32
TRUYỀỂN THUYẾT VỀ
MỘT BÀI THƠ: NAM
QUỐC SƠN HÀ LÀ
VÔ DANH KHÔNG
PHẢI CỦA LÝ
THƯỜNG KIỆT
BÙI DUY TÂNŸ)
ài thơ )am quốc sơn hà (NQSH)®)' là
J5... thơ vào loại cổ nhất, nổi tiếng
nhất của văn học dân tộc, từ lâu thường
được coi là do Lý Thường Kiệt viết ra, để
cô vũ binh sĩ trong chiến dịch chống quân
Tống xâm lược năm 1076. Nay dựa vào
truyền thuyết, huyền tích còn lại, thì Lý
Thường Kiệt không phải là tác giả của
bài thơ NQSH ấy. Tất cả những ai từng
cho bài thơ là của Lý Thường Kiệt đều có
thể là oõ đoán, ngộ nhận, ngoa truyền.
Dưới đây xin dẫn dụ tư liệu truyền
thuyết, thần tích... để góp phần trả bài
thơ về cho tác giả đích thực của nó:
THẦN mà thực chất là DÂN, là trí thức
trong đại chúng, là VÔ DANH.
Trước hết xin trình bày TƯ LIỆU
VĂN BẢN của bài thơ.
Theo G5 Trân Nghĩa (Tạp chí Hán
Nôm số 1 - 1986. Bài Thử xác lập uăn
bản bài thơ “Nam quốc sơn hà”) thì ỏ
Viện Nghiên cứu Hán Nôm và ở Thư viện
Viện sử học hiện tàng trữ khoảng 26 văn
©) Trường Đại học KHXH & NV, Đại học
quốc gia Hà Nội.
BÙI DUY TẤN
bản?” bài thơ NQSH. Lâm Giang trong
bài: "7 liệu Hán Nôm ở huyện Tiên Sơn,
Thuận Thành uà thị xã Bắc Ninh" (Tạp
chí Hán Nôm số 1-1986) cho ta biết thêm
ở đền thờ Thánh Tam Giang thôn Phù
Khê Đông (Phù Khê, Tiên Sơn) có biển gỗ
khắc bài thơ Nam quốc sơn hà. Dương
Thái Minh trong bài: Bài thơ "Nam quốc
sơn hà" - Đọc uà hiểu từ một dị bản mới
phát hiện (Tạp chí Hân Nôm số 3-1986)
công bố tiếp một dị bản bài thơ NQSH
còn giữ được trong bản thân phả ở đền
Cửa sông Ngũ Quận thuộc thôn Quả
Cảm, xã Hoà Long, huyện Yên Phong,
nay thuộc Bắc Giang. Riêng tôi, khi trở
lại tìm hiểu về bài thơ này, đã nhanh
chóng phát hiện thêm ngay trong tủ sách
gia đình 3 văn bản bài thơ. Một là: Dư
địa chí - Kinh Bắc sách Lịch triều hiến
chương loại chí (Nxb Sử học-H. tr.89),
hai là: Đền miếu - Bắc Ninh - Đại Nam
nhất thống chí (Nxb Thuận Hoá. T4.
tr.110), ba là: sách diễn ca lịch sử: Việt sử
điễn âm (Nxb Văn hoá Thông tin- H.
tr.79) đều ghi được toàn văn bài NQSH.
Trong số 31 văn bản trên đây, mới chỉ có
một số thần tích - thể tài nhiều nhất có
bài thơ NQSH - Chỉ tính số qua ghi chép
của T7rương tôn thần sự tích (Bản in VHv
1268 - Viện nghiên cứu Hán Nôm) thì ở:
Vũ Giàng, Quế Dương, Tiên Du, Đông
Ngàn, Yên Phong, Yên Lãng, Kim Anh,
Đông Anh, Đa Phúc, Phượng Nhãn, Việt
Yên, Yên Dũng, Hiệp Hoà, Phúc Thọ đã
có đến 291 xã có miếu đền thờ thánh Tam
Giang”. Nếu như mỗi đền chắc có một
thần tích thì ta đã có 990 thần tích, tức
290 dị bản của bài thơ NQSH.
Nhưng hãy chỉ qua hơn ba chục văn
bản bài thơ đã "mục sở thị" thì cũng rút
ra được nhiều nhận xét lý thú:
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
J3
- Bài thơ là thành phần hữu cơ của
truyền thuyết về Thánh Tam Giang?”
(còn gọi là Trương tôn thần, thần sông
Như Nguyệt, Trương Hồng Trương Húát....
cách gọi tên thần ở nhiều văn bản thường
ít khi thống nhất). Vì vậy tìm hiểu bài
thơ phải gắn với tìm hiểu truyền thuyết.
Truyền thuyết này thường được in ấn,
chỉ chép trong các thần phả thần tích
như: Trương tôn thần sự tích, Thần phả
đền Cửa sông Ngũ Quận, Việt điện u
lỉnh...; truyện ký như: Lĩnh Nam chích
quái, Thiên Nam uân lục liệt truyện...: sử
ký như: Đại Việt sử hý toàn thư, Việt sử
diễn ca, Việt sử tiên án...; địa chí như: Dư
địa chí trong Lịch triều hiến chương loại
chí, Đại Nam nhất thống chí... Văn bản
làm nền cho bài thơ phần nhiều viết bằng
chữ Hán, song cũng có vài ba văn bản
viết bằng chữ Nôm như: Việt sử diễn âm,
Việt sử quốc âm, Việt dư phong uật tổng
ca chú giải toàn tập. Trong các tập dùng
quốc âm dẫn truyền sự tích, bài thơ
NQSH vẫn được ghi chép hoặc in ấn bằng
chữ Hán, chỉ một Đại Nưm quốc sử diễn
cœ của Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái
(Nxb Văn học-H-1966-tr.126) có nêu hiện
tượng âm phù của thần, song không thấy
in bài thơ NQSH:
Bên sông Như Nguyệt trú dinh,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì.
Miếu tiền phúng phất ngâm thì,
Như phân địa thế như trì thiên bình.
- Trong số 30 văn bản truyền thuyết
` có thể thấy
có toàn bộ bài thơ 4 câu
văn bản truyền thuyết được thần phả hóa
trong Việt điện u lính của Lý Tế Xuyên,
mang tên thần: Khước địch thiên hưu, trợ
thuận đạt uương. Ủy địch dũng cảm, hiển
thắng đại uương là xưa nhất. Với tính
chất một truyền thuyết, sau khi được
Việt điện u lính cố định dưới dạng thần
phả, tác phẩm vẫn cứ lưu truyền trong
đời sống cộng đồng. không ngừng được bổ
sung, sửa chữa theo đặc trưng tập thể,
truyền miệng. Đến một bước nào đó,
truyền thuyết lại được cố định hóa trong
các thiên truyện ký với nhiều tình tiết
mới, sai đị so với cũ”, lịch sử hoá trong
các bộ sử trong mối quan hệ với nhân vật
và sự kiện lịch sử””, địa chí hoá trong các
bộ địa lý với tên làng, tên đất. tên sông”
có phần khác trước. Truyền thuyết vừa
được lưu hành truyền miệng hết đời này
sang đời khác, vừa được cố định hoá
thành văn trong nhiều thể tài văn học
như thế, đã mang tính chất một sáng tác
đân gian với rất nhiều dị bản; văn bản
bài thơ NQSH trong truyền thuyết trở
nên phức tạp nhưng lại rất phong phú
một cách tự nhiên trong đời sống văn hoá
cộng đồng của một dân tộc thường xuyên
chống xâm lăng giải phóng và bảo vệ đất
nước. Chính vì vậy mà, khi muốn xác lập
văn bản bài thơ, G8 Trần Nghĩa đã phải
qua thao tác thống kê, cách thức chọn lọc
rất công phu, khoa học. Ấy thế nhưng
văn bản chọn ra vẫn chưa được đời chấp
nhận. Nguơi ta vẫn cứ dùng văn bản hiện
hành vốn đã được dùng từ lâu trong nhà
trường, ngoài xã hội, trên các phương
tiện thông tin đại chúng và sản phẩm in
ấn. Vấn đề văn bản của bài thơ, tôi đã có
kiến giải ở bài: "Bờn thêm uề uăn bản uà
tác gtd bài thơ Nam quốc sơn hà" (Tạp chí
Văn học số 10 - 1996), dưới đây có dịp sẽ
nói thêm.
Để độc giả có thể nắm được nội đung
chính của truyền thuyết này. xin tạm lấy
Trương tôn thần sự tích, tuy in muộn,
34
BÙI DUY TÂN
song là văn bản tích hợp được nhiều tư
liệu về truyển thuyết Trương Hống,
Trương Hát.
Trương tôn thần sự tích - bản im -
VHv 1968-67 tr.-khổ 24 x 14. Sách gồm 4
phần. Phần một là Sự tích mẹ Vân Mẫu
của Trương tôn thần. Phần hai là Sự tích
Trương tôn thần. Phần ba là Văn tế
Trương tôn thần. Phần bốn là Các xã thờ
Trương tôn thần. Sự tích kể rằng có một
bà tên là Vân Mẫu” ở xã Vân Mẫu huyện
Vũ Giàng (nay thuộc Bắc Ninh) năm
mộng thấy cảm giao với Long thần ở Lục
Đầu giang có thai 14 tháng, sinh ra một
bọc có 4 trai, đặt tên là Hống””, Hát,
Lừng, Lẫy, và một gái tên là Đạm Nương.
Lúc bé thường cùng đám trẻ chơi nhiều
trò kỳ lạ. Lớn lên, học với thầy họ Lã, làu
thông binh thư, võ lược. Lúc nhàn rỗi
thường hỏi mẹ về cha. Mẹ bèn thuật lại
chuyện xưa. nói các con đều là dòng đõi
của thuỷ thần họ Trương, từ đó bèn xin
lấy theo họ Trương.
Khi Triệu Việt Vương dấy nghĩa, anh
em theo về giúp, trở thành tướng giỏi.
Sau Triệu Việt Vương thất bại, Hậu Lý
Nam Đế triệu ra, anh em từ chối để giữ
tiết với chủ cũ. Khi Nam Tấn Vương Ngô
Hậu chúa đi đánh giặc Lý Huy, anh em
họ Trương bấy giờ được trời phong thần,
đều âm phù Hậu chúa dẹp loạn. Năm
Thiên Phúc thứ hai (981) đời Lê Đại
Hành, Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân
xâm lược nước ta, thần âm phù nhà vua
đánh giặc băng lời thơ vang lên từ trong
đến:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên phán định tạt thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhất trận phong ba tận táo trừ.
Tạm dịch:
Núi sông nước Nam, vua Nam ngự trị.
Thượng đế đã phân định tại sách trời.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm,
Gió mây một trận quét trừ hết giặc
thà.
Năm Thái Ninh thứ năm (1076) đơi
Lý Nhân Tông. Tống sai Quách Quì xâm
lược. Vua ta sai Lý Thường Kiệt chống
lại. Quân ta đóng ở trước đền Trương Đại
Vương. Đêm ấy, trăng sáng tựa ngày,
bỗng nghe tiếng kiếm mã trong không
trung. xa thấy hai thần thống lĩnh ky
binh, phi trong mây trắng, cùng ngâm
thơ răng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành bhan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Văng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Lê Thước - Nam Trân dịch
Quân Tống nghe thơ hoảng loạn,
không bị đánh mà tự vỡ. Thường Kiệt
đuổi theo giết chết không biết bao nhiêu
mà kể. Giặc thua đại bại rút chạy về Bắc.
Đến thời kháng Nguyên Mông, Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn cầu khấn thần
trợ bình đánh giặc, nhất nhất đều linh
nghiệm. Trương Hống. Trương Hát và cả
cô em gái Trương Đạm Nương đều được
phong thần, đời đời huyết thực. Nhân
đân dựng đặt mấy trăm đến miếu phụng
thờ các thần suốt cä một vùng lân cận
sông Cầu, sông Thương, nay thuộc Bắc
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
Giang Bắc Ninh và nhiều làng xã ở các
phủ huyện nay thuộc Hải Dương, Hà
Tây, Phú Thọ...
Đến đây, sau khi đã tóm tắt Trương
tôn thần sự tích, ta có thêm điều kiện để
so sánh nó với 29 dị bản còn lại. thấy rõ
sự khác biệt thật không ít về tình tiết, về
tên sông, tên đất, tên xã, tên làng, đặc
biệt về từ ngữ, về thứ tự từ ngữ của câu
thơ v.v... Tất cả đều thành vấn đề, đều là
hiện tượng thường thấy khi truyển
thuyết được lưu truyền qua nhiều đời,
nhiều nơi.
Kết luận có thể rút ra ở đây là:
Trương tôn thần sự tích và 99 đị bản còn
lại thể hiện rõ tính chất của truyền
thuyết, huyền tích, với khá nhiều mô típ
của thể tài truyền thuyết như thụ thai.
sinh để thần kỳ, cha rồng. sinh một bọc
nhiều con, chết kỳ dị. có phong thần,
hiển thánh, ám trợ, âm phù, có nhiều
tình tiết ảo huyền, kỳ dị (năm mộng thụ
thai, tiếng thơ vang lên từ đến thần,
tiếng kiếm mã giữa không trung. đoàn ky
binh trong mây trắng v.v...). Đặc biệt
truyện kể luôn gắn kết với nhân vật sự
kiện lịch sử: Triệu Quang Phục, Lý Phật
Tử, Ngô Quyển, Ngô Xương Văn, Định Bộ
Lãnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần
Quốc Tuấn...Qua văn bản trên còn thấy
rõ truyền thuyết về một bài thơ với xuất
xứ thần kỳ, lời thơ đõng dạc, đanh thép,
văn bản biến động nên phức tạp nhưng
lại phong phú, đa dạng. Xin được qua văn
bản truyền thuyết rút ra:
KIẾN GIẢI - NHẬN XÉT VỀ BÀI
THƠ VÀ TÁC GIA BÀI THƠ.
1- Về văn bản bài thơ. Qua ba chục
văn bản truyền thuyết: ta có 30 văn bản
bài thơ, chia thành ba nhóm. Nhóm mìột
khoảng một chục bản gồm các dị bản của
3O
Việt điện u lĩnh vốn là thần tích được Lý
Tế Xuyên biên soạn lại và mấy bản thần
tích khác. Nhóm hai khoảng hơn chục
bản gồm các đị bản của Lĩnh Nam chích
quái vốn là truyện cổ dân gian được Trần
Thế Pháp - Vũ Quỳnh - Kiểu Phú biên
soạn lại, cùng với Thiên Nam ân lục cô
cùng tính chất. Nhóm ba khoảng gần
chục bản gồm các sách sử ký, địa chí. Ba
mươi bài thơ xuất xứ từ 30 truyền thuyết,
cũng có đến 30 dị bản ''!”, chỉ một hai
trường hợp giống nhau gần như hoàn
toàn về mặt chữ. Dọc theo các dị bản,
thấy bài thơ không ngừng biến động theo
hướng tái tạo. Văn bản cổ nhất của bài
thơ thuộc nhóm Việt điện u lính so với
văn bản muộn nhất Trương tôn thần sự
tích cũng chỉ khác nhau một trường hợp
đảo từ. Ở bản xưa là: "Tiệt nhiên phán
định tại thiên thư", ở bản muộn là: "Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư", Như thế
là văn bản bài thơ tương đối ổn định. Tuy
nhiên muốn xác lập văn bản bài thơ cũng
chăng mấy dễ dàng. GS Trần Nghĩa đã
thử làm, dựa vào tần số xuất hiện các từ
và đối tượng nghe thơ là quần ta, ông đề
xuất một văn bản:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhất trận phong ba tận tdo trừ.
Tạm dịch:
Non nước phương Nam. vua Nam quản,
Rành rành phân định tại sách trời.
Cớ sao giặc nghịch sang xâm phạm?
Gió mây một trận quét tơi bời?”.
Văn bản này được xác lập từ đầu năm
1986. Đến nay đã 14 năm. nhưng đời vẫn
cứ dùng bản hiện hành vốn là văn bản
bài thơ thứ hai trong Trương tôn thần sự
36
tích (đã dần) được nhà sử học Trần Trọng
Kim đưa vào Việt Nam sử lược (Tân Việt
- H - 1944, Nxb Văn hóa Thông tin tái
bản - H, 1999, tr. 119), và được nhiều thế
hệ dùng theo tronø tất cä các văn bản
viết, in, khắc sơn gỗ từ năm sáu chục
năm nay. Văn bản này của bài thơ đã trở
nên quen thuộc, giới học thuật đã tốn bao
bút mực bàn luận về nó từng câu, từng
chữ, người Việt đã duy nhất ưu tiên cho
nó sự ghi nhớ đến thuộc lòng 4 câu thơ
chữ Hán từ thơi chống thực dân Pháp
xâm lược, nhất là thời chống Mỹ cứu
nước... Vì vậy văn bản có tính chất lịch
sư, từng được coi là quốc thị, quốc thiểu,
có giá trị như Tuyên ngôn độc lập đầu
tiên, không dễ gì thay đổi mà thực ra
cũng không nên và không còn có thể thay
đổi được nữa.
2- Về mặt tính chất: Đây là bài thơ
thần, nằm trong một văn bản có dạng
truyền thuyết, loại truyền thuyết anh
hùng thường thấy trong lịch sử nước ta,
được thần phả. u linh. chích quái, sử ký,
địa chí, truyền kỳ ghi lại. Ngay trong
Việt điện u lĩnh, sau truyền thuyết này,
là truyền thuyết về Lý Phục Man tướng
của Lý Nam Đế đem âm binh giúp ngầm
Ngô Tiên chủ đánh quân xâm lược Nam
Hán. Lê Đại Hành đánh Tống và còn để
lại một bài thơ trong mộng ảo của Lý
Thái Tổ”. Ba vị thần ở đền Đào Xá
(Thanh Thuỷ - Phú Thọ) cũng âm phù Lý
Thường Kiệt đánh Tống và đọc một bài
thơ khiến Lý Thường Kiệt thêm tin
tưởng:
Nam thiên đi định để Nam quân,
Đạt đức giai do đức nhật tân.
Thất quận sơn hà đô nhất thống,
Tông bình bất miễn tán như uân.
BÙI DUY TÂN
Dịch nghĩa:
Trời Nam đã định vua Nam ta,
Đức lớn ngày thêm đức mới ra.
Bảy quận non sông đều một mốt,
Tống binh tan tác tựa mây sa!”'),
Những bài thơ loại này thường thấy
trong các truyền thuyết, cổ tích lịch sử,
huyền tích... ghi lại hiện tượng ám trợ
của thần linh vốn là anh hùng cứu nước
cứu dân. cho con cháu các đới sau đẹp nội
loạn, chống ngoại xâm.
Về thể tài thì NQSH là một bài thơ
thất ngôn tuyệt cú. ngôn từ có tính chính
luận, điễn dịch một thiên mệnh. khăng
định một thiên uy. giống như một lời
giáng bút, một sấm ngôn: "Đất nước này
của vua Nam thụ mệnh ở trời, kẻ nào
xâm chiếm là nghịch thiên mệnh, tất bị
tru diệt". Loại thơ có tính chất sấm ký
này đang rất thịnh đạt lúc đương thời. Sư
Vạn Hạnh được coi là: "dung tam tế, ưng
phù cổ sấm thi" (thông suốt cả ba cõi trời,
đất, người nên lời nói ra thường ứng hợp
với câu thơ sấm cổ"°”, Song, trước Vạn
Hạnh đã có không ít sấm truyền, dùng lời
nói kín (ấn ngữ) để dự đoán cát hung. Bài
Sấm ngôn: "Thụ căn điểu diểu, mộc biểu
thanh thanh. Hoà đao mộc lạc, thập bát
tử thành..." (Gốc cây thăm thắm, ngọn
cây xanh xanh. Cây hoà đao rộng, mười
tám hạt thành...)!” là rất tiêu biểu vì lời
kín ở đây là sự mách bão nhà Lê mất. nhà
Lý sẽ lên thay.
Về thời gian xuất hiện của bài thơ và
cũng là truyền thuyết về Trương Hống,
Trương Hát cũng là chuyện cần bàn.
Hiện chưa thể biết rõ truyền thuyết và
bài thơ cùng xuất hiện hay truyền thuyết
có trước, bài thơ có sau và ngược lại. Điều
chắc chắn là truyền thuyết trong có bài
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
ỏÍ
thơ không thể xuất hiện muộn hơn năm
ra đơi sách Việt điện u lính của Lý Tế
Xuyên: 1329. một công trình biên soạn về
các vị thần linh vốn được thờ cúng ở nước
ta. Vì ở sách này thì bài thơ đã là thành
phần hữu cơ gắn với truyền thuyết. Văn
bản muộn nhất của truyền thuyết và bài
thơ, có lẽ là Tương tôn thần sự tích do
Nguyễn Thịnh Dẫn xuất bản năm 1929 ở
Hà Nội. Khó dự đoán nhất có lẽ là việc
tìm kiếm thời gian ra đời sớm nhất của
truyền thuyết. Nếu dựa vào lời văn sách
Việt điện u lính khi dần: "Theo sử ký của
Đô Thiện: Hai Vương là hai anh em một
nhà. Xưa vua Ngô Nam Tấn (951-965) đi
đánh giặc Lý Huy ở Long Châu... thần
xin giúp sức vua đi đánh". Và ở đoạn sau
Thần nói với Ngô Nam Tấn: "Trước đây
Tiên đế (tức Ngô Quyển) đánh trận Bạch
Đăng, chúng tôi cũng đã theo giúp", thì
truyền thuyết có thể xuất hiện từ thời
Ngô và sau đó là thời Đỉnh Lê, tức đầu
thời tự chủ. Dự đoán này phù hợp với thể
tài, tính chất của bài thơ (thơ-hịch-sấm)).
như đã nói trên, và nhất là phù hợp với
chủ để có tính chất thời đại của thơ ca
thời này là bhẳng định dân tộc, trước hết
là khăng định độc lập tự chủ.
Cuối cùng là vấn để có tầm quan
trọng bậc nhất: AI LÀ TÁC GIA BÀI
THƠ.
Qua 30 văn bản bài thơ, thắp đuốc
mà tìm cũng không thấy câu chữ nào ghi
nhận NQSH do Lý Thường Kiệt viết ra.
Cũng không hề thấy chỗ nào nói fương
truyền là của Lý Thường Biệt, hay của Lê
Hoàn. Thơ ấy là của thần, nằm trong một
truyền thuyết, nên nó chưa từng được
một tuyển tập thơ chính thức nào ở thời
phong kiến tuyển chọn. Bài thơ đó là của
thần. Nói cho đúng thì của thần về thực
chất chính là của người. Người đây không
phải Lê Hoàn hay Lý Thường Kiệt mà là
trí thức trong dân của đầu thời tự chủ,
đang ngày đêm lo toan sản xuất để sống,
chiến đấu để bảo vệ nền tự chủ vừa mới
giành được, nhưng luôn luôn bị đe doạ
cướp đoạt. Bài thơ bằng chữ Hán và lời lẽ
đanh thép. đõng dạc, hàm súc của nó, chủ
đề minh bạch và có tính thời đại của nó,
khiến ta nghĩ đến nó phải là của các đại
nhân trong hàng ngũ trí-dân"'”, Những
người này làm ra do nhu cầu thời đại, lưu
truyền, sửa chữa, có thể trước sau hoặc
cùng với truyền thuyết. Bài thơ có thân
mệnh của một sáng tác tập thể, truyền
miệng, có tính chất quần chúng, cập
nhật. Tác gia bài thơ là của muôn sĩ dân,
làm ra đáp ứng nhu cầu thời bình minh
của sự nghiệp đại phục hưng dân tộc thế
ký X, XL.. Xin trả lại bài thơ cho chủ
nhân đích thực của nó. Rồi có thể ØỌI HÓ
là Thơ thần nhưng thực chất là của
người, để nó là khuyết danh cũng được,
song chăng còn hy vọng øì tìm ra tác giả
của nó, nên để nó là oô danh như tác
phẩm văn học dân gian thì đúng hơn.
Vả lại, có để: THƠ THÂN - VÔ
DANH mới thấy hết ý nghĩa khoa học
uyên áo của thiên truyền thuyết anh
hùng lịch sử. Bài thơ trong truyền
thuyết, thực chất là lời lẽ âm phù, ám trợ
của thần thánh cho hậu thế đánh giặc
cứu nước. Bài thơ gắn với câu chuyện
đậm màu sắc huyền ảo thường thấy trong
truyền thuyết đân gian. Nếu như thần
thánh ở đây là tượng trưng cho truyền
thống được thể hiện qua tập tục thờ
phụng thần linh, thì những yếu tế kỳ ảo
lại là khái quát hóa, huyển tích hóa sức
mạnh tâm thức và nguyện tước con người
thời đại. Nếu như không có chuyện thần
đọc thơ, L7 Thường Kiệt nằm mộng như
38
BÙI DUY TÂN
trường hợp thần phù trợ Lê Hoàn, mà có
chuyện Lý Thường Kiệt dùng thơ thần,
sai người nấp vào đền thờ đọc lên để cổ
vũ tướng sĩ chiến đấu thì ông đã hành
động như một nhà tâm lý học sành sỏi.
Sành sói là ở chỗ chọn được, mượn được
lời lẽ của thần linh đương thời vốn là anh
hùng cứu nước khích lệ ý chí chiến thắng
của tướng sĩ đang đối luỹ với quân thù.
Lời lẽ ấy /à của thần chứ không phải của
người, càng không phải của Tướng quân
Lý Thường Kiệt. Suy nghĩ thế và làm như
thế là phù hợp với tâm thức thời đại,
không duy lý đơn giản mà đặt cược vào
niềm tin con người. Thần nói đáng tin
hơn người nói, trời bảo thiêng hơn người
bảo, mà thần linh thì đâu phải xa lạ.
đang được thờ ngay trong vùng chiến luỹ
Kia kìa!?” Tất eä phải đặt trong bối cảnh
lịch sử thời ấy.
Sự thực về xuất xứ bài thơ và tác giả
đích thực của bài thơ, như đã tường giải
trên đây là như vậy. Thế mà, từ trước
Cách mạng tháng Tám cho đến nay,
không ít học giả nổi tiếng vẫn khẳng
định trong các công trình khoa học của
mình: bài thơ NQSH là của Lý Thường
Kiệt. hoặc tương truyền của Lý Thường
Kiệt. hoặc do Lý Thường Kiệt tự viết rồi
giả thác của thần v.v... Thật không đâu
hơn lại có sự thống nhất cao như vậy của
nhiều bậc trưởng lão đầy quyển tuy học
thuật bắt vít tên Lý Thường Kiệt vào bài
thơ NQSH. Xin chỉ dẫn ra một số học giả
từng có nhiều công trình khảo cứu, biên
soạn: Trần Trọng Kim?”, Hoàng Xuân
Hãn“””, Nguyễn Đổng Chi””,_ Dương
Quảng Hàm "”, Văn Tân“””, Định Gia
Khánh“”` v.v... Và mấy bộ tùng thư của
thời đại Hợp tuyển thơ Việt
Nam ”,Thơ uăn Lý Trần'””, Tổng tập
UữN
uăn học Việt Nam” v.v... Rồi vô vàn
người dân dụ, nghiên cứu, giảng dạy bài
thơ. nhiều nhất là trong các văn bản thời
kháng chiến chống Mỹ. Đáng chú ý thêm,
không chỉ hàng trăm dẫn dụ bèi thơ là
của Lý Thường Kiệt trong những bài viết
đăng tải trên sách báo tạp chí, phát
thanh, truyền hình qua các đài trung
ương, địa phương. nhất là Hà Nội. mà là
việc đưa tên Lý Thường Kiệt gắn uới bài
thơ vào các loại bao tàng, nhà lưu niệm,
di tích văn hóa lịch sử, oiệc khắc hoạ tên
Lý Thường Kiệt cạnh bài thơ vào hoành
phi. câu đối.. những nơi thờ phụng
Tướng quân. Tình trạng lầm lần đến mức
Giáo sư Hà Văn Tăn - nhà sử học và nhà
văn bản học hàng đầu của thời đại - phải
kêu lên: "Không một nhà sử học nào có
thể chứng minh được rằng bài thơ Nam
quốc sơn hà Nam đế cư là của Lí Thường
Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết
điểu đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong
trận chống Tống ở vùng sông Như
Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng
ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương
Hống. Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý
Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi
xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt
là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là
#' thôi, làm sao nói chắc được bài
thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế
nhưng, cho đến nay, mọi người đường
như đều tin rằng đó là sự thật. hay nói
đúng hơn, không ai đấm nghi ngờ đó
không phải là sự thật".
đoán
Kể ra, cũng có một số học giả chưa
đọc, chưa biết, chưa chú ý tới bài thơ và
tác giả bài thơ. hoặc đã biết tới nhưng
còn hoài nghị. băn khoăn. thận trọng, do
dự. Không dứt khoát v.v... Hoàng Xuân
Hãn sau khi đã theo Trần Trọng Kim,
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI
39
cho bài thơ là của Lý Thường Kiệt như đã
dẫn trên đây, viết thêm: "Nhưng nói chắc
là Thương Kiệt làm được thơ thì không có
øì làm bằng cứ" (Đã dẫn). Ngô Tất Tố
trong Văn học đời Lý *”"", Hoa Bằng trong
Thử uiết Việt Nam ăn học sử, Nguyễn
Văn Tố trong bài phê bình: Đọc sách
“®ở“ của Ngô Tất Tố
không viết gì về bài thơ, tác giả bài thơ.
GS§ Trần Nghĩa trong bài Thử xác
lập...(Đã dẫn) mới chỉ đi vào khâu văn
bản của bài thơ. song chắc ông thừa hiểu
“Việt Nam văn học
qua mấy chục văn bản ông nắm được. Lý
Thường Kiệt có quan hệ thế nào với bài
thơ. Một vài học giả, khi đân dụng bài
thơ chỉ nói đây là bài thơ thần. hoặc văn
bản và tác giả bài thơ còn cần phải bàn...,
có thể xem đó là thái độ hoài nghi khoa
học.
Điều đáng ghi nhận gần đây là trong
dịp Lê hội kỷ niệm 990 năm Thăng Long
- Hà Nội tối 8/9 vừa qua, bài thơ được đọc
sau khi giới thiệu chiến công chống Tống
của Lý Thường Kiệt. nhưng không hề
khẳng định ông là tác giả bài thơ. Lời đọc
rằng: "... còn vang vọng mãi đến ngày
hôm nay bài thơ thần (tôi nhấn mạnh:
B.D.T): Núi sông nước Nami..."“””, Xin lấy
tư cách cá nhân cảm ơn Tổng đạo điễn
NS Nhân dân Phạm Thị Thành, Giám
đốc Sở Văn hoá Hà Nội, TS Nguyên Viết
Chức, những người có trách nhiệm lớn về
những lời đọc dẫn giải buổi đại Lễ hội
đêm hôm ấy.
Để khăng định bài thơ NQSH là
khuyết danh tác giả, Lý Thường Kiệt chỉ
là người sử dụng bài thơ đã sẵn có để
khích lệ tướng sĩ chiến đấu, tôi đã viết
đến 3 bài, nhắc đến đdăm bảy lần khi viết
những văn đề có liên quan đến bài thơ, và
đặc biệt nói ở trên lớp sinh viên. học viên
cao học, nghiên cứu sinh không nhớ đã
bao lần ở hàng chục lớp ở Hà Nội. mấy
chục lớp ở miền Trung, miền Nam khi
đào tạo các lớp cao học, cử nhân sư
phạm... Bài: Nên chọn tác phẩm nào là
sớm nhất của uăn học trung đại Việt
Nam'”°, bài: Bài thơ sớm nhất: "Nam
quốc sơn hà" hay "Quốc tộ”"?”, Ö hai bài
này, tôi hướng việc chọn vào NQSH mà
tôi cho răng đã ra đời sớm hơn Quốc tộ.
Vị NQSH được thân đọc giúp Lê Hoàn
khi đánh Tống. tất phải xuất hiện trước
bài thơ Quốc £ô của Pháp Thuận, viết để
trả lời Lê Hoàn hỏi về vận nước sau khi
chống Tống thắng lợi năm 981. Bài: Bàn
thêm uề uăn bđn uè tác gia bài thơ Nam
quốc sơn hà"”” cũng có đoạn viết: "Bài thơ
là của thần, thần sông Như Nguyệt:
Trương Hống, Trương Hát, đúng hơn là
của tập thể các tác giả đã tạo nên những
huyển thoại, truyển thuyết, những lời
tương truyền". Ở loại sách giáo khoa
trung học, một loại sách đòi hỏi độ chính
xác cao về tư liệu văn bản, các soạn giả
thường để dấu: ) tỏ sự nghi ngờ ”” ở cấp
trung học phổ thông, còn ở Văn học 9,
Tiểu dẫn đã viết: "Nam quốc sơn hà... do
Thần đọc giúp Lí Thường Kiệt cổ vũ
tướng sĩ". Chú giải còn nói rõ hơn: "Thực
ra coi đây là bài Thơ Thần - khuyết danh
- thì mới phù hợp với tư liệu hiện còn",
"Công trình kế biết mấy mươi", thế mà
vẫn gặp phải tập quán cố hữu, hoặc làm
ngơ qua nhiều phương thức truyền thông
văn hóa, văn học, nhất là trên trang sách
của một số đại nhân đã và đang cộng tác
với các ngành văn hoá, văn học trong một
vài công trình về Thăng Long - Hà Nội -
triều Lýt”” v.v...
Trong Hội thảo quốc tế VIỆT NAM
TRONG THỂ KỶ XX tháng 9 vừa qua,
40
BÙI DUY TÂN
TTẪẪ TDễễEEÐEÐE—ễễỄễỄ———————————— ————————
gặp GS§ Hà Văn Tấn. tôi có ý than phiền
về tác giả bài thơ NQSH đã viết đến thế
mà có một sở học giả vẫn cứ hiểu như cũ.
như xưa. GS cười rồi nói với tôi răng:
nghiên cứu khoa học là thế đấy, mình tìm
ra rồi nhưng người ta vẫn viết thế, cứ
phải đợi thôi! Xin coi đây như lời kết của
bài viết đã dài này
10-9000
B.D.T
(1) Nói khoảng vì có văn bản khuyết
thiếu số câu thơ...
(2) Hoàng Xuân Hãn trong ý Thường
Kiệt chắc đã dựa vào Trương tôn thán sự
tích, nên chú thích rằng: "Cã vùng sông
Cầu và Thương có đến hơn 290 ngôi đền
thờ hai vị thần họ Trương. Nxb Sông Nhị,
Hà Nội 1949, tr. 303.
(3) Sách Đại Nam nhất thống chí. Bắc
Ninh - Sdd viết: "Tam Giang có sách chép
là Nam Giang, có sách chép là Binh
Giang". Đây có lẽ là lấy tên sông, phá...
hoặc hợp lưu của sông đặt tên cho thần
hoặc đến thờ thần Trương Hống, Trương
Hát.
(4) Bản Việt điện w linh (VHv 1503)
không có bài thơ.
(5) Như trong Lĩnh Nam chích quái,
Thiên Nam ân lục liệt truyện...
(6) Như trong Đại Việt sử hý toàn thư,
Việt sử tiêu án...
(7) Như trong Dư địa chí - Lịch triều
hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống
chỉ...
(8) Vân Mâu vốn là tên xã, nơi bà mẹ
sinh ra các con.
(9) Một bản Đại Việt sử ký viết người
anh ca có tên là Khiếu.
(10) Chỉ xin lưu ý 2 trường hợp đặc
biệt là: 1, Thiên Nam vận lục liệt truyện,
Đại Nam nhất thống chí.. chép rằng:
Trương Hống, Trương Hát làm quan ở thời
Ngô Vương, sau bị Định Bộ Lĩnh ép ra,
nhưng không chịu khuất phục bèn uống
thuốc độc tự tử. Tình tiết "mới lạ" này cứ
như nhại lại tình tiết về mối quan hệ của
hai thần với Triệu Việt Vương và Hậu Lý
Nam Đế. 3. Trong các văn bản thần phả
Việt điện u lĩnh, có thêm tình tiết: Trương
Hống Trương Hát từng giúp Ngô Quyển
đánh trận Bạch Đăng.
(11) Mỗi truyền thuyết, thần phả... có
một bài tÈd. Nhưng Trương tôn thần sự
tích như đã dẫn, có đến 9 dị bãn của bài
thơ. Thần đọc thơ hai lần, lần thì giúp Lê
Đại Hành, lần thì giúp Lý Thường Kiệt.
(12) G5 Trần Nghĩa cho rằng: So với
bài thơ quen dùng hiện nay thì bài thơ này
khác ở hai điểm. Thứ nhất: đão định phận
thành phán định để nói sự phân chia đã ổn
định không nên thay đổi, câu thơ hợp niêm
luật, âm điệu hay hơn. Thứ hai: thay hẳn
câu thơ thứ 4 để phù hợp đối tượng tác
động của bài thơ là quân ta. Xem Thứ xác
lập... Đã dẫn.
(13) Việt điện u lính - bản dịch.
Truyện Chứng An Minh ứng Hựu Quốc
Công. Nxb Văn hóa. Hà Nội 1973.
(14) Truyền thống anh hùng dân tộc
trong loại tình tự sự dân gian Việt Nam.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1971, tr. 139.
(15) Trích xuất từ bài Truy tán Vạn
Hạnh thiên sử của Lý Nhân Tông.
(16) Đây là bài sấm ngôn, dùng phương
pháp chiết tự thì câu thứ ba viết thành chữ
Lệ ( ), câu thứ tư viết thành chữ Lý
( ) ý nói nhà Lê mất, nhà Lý lên thay.
(17) Thời nay, đa số trí thức là tăng lữ
ở cửa chùa, nho sĩ còn quá ít.
(18) Ở làng Vọng Nguyệt, tục gọi là
làng Ngọt, có bến đò Ngọt, có Trạng Ngọt
Hứa Tam Tỉnh, bên bờ sông Như Nguyệt
(tức quãng sông Cầu ở đoạn giáp giới Bắc
Ninh - Bắc Giang) có đền thờ Trương
Tướng quân. Lý Thương Kiệt lập phòng
tuyến chống giặc ngay ở khu vực có đền
thơ đó.
(19) Việt Nam sử lược, tái bản. Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội 1999, tr. 1129
viết: "Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh
hăng lắm, Lý Thường Kiệt hết sức chống
giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng
NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỐI
chăng, öèn đặt ra một chuyện (tôi nhấn
mạnh: B.D.T) nói rằng có thần cho bốn câu
thd:...).
(20) Lý Thường Kiệt, tái bản. Sông
Nhị. H, tr. 308 viết: "Sự thật có lẽ như tôi
đã theo ý Trần Trọng Kim, nhận rằng £hở
là của Lý Thường Kiệt" (tôi nhấn mạnh:
BH.
(21) Việt Namn cổ uăn học sử. Hàn
Thuyên xuất bản cục. H, 1942, tr.143 viết:
"Thương Kiệt khi thúc quân cự địch, một
hôm giđ thác chuyện (tôi nhấn mạnh:
B.D.T) nằm chiêm bao có một vị thần cho
bài thơ rằng".
(22) Việt Nam ăn học sử yếu, ìn lần
thứ mười, Bộ Giáo dục. Sài Gòn 1968, tr.
231-239 viết: "Lý Thường Kiệt khi chống
nhau với quân địch, có !àm bài thơ (tối
nhấn mạnh: B.D.T) để khuyến khích tướng
sĩ, lời lẽ thật kháng khái".
(23) Tổng tập uăn học Việt Nam. Tập 1.
Chủ biên: Văn Tân. Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội 1980, tr. 231 viết: "Bốn câu £hơ bất
hủ của Lý Thường Kiệt (tôi nhấn mạnh:
B.D.T) đọc ở đến Trương Hát - Trương
Hống đầu xuân năm Đỉnh tị..."
(24) Lịch sử uăn học Việt Nam. Tập Ï.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1980, tr. 192
viết: "Năm 1076 để khích lệ tướng sĩ trong
cuộc quyết chiến với quân xâm lược Tống ở
sông Cầu (sông Như Nguyệt), Lý Thường
Kiệt đã nhân danh thần sông Như Nguyệt
làm bốn câu thơ như sau” (tôi nhấn mạnh:
H.l1, 1l}.
(35) Hợp tuyển thơ uăn Việt Nam - Thế
kỷ X-thế ký XVII. Định Gia Khánh-Bùi
Văn Nguyên-Nguyễn Ngọc San. Tái bản.
Nxb Văn học, Hà Nội 1976, tr. 56, 57, 58,
tuyển thơ văn Lý Thường Kiệt, có đoạn
viết: "Năm 1076, khi tiến quân chống cự
VỚI giặc Tống ở sông Cầu tương, truyền
rằng để cổ vũ quân sĩ, ông đã đọc bài thơ
sau đây". Khi ghi xuất xứ bài thơ, sách này
đã lầm lẫn, cho là của #ioàng Việt £hï tuyến
- Bài Huy Bích. Sự thực không có một Hợp
tuyển thơ văn nào thời phong kiến tuyển
bài thơ này.
(26) Thơ uăn Lý Trần. Tập ID Khảo
luận văn bản: Nguyễn Huệ Chi. Nxb Khoa
học xã hội. Hà Nội 1977, tr. 318-522, tuyên
41
thơ văn Lý Thưởng Kiệt, có đoạn viết: "Có
lẽ Lý Thường Kiệt đã tạo ra câu chuyện
thần linh đó để khích lệ tỉnh thần quân sĩ.
Bài thơ đã góp phần không nhỏ vào việc
đánh bại quân Tống...".
(27) Tổng tập uăn học Việt Nam. Tập I.
Chủ tịch Hội đồng biên tập: Đỉnh Gia
Khánh. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1980,
tr, 114 bài TÔNG LUẬN viết: "Trước Trần
Quốc Tuấn hai trăm năm, Lý Thường Kiệt
đã có những lời thơ hào hùng và đanh thép
trong bài Nan quốc sơn hà như sau:..."
(28) Tác giả nhấn mạnh.
(29) Tố Quốc số 401, tháng 1, 1988. Bài
Lịch sử, sự thật uà sử học.
(30) Văn học đời Lý. Mai Lĩnh xuất
bãn-1940.
(31) Thử uiết Việt Nam ăn học sử. Trì
tân: số 27-29-30-32.../ 1942.
(33) Đọc sách
tân: số 58/ 1942.
(33) Tôi đã nghe hai lần đoạn văn đọc
này, lần hơn 9 giờ tối hôm 8/10 trong đại lễ
hội và lần hơn 7 giờ sáng 9/10 trên đài truyền
hình VTV1, chỉ ghi theo được từng ấy lời,
chưa chắc đã là nguyên văn. Song, tôi nhớ rõ
lời đọc đã coi NQSH là bài thơ thần, không
đọc là thơ của Lý Thương Kiệt.
(34) Tạp chí Hán Nôm-số 9-1993. Xem
thêm: Khởđo uà luận. Nxb Giáo dục. H.
1999, tr. 7-12.
(35) Thế giới mới-13-1998.
(36) Tạp chí văn học số 10-1996. Xem
thêm X”hdo và luận. Sđủd, tr. 13-22.
(37) Văn 10-Tập 1-Nxb Giáo dục-H.
1995-tr.B1 và Văn học 10. Tập 1. Sách
chỉnh lí hợp nhất năm 32000. Nxb Giáo dục.
H. 2000, tr. 80.
(38) Văn học 9. Nxb Giáo dục-H-1995-
tr.28 và Văn học 9, Tập 1. Nxb Giáo dục-
H.1999, tr. 28.
(39) Xin xem: Chẳng hạn Gương mặt
uăn hóa Thăng Long. Nguyễn Huệ Chỉ chủ
biên. Sở Văn hoá Thông tin và Trung tâm
hoạt động Văn hoá Khoa học Văn miếu-
Quốc tử giám Hà Nội xuất bản. H. 1994, tr.
T10...
Trì
“Việt Nam uăn học”.
42
Hoặc: Văn hiện Thăng Long. Vũ Khiêu-
Nguyễn Vinh Phúc chủ biên, Nxb Văn hoá
Thông tin. H.2000, tr.73... Cũng trong sách
này, khi viết về Vài nội dung của uăn học
Thăng Long (tr. 159-903) GS Trần Thị Băng
Thanh ở trang 166 đã viết về bài thơ NQSH
nhưng không nói ai là tác giả.
Hoặc: Làng Dương Lôi uới Vương triều
Lý. Hơn 40 tác giả, Nxb Văn hoá dân tộc.
H.9000, tr.247, 30ã... ỞỔ trang 247-248 sách
có một chú thích, chắc là của người biên
tập: "Gần đây, theo ý kiến của một số nhà
khoa học, bài "Nam quốc sơn hà" là khuyết
danh, Lý Thường Kiệt chỉ là người sử dụng
bài thơ để động viên quân sĩ... bài thơ cũng
đã được thần đọc để giúp Lê Hoàn".
Ba tập sách trên và rồi còn một số sách
khác, do nhiều người viết, nên kiến giải về
bài thơ và tác giả bài thơ NQSH thường ít khi
có sự nhất trí Ở đây chỉ trích đẫn một số
trang có tính chất tiêu biểu cho các kiến giải.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
- Trong bài viết, đã ghi du sách, tạp chí
tiếng Việt khi trích dẫn. Dưới đây ghi thêm
ký hiệu sách Hán Nôm có bài NQSH ở Viện
Nghiên cứu Hán Nôm.
- Việt điện tú lĩnh: A1919-A2879-
VHv1285-A751-A335-A47.
- Lĩnh Nam chích quái: ÀA1200-A2107-
A2914-A33-A1800-VHv14178-A750-A1752-
A1200.
- Đại Việt sử hý toàn thư: A3.
- Việt sử tiêu án: AI].
- Trương tôn thần sự tích: VHv1286.
- Việt sử quốc âm: AB308.
- Bằng trình thản bộ: A802.
- Việt sử tiệp bính: A1493.
- Thiên Nam vân lục Hệt truyện:
A1442.
- Lịch triều hiến chương loại chí:
A15öI
- Việt sử điễn âm: AB110.
- Đại Nam nhất thông chí. A69
Các bản trên đây cùng với các bản sưu
tập được từ các địa phương và các bản ở các
Thư viện khác mới đủ 30 bản, như đã viết
ở trong bài.