intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay" đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam trong xã hội chủ nghĩa và vận dụng những tư tưởng đó trong cuộc cách mạng lần thứ tư ở nước ta hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Duy Quý Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Nguyễn Duy Quý, email: ndquy@ued.udn.vn Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt cõi đời, Người luôn coi các vấn đề về con người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, trách nhiệm vẻ vang trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là động lực phát triển của lịch sử, con người sinh ra trong xã hội, chịu sự tác động của xã hội. Vì lẽ đó, trong quá trình kiến tạo xã hội mới - xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, theo quan điểm của Người trước hết cần tích cực, chủ động xây dựng những con người mới cho xã hội đó. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong giai đoạn hiện nay góp phần đảm bảo thành công cho quá trình xây dựng và phát triển con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bài viết đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam trong xã hội chủ nghĩa và vận dụng những tư tưởng đó trong cuộc cách mạng lần thứ tư ở nước ta hiện nay. Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; con người; xã hội chủ nghĩa; cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 1. VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Con người xã hội chủ nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến một cách phong phú và sâu sắc xuyên suốt trong tư tưởng và hành động của Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có con người mới xã hội chủ nghĩa cần gải quyết hai vấn đề cơ bản: Một là, những con người được giác ngộ lý tưởng cách mạng, được tạo điều kiện phát triển toàn diện, gắn với sự nghiệp cách mạng để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hai là, chiến lược xây dựng con người con người mới xã hội chủ nghĩa. Vị trí, vai trò của của con người trong xã hội mới ở nước ta Người cho rằng: 390
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” (Hồ, 2011a, 12). Để có con người mới xã hội chủ nghĩa nhất thiết cần có chiến lược phát triển con người lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức vẻ vang và tự hào là một nhà giáo dục Người nhấn mạnh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (Hồ, 2011a, 26). Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình lâu dài, tổng hợp của nhiều nhiệm vụ, giai đoạn khác nhau, do nhân dân xây dựng. Do đó, “trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là bồi dưỡng thế hệ mai sau, đào tạo họ trở thành những người kế thừa và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đó là những người vừa có đức, vừa phải có tài, vừa hồng vừa chuyên. Biểu hiện cụ thể của những phẩm chất này bao gồm: Con người mới xã hội chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là con người có lý tưởng sống cao đẹp, thấm nhuần đạo đức cách mạng, với các chuẩn mực đạo đức cơ bản: “Trung với nước, hiếu với dân” (Hồ, 2011a, 27). Đây là phẩm chất đạo đức quan trọng của người cách mạng, đó là đạo đức làm người, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Ngày nay, khi nước nhà giành được độc lập, trung với nước là biểu hiện trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với con đường dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ, 2011c, 453). Do đó, con người trong xã hội mới phải luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trước nhân dân, phải biết chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Bên cạnh đó, Người thường xuyên nhấn mạnh tới nhiệm vụ giáo dục lý tưởng, giáo dục đạo đức: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” (Hồ, 2011a, 26) và nhấn mạnh rằng: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” (Hồ, 2011a, 26). Đây là khái niệm cũ của đạo đức phương Đông được Hồ Chí Minh tiếp thu và diễn đạt lại bằng một ý nghĩa mới, phù hợp với hoàn cảnh mới trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Qua thực tiễn hoạt động, Người hiểu rõ cách mạng là sự nghiệp gian khổ, lâu dài, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh tàn 391
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phá nặng nề, do đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi ở mỗi người, đặc biệt là những người cán bộ phải biết cần cù, siêng năng, chăm chỉ, biết tiết kiệm tiền bạc, của cải, thời gian, trong sạch, không tham lam. Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh người cách mạng không thể thiếu tinh thần: “Yêu thương con người, có tình cảm quốc tế trong sáng” (Hồ, 2011a, 27). Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh mỗi người cần không ngừng cố gắng để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người khác và toàn thể xã hội. Những việc làm đó không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia dân tộc mà cần mở rộng ra toàn thế giới. Mặt khác, con người cũng cần đấu tranh chống lại kẻ thù chung của nhân loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, chiến tranh, mang lại hòa bình trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là đạo đức hành động và Người không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để học tập mà còn là một tấm gương, một kiểu mẫu về thực hành đạo đức cách mạng, về sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Những yêu cầu đạo đức mà Người nêu ra cho cán bộ, đảng viên nay đã trở thành hệ chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam mới. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng xuất phát từ chính ý nghĩa văn hóa, đạo đức hết sức nhân văn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con người mới xã hội chủ nghĩa phải là những người có trình độ văn hóa, có chuyên môn, năng lực thực sự trong công việc. Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú trọng đến phát triển giáo dục, đào tạo, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu. Sau khi giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay, trong đó có 2 nhiệm vụ liên quan đến giáo dục. Người nhấn mạnh rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (Hồ, 2011a, 26). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự dốt nát cũng là kẻ địch phải chống. Người chủ trương phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, mới tiến kịp được sự phát triển chung của nhân loại. Xác định rõ học tập để làm việc, làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại. Do đó, mỗi người cần phải không ngừng học tập để nâng cao tri thức và trình độ chuyên môn của bản thân. Có như vậy họ mới mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân, xã hội, tham gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Như vậy con 392
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” người trong chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải vừa có “đức”, vừa có “tài”, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Để hình thành lên những con người như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng việc “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (Hồ, 2011a, 26). Với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “Dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” (Hồ, 2011a, 26), theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những con người có đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống. Ngày nay, có thể nhận thấy những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam trong xã hội mới vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa lớn trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trên toàn thế giới. 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh, tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có 03 đặc trưng nổi trội gắn với những đột phá công nghệ trong 03 thế giới: “Thứ nhất, những tiến bộ căn bản trong thế giới thực (vật lý) với sự phát triển của các thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, rô-bốt hiện đại và các dạng vật liệu mới. Thứ hai, nhân loại đạt được những bước tiến vượt bậc về thế giới số (ảo) làm tăng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ phát triển của Internet of Things - IoT (Mọi vật kết nối) và sự ra đời của các cảm biến hiện đại. Thứ ba, những đột phá về thế giới sinh vật với việc xây dựng biểu đồ gen tiết kiệm rất nhiều nguồn lực tài chính và thời gian so với trước” (Nguyễn, 2017, 405-415). Dưới tác động của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, những thách thức đặt ra đối với đời sống xã hội ngày càng lớn. Những yêu cầu về nguồn nhân lực đối với từng ngành, từng lĩnh vực đang thay đổi theo hướng ngày càng coi trọng năng lực tự làm việc của người lao động. Với những đột phá khoa học này cho phép con 393
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG người ứng dụng những công nghệ mới: dây chuyền sản xuất tự động, chuỗi cung ứng thông minh, thành phố thông minh. Điều đó, làm tăng tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, chất lượng quản trị, mở ra những cơ hội mới trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và chuyển dịch thị trường lao động. Theo chủ tịch WEF ASEAN Klaus Schwab: “Những ai muốn thành công trong tương lai cần tận dụng lợi thế đến từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đầu tiên, họ cần nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của sự chuyển mình này. Sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Khi đó, một thế giới chạy bằng rô-bốt, máy tính và trí tuệ nhân tạo sẽ phát triển tới mức thay thế con người trong việc phán đoán và quản lý các hệ thống phức tạp” (Trần, 2017, 22). Bên cạnh đó, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm cho sự kết nối giữa con người và máy móc trở nên chặt chẽ, máy móc sẽ trở nên thông minh hơn dẫn đến mối quan hệ giữa con người và máy móc trở thành mối quan hệ cộng tác chứ không đơn thuần là sự điều khiển. Sự cộng tác dựa trên nền tảng công nghệ thông tin được gọi là internet kết nối vạn vật (IoT). Khái niệm làm việc từ xa đang ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội và văn hóa của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngành giáo dục và đào tạo là ngành có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực thông qua hoạt động đào tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng, thái độ của người lao động. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều yêu cầu đối với nguồn nhân lực, đòi hỏi nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam cần xây dựng các chính sách giáo dục và đào tạo phù hợp ứng phó với các xu thế phát triển nhanh trong giai đoạn hiện nay. Yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với nguồn nhân lực Đặc trưng của cách mạng STT Những yêu cầu đối với nguồn nhân lực công nghiệp 4.0 1 - Khả năng kết nối giữa con - Am hiểu công nghệ thông tin (IoT); người và máy móc dựa trên nền - Kỹ năng hiểu và sử dụng thành thạo, tảng công nghệ thông tin (IoT). chính xác công nghệ; - Thái độ làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ luật cao. 394
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2 - Quá trình sản xuất, vận hành - Hiểu biết về công nghệ và các hệ phần thông qua hệ thống ảo và thế mềm, cơ chế hoạt động của hệ thống ảo; giới thực có mức độ kết nối tự - Có khả năng sử dụng thành thạo các động cao. ứng dụng trên internet và hệ thống kết nối dữ liệu lớn; - Thái độ tuân thủ, nhạy bén với sự biến đổi về môi trường, tư duy sáng tạo. 3 - Nguyên tắc kiểm soát được - Hiểu về cơ chế vận hành của hệ thống phân cấp ở mức độ cao, các kiểm soát và phân cấp trong quá trình quyết định đưa ra nhanh chóng ra quyết định; và chính xác. - Có khả năng sử dụng các phần mềm ra quyết định; - Có khả năng đưa ra quyết định độc lập với sự hỗ trợ của các phầm mềm phân tích dữ liệu. 4 - Thời gian để một sản phẩm mới - Am hiểu về sản phẩm trong môi trường ra đời ngắn hơn, chi phí thấp. kinh doanh có sự bến động mạnh. 5 - Mức độ cung cấp dịch vụ qua - Am hiểu công nghệ thông tin, sử dụng internet, thiết bị thông minh thành thạo thiết bị thông minh; được sử dụng rộng rãi, linh - Sử dụng thành thạo ngoại ngữ, ứng hoạt để thỏa mãn nhu cầu của dụng công nghệ thông tin nhằm làm việc người tiêu dung. nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả. - Thái độ linh hoạt, thân thiện với khách hàng. Nguồn: Trần, 2017. Nguồn nhân lực luôn được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của mọi tổ chức, quốc gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác trong hệ thống các nguồn lực. Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu, tất cả các nước đều coi nguồn nhân lực là công cụ quan trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đang có lợi thế với lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Chỉ số Vốn con người (Human Capital Index - HCI) 2020 của Việt Nam tiếp tục tăng và cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù 395
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Cụ thể, theo báo cáo mới đây, từ năm 2010 đến năm 2020, Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69 (Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng cao, 2020). Bên cạnh đó, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tỷ lệ người dân biết chữ tăng cao đạt trên 95% dân số, Việt Nam đã hoàn thành 3/8 Mục tiêu thiên niên kỷ trước thời hạn, trong đó có mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Trong những năm qua với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam tiếp tục được cải thiện theo hướng tích cực. Theo đó: “Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới của Liên hợp quốc (WIPO) công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020. Theo đó, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42 trong bảng xếp hạng. Cụ thể, Việt Nam xếp thứ 42 trên 131 quốc gia và nền kinh tế, còn năm 2019 đứng thứ 42/129. Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số một trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á” (Thảo Lê, 2020). Tuy nhiên, hiện nay các chỉ số giáo dục của Việt Nam vẫn được đánh giá là chậm chuyển biến, nặng về lý thuyết, chưa coi trọng đào tạo kỹ năng lao động, cơ sở vật chất còn lạc hậu. Theo báo cáo đánh giá năm 2020 của Ngân hàng thế giới, chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam đứng thứ 38 trên 174 nền kinh tế (moet.gov.vn, 2021). Dẫn đến thực tế hiện nay nguồn nhân lực nước ta còn yếu về chất lượng: thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn, lao động thiếu năng động và sáng tạo, tác phong chuyên nghiệp. Từ những thực tế nói trên Việt Nam cần phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện để ứng phó với cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Trong thời gian tới, năng lực làm việc, kỹ năng sử dụng công nghệ thông minh của đội ngũ lao động sẽ là trụ cột của nền kinh tế. Nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có tay nghề cao, có năng lực sáng tạo, khả năng ngoại ngữ, tin học sẽ ngày càng tăng. Điều này đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo cần đổi mới chính sách hợp lý nhằm tận dụng cơ hội vượt qua thách thức mà cuộc cách mạng này mang lại. 396
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Trong bối cảnh hiện nay, con người buộc phải thay đổi tư duy để tồn tại, phát triển, cần liên tục cập nhật kiến thức mới, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành yếu tố then chốt trọng cuộc cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới. Dựa trên tư trưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, chúng ta cần làm tốt các vấn đề sau: Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất toàn cầu. Làn sóng công nghệ mới đang diễn ra với tốc độ khác nhau dựa trên trình độ phát triển của từng quốc gia dân tộc, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, yêu cầu dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất. Nhận thức rõ nguồn nhân lực chất lượng cao chính là điểm mấu chốt để phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra những chiến lược lâu dài trong việc phát triển con người. Đại hội IX Đảng đã xác định rõ việc phát triển con người Việt Nam cần đi theo hướng toàn diện: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2003, 114). Nhằm cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo nói trên, cần thay đổi mạnh mẽ các chính sach, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông. 397
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ hai, xây dựng hệ giá trị chuẩn cho con người Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngoài việc đem đến những cơ hội cho các quốc gia dân tộc, nó còn mang đến nhiều thách thức. Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, hình thành nên những chuỗi cung ứng, nhà máy thông minh, nơi máy móc thay thế con người nhiều công việc. Ngày nay, người lao động đứng trước nguy cơ mất việc rất cao, một số ngành nghề sẽ bị thay thế, biến mất, con người cần có năng lực để tiếp tục gắn bó với quá trình lao động sản xuất. Trong thời gian tới, sẽ có nhiều ngành nghề mới xuất hiện, đòi hỏi con người cần có những năng lực và phẩm chất phù hợp. Thực tế cho thấy: “Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam là 51 triệu, trong đó số lao động đã qua đào tạo chiếm 26%. Bên cạnh đó, lao động nước ta chưa đáp ứng tốt các kỹ năng mềm như: ngoại ngữ, tin học, làm việc nhóm, tinh thần kỷ luật trong lao động” (Tổng cục Thống kê, 2021). Với trình độ lực lượng lao động thấp như hiện tại là một thách thức lớn trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta. Đứng trước thực trạng nói trên, yêu cầu bức thiết hiện nay đối với thị trường lao động ở nước ta là xây dựng hệ giá trị chuẩn cho người lao động, từ đó làm cơ sở để xây dựng con người Việt Nam thời kỳ mới, trên tinh thần: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 110). Bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi người lao động cần có năng lực cá nhân tốt, khả năng làm việc sáng tạo, linh hoạt, cùng với khả năng hợp tác, đoàn kết, làm việc có kỷ luật và cống hiến vì tập thể. Để có năng lực cá nhân tốt, khả năng làm việc sáng tạo, thích ứng linh hoạt thì việc bồi dưỡng, nâng cao tri thức cho thế hệ trẻ là điều hết sức quan trọng. Đảng và Nhà nước cần có những quyết sách để phát triển con người Việt Nam có kiến thức khoa học, kỹ thuật phổ thông cùng lịch sử, văn hóa dân tộc theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” (Hồ, 2011b, 140). Muốn vậy, phải xác định rõ mục tiêu đào tạo đối với từng cấp học, bậc học, trên cơ sở đó, phân luồng, định hướng nghề nghiệp cho học sinh theo nhu cầu nhân lực của xã hội và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong 398
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tương lai. Cùng với đó, đổi mới cách dạy, cách học theo hướng tiếp cận năng lực, tăng cường quản lý quá trình giáo dục và đào tạo theo tiếp cận năng lực, thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá trong giáo dục. Để phát triển khả năng hợp tác, đoàn kết có kỷ luật và cống hiến vì tập thể, chúng ta cần khơi dậy tinh thần dân tộc của chính mỗi con người Việt Nam. Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nhất quán và xuyên suốt tiến tình cách mạng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” (Hồ, 2011f, 628). Đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung. Thứ ba, cùng với việc coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần đặt ra yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ Đây là hai trụ cột, đồng thời là động lực mới cho sự phát triển đất nước. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ cũng phải thật sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về hệ thống tổ chức các cơ quan khoa học, cơ chế đầu tư, cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ; nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, coi đây là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp phát triển quốc gia và là nhân tố giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ tư, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam đặc biệt quan tâm tới việc tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực, trong đó tập trung ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo đạt trình độ quốc tế và đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhóm nhân lực trình độ cao trong các ngành trọng điểm đạt trình độ của các nước tiên tiến. Nghiên cứu mô hình và kinh nghiệm đào tạo phát triển nhân lực trình độ cao thành công của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc… Tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo, các cơ sở sử dụng lao động và nhân lực trình độ cao tham gia giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ký kết hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Việt Nam với các nước tiên tiến trong việc đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. 399
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ năm, coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài phải gắn với phát triển xã hội học tập. Cụ thể, tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài, phải vừa khai thác được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế tạo, ứng dụng thành quả nghiên cứu vào hoạt động sản xuất, vừa khuyến khích họ tranh thủ học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phương châm học tập suốt đời phải làm cho mỗi lao động thấu hiểu, tự giác, chủ động học tập, tạo điều kiện cho người lao động học tập, bồi dưỡng thường xuyên. Đồng thời, thông qua các hình thức đào tạo không chính quy, tạo điều kiện để người lao động giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức và kỹ thuật công nghệ mới ở các trung tâm đào tạo trong nước và trên thế giới. 4. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam trong xã hội mới đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đứng trước những cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với việc học tập, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khoa học, đất nước ta sẽ tìm ra hướng đi phù hợp giúp Việt Nam có sự chuẩn bị tốt cho chặng đường phía trước. Thực tế cho thấy, xuyên suốt trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, khi chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với những phẩm chất cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước gắn liền với không ngừng nâng cao điều kiện sống của con người, các chương trình phát triển kinh tế xã hội, giáo dục - đào tạo, phát triển văn hóa, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường được chú trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng cao. (2020, September 22). Báo Điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/chi-so-von-con-nguoi-cua-viet-nam-tang- cao-102279442.htm [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2003). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. 400
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [4]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia. [5]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [6]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [7]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật. [9]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia. [10]. Nguyễn, H. H. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thách thức và cơ hội cho phát triển. 405-415. [11]. Thảo Lê. (2020). Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu: Việt Nam đứng đầu nhóm 29 nền kinh tế cùng mức thu nhập. Báo Nhân dân. https://nhandan.vn/khoa-hoc/chi-so- doi-moi-sang-tao-toan-cau-viet-nam-dung-dau-nhom-29-nen-kinh-te-cung- muc-thu-nhap-615355/ [12]. Tổng cục Thống kê. (2021). Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm Quý II và 6 tháng đầu năm 2021. General Statistics Office of Vietnam. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/07/thong-cao-bao- chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-ii-va-6-thang-dau-nam-2021/ [13]. Trần, T. V. H. (2017). Cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - Xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chính trị Quốc gia sự thật. 401
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2