Tự chủ đại học vẫn còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ
lượt xem 5
download
Bài viết này đề cập đến các bước thực tiễn để một cơ sở giáo dục từ công lập chuyển sang tự chủ và chỉ ra những khó khăn gặp phải trong giai đoạn chuyển đổi đầy bỡ ngỡ này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tự chủ đại học vẫn còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ
- TỰ CHỦ ĐẠI HỌC VẪN CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN, BỠ NGỠ Mai Thu Phương Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh I. Giới thiệu Tự chủ Đại học (university autonomy) trở thành cụm từ được thường xuyên nhắc đến ở trong các trường Đại học, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng và xuất hiện ở các đề tài của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong thời gian gần đây. Điều đó đã đủ để minh chứng cho chủ trương thực hiện chính sách tự chủ trong các trường Đại học của nhà nước là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển giáo dục. Bắt đầu phải kể đến là Nghị quyết 14 của Chính phủ vào năm 2005 đã trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục Đại học, gắn liền với việc xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản đã mở ra hướng mới cho các trường xây dựng đề án tự chủ và tiến hành thí điểm. Kết quả cho thấy các trường thí điểm đều đạt được những hiệu quả bất ngờ ví dụ như Đại học Tôn Đức Thắng, TP. Hồ Chí Minh. Thực tế đã chứng minh tự chủ Đại học mang lại hiệu quả cao cho cơ sở giáo dục. Năm 2018 Luật Giáo dục sửa đổi và chính thức có hiệu lực vào tháng 01/07/2019 thì nhiều trường đã chính thức hoàn thiện đề án tự chủ, được phê duyệt và tiến hành thực hiện từ năm học này 2020 - 2021. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể thì thời điểm này vẫn đang nằm trong giai đoạn chuyển đổi một cách đồng loạt của các trường từ cơ chế Bộ/ Cơ quan chủ quản sang tự chủ. Do đó việc thực hiện đồng bộ sẽ gặp khó khăn vì các trường đã không còn có giai đoạn thí điểm nữa mà là hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, nhân sự, học thuật, liên kết quốc tế,… Điều này đòi hỏi Nhà trường cùng với cán bộ giảng viên phải không ngừng tìm hiểu về cơ chế chính sách, xây dựng đề án tự chủ và thực hiện nghiêm túc theo đề án. Song thực tế đặt ra là không phải giảng viên nào cũng hiểu về tự chủ và không phải ai cũng phân biệt rõ về quá trình tự chủ - đặc biệt là các trường công lập. Bài viết này đề cập đến các bước thực tiễn để một cơ sở giáo dục từ công lập chuyển sang tự chủ và chỉ ra những khó khăn gặp phải trong giai đoạn chuyển đổi đầy bỡ ngỡ này. II. Sự phát triển của các cơ sở tự chủ Đại học Bắt đầu từ năm 2012 khi Luật giáo dục đại học xác định các trường đủ điều kiện có thể xây dựng đề án thí điểm tự chủ mở ngành/ chuyên ngành mà không phải xin phép Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đặt một dấu mốc quan trọng cho việc c xây dựng chương trình đào tạo tự chủ và lựa chọn chuyên ngành đào tạo phù hợp. Thời điểm đó theo quy định thì các Đại học Quốc Gia hoàn toàn đủ điều kiện. Nắm bắt lợi thế này các trường thuộc Đại học Quốc gia cũng dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh chương trình học phù hợp với người học. Tuy nhiên thời điểm này các trường vẫn bị hạn chế về số lượng tuyển sinh, kinh phí và chưa được tự chủ về thu chi vì theo tiêu chuẩn thì việc mở ngành chỉ có 02 Đại học Quốc gia là đạt yêu cầu. Tiếp đó là giai đoạn 2014 - 2017 khi các mô hình thí điểm tự chủ bắt đầu được đánh giá tích cực, tiếp sau đó là lần lượt các thông tư 08, 12, 22 và 24/2017/TT-BGDĐT ra đời thì các trường được phép mở thêm các chuyên ngành đào tạo mới, tạo nên sự đa dạng về ngành nghề giữa các trường, tăng cơ hội lựa chọn cho người học và sự đa ngành cho các trường. Năm 2017 cũng ghi nhận là năm liên kết đào tạo đại học tăng vọt sau thông tư 07/2017/TT- BGDĐT và đặc biệt tăng mạnh về liên kết đào tạo quốc tế sau Nghị định 86/2018/NĐ- 391
- CP về Quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Cũng tại thời điểm này nhiều trường thí điểm tự chủ đã có được những kết quả hơn với kỳ vọng ban đầu. Ví dụ như đến hết 2017 có 23 trường trong tổng số hơn 500 đại học tham gia thí điểm và hầu hết các trường đã thí điểm đều đạt hiệu quả. Phía Bắc có ĐH Bách Khoa Hà Nội, sau 6 năm thực hiện, trường có tỉ lệ cán bộ giảng dạy là Tiến sỹ cao nhất trong cả nước với 65%, tỉ lệ thí sinh đầu vào trên 28 điểm chiếm 25% trong khi số bài báo Quốc tế có được chỉ số Scopus và ISI tăng gần 60% so với năm 2016. Phía Nam có ĐH Tôn Đức Thắng, tính đến nay nhà trường có tỷ lệ tiến sĩ khoảng 50% trong đó hơn 200 là tiến sĩ nước ngoài, trường đã có gần 6.500 bài công bố trên các tạp chí quốc tế thuộc Danh mục ISI/Scopus (gấp 20 lần thời điểm cuối năm 2015) và là trường công duy nhất đảm bảo hoàn toàn chi thường xuyên và chi đầu tư. Các trường đại học thành viên thuộc khối Đại học Quốc gia (ĐHQG) Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) cũng bắt đầu quá trình tự chủ đại học. Đến nay hầu hết các trường công trong khối Đại học Quốc gia và trong hệ thống trường công lập đã hoàn thành đề án tự chủ, được phê duyệt thực hiện đã nói lên sự phù hợp của việc chuyển đổi quản lý giáo dục đại học. Tuy nhiên như đã nói ở trên, dù có rất nhiều các trường chuyển đổi qua tự chủ nhưng không phải cán bộ giảng viên nào cũng nắm rõ nội dung của tự chủ. Tác giả đã thực hiện một khảo sát nhỏ đối với các trường có thí điểm tự chủ trước khi chuyển sang tự chủ chính thức và cả các trường thực hiện ngay đề án tự chủ không qua thí điểm. Kết quả tác giả nhận được hoàn toàn bất ngờ về những quan tâm cũng như kỳ vọng, thậm chí là sự hiểu biết của người được hỏi đối với quá trình tự chủ tại đơn vị mình. III. Kết quả khảo sát 1. Đặc điểm mẫu khảo sát Tác giả thực hiện khảo sát ngẫu nhiên tại 09 (chín) trường thuộc cả khối tự nhiên và khối xã hội với số lượng kết quả khảo sát thu về là 120 phiếu được phân bổ như sau: KHỐI Tần suất Tỷ lệ % Khối Khoa học tự nhiên 32 26.7 Khối khoa học xã hội 88 73.3 Tổng 120 100.0 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Khảo sát được thực hiện với người được hỏi là giảng viên, lãnh đạo phòng ban và lãnh đạo nhà trường ở mỗi đơn vị. Kết quả nhận được trong 120 người được hỏi có 66 người là Giảng viên, 52 người là lãnh đạo từ cấp phòng và bộ môn trở lên và 2 người là lãnh đạo trường. Điều này thực sự hoàn toàn rất dễ hiểu bởi tỷ lệ lãnh đạo trường luôn ít hơn các tỷ lệ khác và số lượng mỗi trường tác giả gửi phiếu khảo sát không nhiều nên từ đầu đã nói rõ về tỷ lệ khảo sát giữa giảng viên và lãnh đạo. Kết quả này tuy không hoàn toàn phản ánh được quan điểm của các nhà lãnh đạo nhưng hoàn toàn phù hợp với việc tìm hiểu quan điểm của người trả lời đảm bảo tính đa dạng và toàn diện. Trong số những người được hỏi, kết quả trình độ/ học hàm học vị được thống kê như sau: 392
- HỌC HÀM/ HỌC VỊ Tần suất Tỷ lệ % GS/PGS 17 14.2 Tiến sĩ 53 44.2 Khác 50 41.7 Tổng 120 100.0 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Từ số liệu khảo sát tác giả cũng thu được kết quả về số lượng người trả lời về thông tin nhà trường có tham gia đề án thí điểm tự chủ đại học trước khi chính thức tự chủ đại học hay không. Kết quả cho thấy như sau: ĐỀ ÁN THÍ ĐIỂM Tần suất Tỷ lệ % Có tham gia 94 78.3 Không tham gia 26 21.7 Tổng 120 100.0 2. K (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Điều bất ngờ là trong số phiếu được trả lời có những người ở cùng một trường nhưng lại đồng thời vừa trả lời có tham gia đề án thí điểm vừa đồng thời trả lời không tham gia đề án thí điểm. Đặc biệt theo tìm hiểu và thực tiễn tác giả khảo sát được thì có những trường trực tiếp xây dựng đề án tự chủ đại học không tham gia đề án thí điểm nhưng đại đa số người trả lời tại trường vẫn cho rằng trường có tham gia đề án thí điểm tự chủ đại học. Điều này phản ánh trên thực tế có rất nhiều người được hỏi là cán bộ giảng viên không hiểu thực tiễn trường có đang thực hiện kế hoạch tự chủ đại học hay không. Tác giả tiến hành thực hiện chỉnh sửa lại số liệu thì nhận được kết quả như sau: ĐỀ ÁN THÍ ĐIỂM Tần suất Tỷ lệ % Có tham gia 54 45.0 Không tham gia 66 55.0 Tổng 120 100.0 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Từ kết quả này dễ dàng nhận thấy số lượng những người được hỏi cho rằng trường có tham gia thí điểm tự chủ trả lời cao hơn số liệu thực tế. Điều này phản ánh việc quan tâm của cán bộ giảng viên đối với chính sách của trường còn thiếu, việc thực hiện các đề án của trường đôi khi dường như chỉ là việc của lãnh đạo và cán bộ cấp cao mà không phải là việc của đại đa số các cán bộ giảng viên khác. Điều này đặt ra câu hỏi tới hơn 30% số người được hỏi trả lời sai thông tin vậy thì việc thực hiện các chính sách của nhà trường liệu có được nghiêm túc và kế hoạch thực hiện tự chủ đại học ở nhà trường liệu có mang lại hiệu quả khả quan. Từ nhìn nhận này tác giả tiếp tục thực hiện khảo sát sâu hơn về các nội dung liên quan đến nhìn nhận và đánh giá của 393
- cán bộ giảng viên đối với các vấn đề liên quan đến tự chủ đại học tại đơn vị. Gồm có các vấn đề liên quan đến quản lý bộ máy và vai trò của hội đồng trường; hoạt động tuyển dụng - quản lý và duy trì; hoạt động tài chính và học thuật. Tác giả chia ra 02 nhóm có tham gia đề án thí điểm và không tham gia đề án thí điểm tự chủ đại học. Tác giả tiến hành để người được hỏi trả lời những câu hỏi có nội dung như nhau, một bên là trả lời về kỳ vọng và một bên trả lời về thực tiễn sau thí điểm. Sau đó tác giả tiếp tục sử dụng SPSS 20 để chạy kết quả khảo sát, kết quả thu được trình bày như các phần dưới đây. 2. Hoạt động bộ máy quản lý và vai trò của hội đồng trường Thực hiện chạy số liệu đối với các trường có tham gia thí điểm kết quả thu được như sau: Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCBM1 54 1 5 4.07 TCBM2 54 2 5 4.04 TCBM3 54 2 5 4.13 TCBM4 54 1 5 3.93 Giá trị số lượng hợp lệ 54 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Khi thực hiện chạy tương tự với các trường không tham gia thí điểm tự chủ đại học kết quả thu được như sau: Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCBM1 66 1 5 3.33 TCBM2 66 1 5 3.44 TCBM3 66 1 5 3.48 TCBM4 66 1 5 2.95 Giá trị số lượng hợp lệ 66 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Nhìn vào kết quả dễ dàng nhìn thấy được đối với các trường chưa tham gia đề án thí điểm tự chủ đại học người trả lời không quá có niềm tin vào bộ máy tổ chức quản lý và nghi ngờ vai trò của hội đồng trường. Với tiêu chí TCBM1 là tiêu chí khảo sát về việc kỳ vọng thành lập các đơn vị/ công ty trực thuộc trường thì các trường chưa tự chủ cho rằng chỉ đồng thuận ở mức bình quân 3,33 và mức trả lời di động từ 1 đến 5 trong khi các trường đã từng thí điểm có mức tin tưởng cao hơn lên tới 4,07 mặc dù mức trả lời cũng di động từ 1 đến 5. Điều này cho thấy đối với việc phát triển các đơn vị trực thuộc hay nói cách khác là việc tự quyết định thành lập các đơn vị tăng nguồn thu cho nhà trường thì cán bộ giảng viên còn có sự nghi ngờ nhất định, chưa tin tưởng hoàn toàn các đơn vị này sẽ được thành lập. Tương tự đối với các tiêu chí TCBM2 (thành lập các khoa viện/ bộ môn đào tạo của trường) và TCBM3 (Thành lập các đơn vị khối hành chính của trường) cũng có kết quả tương tự. Các chỉ số bình quân Mean 394
- của khối các trường đã tham gia tự chủ cao hơn của các trường chưa tham gia tự chủ. Điều này thể hiện sự nghi ngờ của khối cán bộ giảng viên của các trường chưa từng trải nghiệm đề án này, cán bộ giảng viên có chăng sẽ nghi ngờ việc tự chủ có thực sự được giao quyền hay không, có quyết định được các việc liên quan đến trường hay không. Cùng trong khảo sát này tác giả khảo sát mức độ nhìn nhận, đánh giá của cán bộ giảng viên về vai trò/ mức độ ảnh hưởng của Hội đồng Trường đến các quyết định của nhà trường TCBM4. Kết quả cho thấy tại các trường chưa từng tham gia thí điểm chỉ số bình quân là 2,95 với mức lựa chọn là từ 1 đến 5 theo thang đo Likert 5 điểm, trong khi đó tại các trường đã từng thí điểm tự chủ thì mức chỉ số bình quân lên đến 3,93 mặc dù mức lựa chọn cũng từ 1 đến 5. việc lệch nhau tới hơn 1 điểm bình quân thể hiện sự nhìn nhận của cán bộ giảng viên đối với vai trò Hội đồng Trường. Đối với các trường chưa thí điểm, vai trò của Hội đồng trường rất mơ hồ, cán bộ giảng viên chưa hình dung được Hội đồng Trường - bao gồm cả khối Nhà nước và Doanh nghiệp sẽ tác động ảnh hưởng thế nào đến các quyết định chính sách của Nhà trường. Nhưng ngược lại đối với các Trường đã tham gia tự chủ thì họ đã nhìn thấy được vai trò này, nhưng chỉ số 3,93 không phải là mức bình quân lớn, do đó có thể thấy vai trò của các thành viên Hội đồng Trường đang còn rất mờ nhạt và chưa rõ ràng. 3. Hoạt động tuyển dụng và tài chính Nói đến tuyển dụng và tài chính người ta sẽ nghĩ ngay đến quản lý nhân sự và chính sách thu chi, chính sách khen thưởng của đơn vị. Trong khuôn khổ của bài viết này tác giả đề cập đến mức độ tự chủ về tuyển dụng của nhà trường, cơ chế thu nhập của cán bộ giảng viên và mức độ tự chủ của nhà trường trong tuyển sinh và xây dựng, mở rộng các chương trình đào tạo. Trước hết nói đến tự chủ về quản lý tuyển dụng và chính sách khen thưởng, thu nhập của cán bộ giảng viên; tác giả lần lượt thu được kết quả khảo sát cho hai nhóm có tham gia thí điểm tự chủ: NHÓM THÍ ĐIỂM Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCNS1 54 2 5 4.31 TCNS2 54 2 5 4.31 TCNS3 54 2 5 4.20 TCNS4 54 2 5 4.19 Giá trị số lượng hợp lệ 54 và nhóm không tham gia thí điểm tự chủ như sau: NHÓM KHÔNG THÍ ĐIỂM Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCNS1 66 1 5 3.47 TCNS2 66 1 5 3.48 TCNS3 66 1 5 3.59 TCNS4 66 1 5 3.44 Giá trị số lượng hợp lệ 66 (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) 395
- Nhìn vào kết quả khảo sát thấy mức lựa chọn thấp nhất theo thang Likert 5 điểm của nhóm có tham gia thí điểm tự chủ là 2 trong khi nhóm còn lại là 1 và mức chỉ số bình quân của nhóm không tham gia thí điểm tự chủ thấp hơn nhóm còn lại tới gần 1 điểm. Điều này lại một lần nữa khẳng định quan điểm của cán bộ giảng viên của khối các trường chưa tham gia thí điểm đại học đó là có niềm tin thấp đối với chủ trương tự chủ đại học. Quan điểm đối với mức độ tự chủ trong tuyển dụng giảng viên TCNS1 hay chuyên viên TCNS2 đều thấp hơn 4, và càng có niềm tin thấp hơn đối với thu nhập tiền lương TCNS4 hay khen thưởng thăng tiến TCNS3. Điều này thể hiện sự không tin tưởng và tâm lý mất an toàn của cán bộ giảng viên đối với chính sách của Nhà trường, đây cũng là một sự khó khăn đối với các trường mới tham gia tự chủ. Bên cạnh đó tác giả cũng tiến hành một khảo sát nhỏ đối với nhìn nhận về mức độ tự chủ tài chính đối với các trường đại học. Kết quả cho thấy đối với các trường đã thí điểm số liệu hoàn toàn khả quan hơn là các trường không tham gia đề án này. Số liệu được minh họa như dưới đây: NHÓM THAM GIA ĐỀ ÁN THÍ ĐIỂM Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCTC1 54 1 5 3.85 TCTC2 54 1 5 3.93 TCTC3 54 1 5 3.59 TCTC4 54 1 5 3.56 TCTC5 54 1 5 3.96 Giá trị số lượng hợp 54 lệ Và số liệu nhóm không tham gia đề án thí điểm: NHÓM KHÔNG THAM GIA ĐỀ ÁN THÍ ĐIỂM Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCTC1 66 1 5 3.11 TCTC2 66 1 5 3.38 TCTC3 66 1 5 3.05 TCTC4 66 1 5 2.95 TCTC5 66 1 5 3.23 Giá trị số lượng hợp 66 lệ (Nguồn: Từ kết quả khảo sát) Mặc dù toàn bộ các chỉ số đều thể hiện ở mức dưới 4 nhưng điểm này hoàn toàn có thể lý giải hợp lý. Đối với các trường đã thí điểm tự chủ thì đây là một kết quả đã thông qua kiểm tra, thử nghiệm nhưng đối với các trường bây giờ với tự chủ, cán bộ giảng viên hoàn toàn không thể lạc quan về vấn đề tài chính, nhất là khi mất đi một nguồn hỗ trợ rất lớn từ cơ quan chủ quản mặc dù thay vào đó là được tự vận hàn, tự thu tự chi, tự tìm cách nâng cao nguồn thu. Nói cách khác cán bộ giảng viên bắt đầu lo 396
- lắng về phần ngân sách nhà nước được cấp TCTC1, không rõ về cách phân bổ lại thu nhập kết dư cuối năm TCTC2 và thiếu tin tưởng vào khả năng tiếp cận tín dụng của nhà trường TCC3 cũng như quyền sử dụng tài sản công TCC4 khi không còn nguồn vốn đối ứng và quỹ từ cơ quan chủ quản cung cấp. Trong các chỉ số thì TCTC5 mức độ tự chủ xác định học phí là cao nhất trong các kết quả khảo sát về tài chính. Điều này phản ánh cán bộ giảng viên tin tưởng rằng học phí là do trường quy định. Khảo sát về tài chính mang đến kết quả cho thấy sự bị động của đại đa số cán bộ giảng viên về việc không nắm rõ các thông tin tài chính, kết quả tài chính là cái cán bộ giảng viên được biết đến cuối cùng sau khi mọi việc đã hoàn tất, chính bởi vậy thiếu niềm tin và kèm theo đó là sự bàng quan, không quan tâm. 4. Hoạt động tự chủ học thuật Đây có thể coi là hoạt động duy nhất chỉ thuộc về trường và chỉ trường với quyết định được. Nhưng kết quả khảo sát mang lại thực sự bất ngờ. Chỉ có cán bộ giảng viên thuộc trường đã tham gia đề án thí điểm với có cái nhìn lạc quan về tự chủ học thuật như số lượng tuyển sinh TCHT1, phương án tuyển sinh TCHT2, mở chương trình mới TCHT3 và xây dựng chương trình đào tạo TCHT4. Từ thực tiễn nhìn lại có thể thấy được hầu hết các trường đã thí điểm tự chủ đều có bước chuyển mình ngoạn mục, số lượng ngành tăng kéo theo số lượng sinh viên tăng, chất lượng nghiên cứu khoa học cũng tăng với số lượng nghiên cứu quốc tế chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó cán bộ giảng viên khối các trường chưa thí điểm tự chủ lại lo ngại về số lượng tuyển sinh tụt giảm, phương án tuyển sinh không đủ tính cạnh tranh với các trường đi trước hay đơn giản là việc chậm chân mở ngành đã làm lỡ mất thời cơ tuyển sinh ngành mới,… Tất cả những điều đó làm cho cách nhìn nhận của hai nhóm cán bộ giảng viên mang đến những điểm khác biệt tương đối. Kết quả về số liệu khảo sát dưới đây diễn tả rõ hơn về nhìn nhận đánh giá của cán bộ giảng viên thuộc hai nhóm trường này. TỰ CHỦ HỌC THUẬT NHÓM ĐỀ ÁN THÍ ĐIỂM Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCHT1 54 1 5 3.94 TCHT2 54 3 5 4.07 TCHT3 54 2 5 4.15 TCHT4 54 2 5 4.31 Giá trị số lượng hợp 54 lệ Và nhóm không tham gia đề án thí điểm Số lượng Nhỏ nhất Lớn nhất Bình quân TCHT1 66 1 5 3.20 TCHT2 66 1 5 3.47 TCHT3 66 1 5 3.56 TCHT4 66 1 5 3.79 Giá trị số lượng hợp lệ 66 397
- IV. Kết luận và khuyến nghị Từ những kết quả khảo sát trên đây mặc dù số lượng khảo sát không đại diện cho toàn bộ các cán bộ giảng viên, các trường đại học trên mọi miền Tổ quốc nhưng cũng đã phản ánh phần nào những khó khăn, bỡ ngỡ của các trường khi thực hiện chủ trương tự chủ đại học. Qua góc nhìn của các cán bộ giảng viên cũng có thể thấy được mặc dù có nhiều lạc quan, nhiều chính sách hỗ trợ nhưng các Thầy Cô và nhà quản lý, lãnh đạo nhà trường còn rất nhiều khó khăn khi thực hiện đề án tự chủ. Từ việc phải xây dựng hoàn thiện đề án tự chủ đến việc triển khai thực hiện thành công trong thực tiễn là một khoảng cách rất xa, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng và chung tay của hầu hết các cán bộ quản lý lãnh đạo và giảng viên, thậm chí là sinh viên của các trường. Với mong muốn đề án tự chủ sẽ thực sự mang lại hiệu quả, giảm bớt các khó khăn cho các trường và đẩy nhanh quá trình tiếp nhận đề án của cán bộ giảng viên, thông qua kết quả khảo sát tác giả có một số khuyến nghị như sau: - Thứ nhất đối với đề án tự chủ: đề nghị các trường nên lấy ý kiến của cán bộ giảng viên khi xây dựng đề án, đặc biệt là các quyền lợi và trách nhiệm liên quan đến giảng viên; tuyên truyền để giảng viên hiểu rõ thế nào là tự chủ, thế nào là thí điểm tự chủ và các khung chính sách pháp luật liên quan đến tự chủ đại học. Từ đó giảng viên hiểu được đề án và tìm hiểu áp dụng để quá trình thực hiện được thuận lợi hơn. - Thứ hai đối với tổ chức quản lý bộ máy tự chủ nên được quy định một cách chi tiết cụ thể hơn, ban hành các quy trình rõ ràng liên quan đến từng tiêu chí để cán bộ giảng viên hiểu rõ về chức năng quyền lực của bộ máy quản lý, từ đó có niềm tin hơn đối với bộ máy quản lý. Bên cạnh đó vai trò của Hội đồng Trường đang còn rất mờ nhạt, cần có những quy định chi tiết cụ thể về số lượng, chức năng nhiệm vụ và vị trí của các thành viên trong Hội đồng Trường để từ đó cán bộ giảng viên hiểu rõ hơn về vai trò của các thành viên Hội đồng. Qua đó cũng làm cho các thành viên Hội đồng Trường có trách nhiệm hơn với hoạt động quản lý của nhà trường, đưa ra những quyết sách có tác động đến sự phát triển bền vững của nhà trường. - Thứ ba đối với hoạt động tuyển dụng và tài chính: nhà trường nên công khai kế hoạch tuyển dụng từ đầu năm và các kế hoạch cũng như các định mức tài chính hàng năm để cán bộ giảng viên có thể nắm rõ được mức thu chi như thế nào là hợp lý, đảm bảo thu nhập và phúc lợi cho họ. Việc đảm bảo khen thưởng và trả lương cũng như những mô tả chi tiết về vị trí thăng hạng là rất quan trọng với cán bộ giảng viên, là động lực để thu hút và giữ chân người lao động đồng thời cũng giúp chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường được tăng lên, giúp môi trường giáo dục đại học ngày càng phát triển. - Thứ tư đối với tự chủ học thuật: việc nâng cao năng lực cạnh tranh của trường học cần phải thông qua các kiểm định chuẩn quốc tế để không chỉ nâng cao lợi thế cạnh tranh trong nước mà còn trên trường quốc tế. Việc đáp ứng các chuẩn quốc tế không chỉ giúp các trường thăng hạng còn giúp thu hút lượng lớn sinh viên quốc tế, mở rộng các chương trình liên kết quốc tế với các trường nước ngoài, sinh viên có nhiều cơ hội để tốt nghiệp nhiều trường quốc tế tại Việt Nam. Do đó việc đẩy mạnh tự chủ học thuật phải đòi hỏi cán bộ giảng viên phải cố gắng nỗ lực tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ chuyên môn và đặc biệt là trình độ ngoại ngữ để có thể nhanh chóng phù hợp với sự phát triển của các chương trình học thuật. Trên đây là một số những kết quả khảo sát và quan điểm của tác giả khi tìm hiểu, nghiên cứu về tự chủ đại học trong thời điểm hiện nay. Có thể không phải là cái 398
- nhìn mang tính tổng quát đại diện nhưng là một phần thực trạng đang tồn tại, phản ánh dưới góc nhìn của cán bộ giảng viên các trường đang tham gia đề án tự chủ đại học theo chủ trương của Nhà nước và tinh thần của Luật giáo dục. Tác giả hy vọng những khuyến nghị sẽ góp phần giải quyết một số những vướng mắc đối với các trường đang bước đầu tham gia quá trình tự chủ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học theo Thông tư số 04/2016/TT- BGDĐT. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Thông tư số 07/2017/TT-BGDĐT về quy định về liên kết đào tạo trình độ Đại học 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT về quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT về ban hành quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT về ban hành quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ Đại học. 6. Bộ giáo dục và Đào tạo: Thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT về ban hành quy định về danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ Đại học 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Công văn số 1669/QLCL-KĐCLGD ngày 31/12/2019 của Cục Quản lý chất lượng, thay thế Tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng CTĐT các trình độ của GDĐH ban hành kèm theo Công văn số 769/QLCL- KĐCLGD ngày 20/4/2018. 8. Nghị định số 73/2015/NĐ-CP về quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học. 9. Nghị định số 86/2018/NĐ-CP quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục 10. Nghị định số 99/2019/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học 11. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. 12. Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. 13. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012): Luật số 08/2012/QH13 - Luật Giáo dục Đại học 14. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018): Luật số 34/2018/QH14 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học 15. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam: Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020. 399
- 16. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam: Quyết định số 69/2019/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019-2025. 17. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam: Quyết định số 89/2019/QĐ-TTg về phê duyệt đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030 18. Và các website: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Luat-Giao-duc-dai-hoc-2012- 142762.aspx https://moet.gov.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=5654 https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/thanh-cong-va-thach-thuc-mo-hinh-tu-chu-dai- hoc-20200629153820263.html https://www.epu.edu.vn/trang/thong-tin-khai-quat-2127.html http://daubao.com/nhieu-vuong-mac-trong-thuc-hien-quyen-tu-chu-cua-cac- truong-dai-hoc/xa-hoi/1538562.html https://giaoduc.net.vn/tin-hiep-hoi/nhung-con-so-biet-noi-ve-ket-qua-thuc-hien-tu- chu-cua-dai-hoc-ton-duc-thang-post212008.gd https://hunre.edu.vn/co-cau-to-chuc.html http://apd.edu.vn/tin-tu-hoc-vien/- /asset_publisher/kas0boHG03DG/content/id/762195 https://tmu.edu.vn/vi/news/Quan-ly-Nhan-su-Tuyen-dung/le-cong-bo-va-trao- quyet-dinh-bo-nhiem-chuc-vu-chu-tich-hoi-dong-truong-nhiem-ky-2016-2021- 1547.html https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/tu-chu-dai-hoc-va-trach-nhiem-giai-trinh- VfSp6UIGg.html 400
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những ưu điểm và hạn chế của công tác quản lí hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của giảng viên một số trường đại học sư phạm - Nguyễn Vĩnh Khương
6 p | 173 | 28
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị): Phần 2
151 p | 60 | 25
-
Giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức không thể thiếu trong giáo dục đại học
9 p | 126 | 15
-
Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục và những tồn tại chủ yếu của 17 cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập
11 p | 74 | 7
-
Nâng cao hiệu quả hoạt động cố vấn học tập tại trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên
5 p | 102 | 6
-
Hoạt động ngoại khóa của sinh viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội
7 p | 90 | 6
-
Tự chủ giáo dục đại học - Từ chính sách đến thực tế: Tiếp cận phân tích dựa trên quan niệm hệ thống đại học và lý thuyết giáo dục
13 p | 35 | 4
-
Nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên, vận động viên trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh trong giai đoạn mới
3 p | 49 | 4
-
Tự do học thuật trong các trường đại học ở Mỹ và Nhật Bản: Một vài gợi ý cho Việt Nam
8 p | 69 | 4
-
Tư tưởng phát triển con người – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
11 p | 68 | 3
-
Những rào cản trong tiến trình thực hiện tự chủ đại học ở nước ta hiện nay
10 p | 6 | 3
-
Thực trạng hoạt động giảng dạy tại trường Đại học Y dược Hải Phòng theo định hướng tự chủ học thuật
6 p | 77 | 2
-
Mô hình đánh giá chương trình đào tạo đại học
6 p | 34 | 2
-
Nữ viên chức Đại học Thái Nguyên, giỏi việc nước, đảm việc nhà
6 p | 63 | 2
-
Thiết kế kế hoạch bài dạy STEM chủ đề “Tương tác từ” trong dạy học kiến thức “Từ trường” (Vật lí 12) nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh
5 p | 6 | 2
-
Thực trạng đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam và thế giới, cơ hội và thách thức trong bối cảnh tự chủ
9 p | 10 | 1
-
Hồ Chí Minh - Giáo sư đại học
2 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn