một tổng kết gần đây của Mansuri và Rao (2012) dựa trên gần 500 nghiên cứu khác nhau về sự phát triển có tính tham gia của cộng đồng cho thấy mấu chốt của sự thành công là sự khác biệt giữa sự tham gia từ cơ sở (đƣợc thúc đẩy bởi các nhóm dân sự) và sự tham gia uỷ nhiệm (đƣợc khuyến khích bởi nhà nƣớc). Hơn thế, sự thành công của cả hai hình thức này phụ thuộc vào năng lực tổ chức các hoạt động cộng đồng. 637
- Việc tham gia mang tính cộng đồng đặc biệt hƣớng tới hai rào cản chính của việc trao quyền cho ngƣời dân: (i) thiếu thông tin về tiêu chuẩn pháp lý của dịch vụ đƣợc cung cấp, và (ii) thiếu hợp tác cũng nhƣ tham gia trong việc giám sát có thể ngăn cản công dân – khách hàng sử dụng tiếng nói của mình. Tập trung vào hai rào cản này nhằm khuyến khích cộng đồng tham gia và kết nối giữa nhà cung cấp với ngƣời sử dụng, một sự can thiệp mang tính ngẫu nhiên xung quanh việc giám sát dựa trên cộng đồng của những nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở Uganda có liên quan đến ngƣời dân và các nhân viên tổ chức phi chính phủ tại địa phƣơng đang hoạt động nhƣ thành phần tham gia tự nguyện (Bjorkman và Svensson 2009). Giữa 50 phòng khám nông thôn đƣợc chọn khắp Uganda, các tác giả chỉ định ngẫu nhiên một nữa số phòng khám sẽ nhận sự can thiệp, trong khi một nữa còn lại hoạt động nhƣ nhóm kiểm soát. Thông qua việc thảo luận các vấn đề và cách thức khả dĩ có thể cải thiện việc cung cấp, các bên tham gia sẽ đạt đến sự đồng thuận về kế hoạch chung, phác thảo những thoả thuận về việc cải thiện chất lƣợng và kế hoạch giám sát. Bjorkman và Svensson nhận thấy cộng đồng đƣợc tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát nhà cung cấp. Kết quả là các nhân viên y tế đã nỗ lực hơn rất nhiều. Tỷ lệ tận dụng cơ sở vật chất tăng 20% và kết quả đầu ra, đƣợc đo lƣờng bằng trọng lƣợng và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã thực sự cải thiện sau một năm đƣợc can thiệp. Những nội dung này khá nhất quán với sự thay đổi tích cực của một số các tiêu chí khác: tỷ lệ tiêm chủng cao hơn, thời gian chờ đợi giảm, tỷ lệ nhân viên vắng mặt đƣợc cải thiện. Tuy nhiên, một khía cạnh thƣờng bị bỏ quên trong việc ra quyết định theo chiều từ dƣới lên trong các các cuộc họp của cộng đồng là ai quyết định thành phần tham gia các cuộc họp. Ví dụ, Olken (2007) đã cho thấy một trƣờng hợp điển hình, trong đó các tập quán xã hội đã trở thành một yếu tố gây cản trở tại nông thôn Indonesia, nơi bị xem là thô lỗ, đặc biệt đối với ngƣời nghèo nếu tham gia cuộc họp làng mà không có lời mời chính thức. Một quan niệm xã hội phổ biến khác cho rằng đặc quyền tham dự các cuộc họp làng thƣờng dành cho tầng lớp tinh hoa, các thành phần ƣu tú trong cộng đồng. Một sự lựa chọn đƣơng nhiên khác đối với các cuộc họp này, nơi các quyết định của cộng đồng thƣờng đƣợc uỷ quyền cho những ngƣời dự họp, là việc dùng hình thức bỏ phiếu trực tiếp nhằm cho phép số lƣợng lớn hơn ngƣời dự họp đƣợc tham gia tiến trình ra quyết định. Olken (2010) đã cung cấp nhiều kinh nghiệm từ Indonesia cho phép so sánh các cuộc họp uỷ quyền và các cuộc họp bầu trực tiếp. Kinh nghiệm này đƣợc đúc kết từ 49 làng tại Indonesia giai đoạn 2005-2006, có tham gia các dự án phát triển tổng quát và những dự án hạ tầng hƣớng đến phụ nữ. Các kết quả gợi ý rằng, hình thức bầu cử là một công cụ tham gia trực tiếp vào việc thông qua các quyết định mang tính chính trị, có thể làm gia tăng một cách cơ bản sự hài lòng và tính chính danh đối với các chính sách đƣợc ban hành. Trong trƣờng hợp Indonesia, tỷ lệ ngƣời tham gia khá cao, trung bình 79%. So sánh việc ra quyết định tại các cuộc họp cộng đồng, nó ngụ ý rằng những ngƣời liên quan đến việc ra quyết định về các dự án đã gia tăng hơn 20 lần. Do vậy, cho phép những công dân – 638
- khách hàng bỏ phiếu trực tiếp đã làm gia tăng đáng kể tính chính danh của các dự án đƣợc triển khai. Các quỹ xã hội Các quỹ xã hội hoặc các quỹ đầu tƣ xã hội là một trong những hình thức chính của việc phát triển định hƣớng xã hội có vị trí pháp lý độc lập và bên ngoài chính phủ. Quỹ này tài trợ cho các dự án quy mô nhỏ về xây dựng hoặc sửa chữa các hạ tầng kinh tế - xã hội cần thiết bao gồm trƣờng học, bệnh viện, giao thông, hệ thống thuỷ lợi, cấp nƣớc sạch, thoát nƣớc thải sinh hoạt, khu vực sinh hoạt cộng đồng. Các hạ tầng này xuất phát và đƣợc điều hành bởi các đại diện địa phƣơng nhằm nâng cao năng lực hỗ trợ cung cấp dịch vụ thông qua việc sử dụng các phƣơng pháp huy động sự tham gia của cộng đồng và thủ tục đấu thầu cạnh tranh. Sự kiểm soát của cộng đồng đối với việc sử dụng các nguồn lực và tiến trình ra quyết định đóng vai trò trung tâm trong việc khởi xƣớng, thiết kế và triển khai, vận hành và bảo trì, giám sát và đánh giá các dự án. Các quỹ xã hội hƣớng đến cơ sở nhƣ vậy sẽ cho phép công dân ảnh hƣởng đến việc cung cấp dịch vụ, xác định dịch vụ cần đƣợc ƣu tiên triển khai, và cải thiện chất lƣợng nhà cung cấp. Việc tham gia của ngƣời dân cho phép việc lựa chọn và xác lập thứ tự ƣu tiên của các dự án sẽ hƣớng nhiều hơn đến cộng đồng. Uỷ quyền quản lý đấu thầu và tài chính là mấu chốt cho việc khuyến khích kiểm tra, kiểm soát tại địa phƣơng (Narayan và Ebbe 1997; De Silva và Sum 2008). Ở Đông Nam Á, các quỹ xã hội bao gồm KALAHI-CIDSS ở Philippines, PNPM ở Indonesia, Quỹ giảm nghèo ở Lào, Nepal. Để cho phép công dân yêu cầu các nhà quản lý giải trình, các quỹ xã hội đã ban hành những tiêu chí yêu cầu về minh bạch thông tin, ví dụ thông tin về ngân quỹ các dự án và chi phí vận hành thực tế phải đƣợc niêm yết trên các bảng thông báo công khai và phổ biến thƣờng xuyên cho cộng đồng (Babajanian 2009). Tuy nhiên, không phải tất cả các trƣờng hợp đều thành công. Một nghiên cứu ở quận Uttar Pradesh (Ấn Độ) cho thấy không có bất kỳ sự thay đổi nào đối với chất lƣợng giáo dục, mặc dù nhiều chiến dịch nâng cao nhận thức ngƣời dân về thực trạng chất lƣợng giáo dục thấp đã đƣợc triển khai (Banerjee và cộng sự 2010). Tƣơng tự, một số dự án ở Kyrgyz vẫn theo hƣớng kiểm soát thay vì chuyển giao cho cộng đồng tại chỗ (Babajanian 2009). Các nghiên cứu định tính của PNPM – Rural (Indonesia) cho thấy tầng lớp trên và các nhà hoạt động có xu hƣớng sử dụng ảnh hƣởng mạnh mẽ của mình lên ý tƣởng và thứ tự ƣu tiên của các dự án. Nghiên cứu cũng lƣu ý rằng, ảnh hƣởng của các nhóm bên lề đối với tiến trình ra quyết định là rất hạn chế (Syukri, Mawardi và Akhmadi 2010; Akatiga 2010). Điều này có thể đƣợc giải thích phần nào do năng lực còn hạn chế của ngƣời thực hiện và quy trình huy động nguồn lực cộng đồng chƣa phù hợp. Kỹ năng lãnh đạo, thẩm quyền chính thức và sức ảnh hƣởng cá nhân của ngƣời lãnh đạo là những thuộc tính quan trọng nhằm đảm bảo năng lực cộng đồng có thể đáp ứng đƣợc các yêu cầu của các quỹ xã hội. Nó cũng ngụ ý rằng các cộng đồng thiếu 639
- năng lực lãnh đạo cần thiết thƣờng ít thành công và hƣởng lợi từ các chƣơng trình bồi dƣỡng năng lực lãnh đạo của các quỹ xã hội. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, ngƣời lãnh đạo mạnh mẽ thƣờng có xu hƣớng kiểm soát chặt, chi phối việc tham gia của cộng đồng, kiềm chế tiếng nói và sáng kiến của ngƣời dân. Các quỹ xã hội cũng thƣờng thiên vị cho tầng lớp trên, những cá nhân đầy quyền lực có thể khống chế quá trình tham gia và loại trừ những ngƣời không cùng địa vị. Các mối quan hệ không chính thức dựa trên bảo trợ tiêu biểu cho sự cản trợ việc thừa nhận và thực hiện các quyền công dân cũng nhƣ làm giảm bất bình đẳng xã hội (Kabeer 2002:23). Do vậy, thách thức là làm thế nào để những thành phần cùng khổ và bên lề trong xã hội đƣợc tham gia và quan tâm đến lợi ích, bởi cộng đồng xét cho cùng bao gồm nhiều cá nhân khác nhau, với các mức độ kiểm soát các nguồn lực và phƣơng thức kinh tế khác nhau (Chamber 1997; Cleave 2001)./. 3. Kết luận Bài viết vừa trình bày các hình thức cụ thể của việc trao quyền cho ngƣời dân đã đƣợc thực hiện và mang lại hiệu quả tích cực tại nhiều quốc gia Châu Á thuộc nhóm nƣớc đang phát triển. Các hình thức này ở một góc độ nào đó cũng chính là các biện pháp cụ thể nhằm thực thi các khuyến nghị liên quan đến cột trụ thứ 3 – Nhà nƣớc có năng lực và Trách nhiệm giải trình nằm trong Báo cáo Việt Nam 2035: Hƣớng tới thịnh vƣợng, sáng tạo, công bằng và dân chủ do Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ ấn hành năm 2016. Mặc dù còn có những hình thức trao quyền còn mang tính hình thức hoặc đặc thù địa phƣơng, tuy nhiên nhìn chung đây là những gợi ý tốt cho Việt Nam, nơi có nhiều nét tƣơng đồng với các quốc gia điển hình trong bài viết, có thể học hỏi, điều chỉnh trƣớc khi áp dụng để có thể đẩy nhanh quá trình hƣớng tới việc chuyển đổi chức năng nhƣ nhà nƣớc phục vụ ngƣời dân ngày càng tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] ADB (2013), Empowerment and Public Service Delivery in Developing Asia and The Pacific, www.adb.org; [2] Anil B. Deolalikar, Shikha Jha, Pilipinas F. Quising (2015), Governance in Developing Asia: Public Service Delivery and Empowerment, Edward Elgar Publishing Limited; [3] Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời – quyền công dân, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội (2011), Hỏi đáp về quyền con người, NXB. Hồng Đức, Hà Nội; [4] Clay Wescott (2000), Measuring Governance in Developing Asia, ABD, Philippines. 640
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn