Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 2): Phần 2
lượt xem 3
download
Phần 2 cuốn sách "Tìm hiểu một số công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam" giới thiệu tới người đọc các nội dung: Trưng bày ngoài trời - Những vấn đề bảo quản; truyền thông và công chúng; tư liệu nghe nhìn trong Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 2): Phần 2
- CÁC LỄ TỤC ■ TRONG NGÔI NHÀ NGƯÒl VIỆT • ỏ TRIỆU SON - THANH HOÁ v ũ HÒNG THUẬT Ngôi nhà là nơi sinh tụ làm ăn của con nguòi qua các thế hệ khác nhau. Theo quan niệm của người dân, "an cư mỏi lạc nghiệp". Đồng thòi, ngôi nhà còn là nơi thò cúng ngưòi chết "về" nhận hương hoả của con cháu trong các ngày sóc, vọng, giổ, tết. Bỏi vậy, trong quá trình sống, con ngưòi rất chú trọng đến các nghi lễ và tập tục (gọi tắt là lể tục) nhằm phụng thò các vị thần linh, chân linh, vong linh1, mong sao được "âm phù dương trợ" cho gia chủ được bình an, làm ăn phát đạt, mùa màng tốt tươi. Ỏ bài viết này chỉ tập trung giỏi thiệu các lễ tục trong khuôn viên ngôi nhà ngưòi Việt, gồm: nhà ỏ, bếp, khu chăn nuôi, vuòn ỏ vùng Triệu Sơn - Thanh Hoá, phục vụ cho trưng bày ngoài tròi tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. 1 - KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ: Huyện Triệu Sơn có từ năm 1966, do sáp nhập một số xã thuộc các huyện Thọ Xuân, Đông Sơn, Nông Cống. Hiện nay 1. Các vị thàn linh gồm Thổ công, Thổ địa, Chân linh là thân tộc đã qua đời. Vong linh là những người chết không có ai thờ tự. 230
- huyện Triệu Sơn tiếp giáp huyện Nông Cống về phía Nam, huyện Như Xuân phía Tây, huyện Thọ Xuân phía Bắc và huyện Đông Sơn về phía Tây, có 33 xã, gồm các dân tộc Kinh, Thái, Mưòng. Huyện thuộc vùng hán trung du và đồng bằng, có sông Nhà Lê và quốc lộ 37A chạy qua. Tù năm 1945 trỏ về trước, đặc điểm kiêu trúc dân gian ỏ đây là nhà ỏ kiêm thò tự. Nhà thường có 4 hoặc 6 hàng cột, đàu hồi bit đốc, vì kèo "giá chiêng" hoặc "chồng giưòng, con nhị" kết hộp. Nhà làm 3 gian, 5 gian hoặc 7 gian. Hai gian đầu hồi làm buồng ngủ và chứa lương thực, gian giữa làm nơi thồ tự, các gian còn lại là nơi ngủ cùa con cái và tiếp khách. Trang trí kiến trúc dân gian phổ biến là cỏ cây, hoa lá, nhu: tùng, cúc, trúc, mai và các con vật linh nhu: rồng lá, hổ phù, dời, sấu ỏ các phần kẻ, bẩy, đàu đốc bức thuận, của ra vào, quá giang... 2 - CẤC LỄ TỤC KHI LÀM NHÀ. 2.1. Chọn đất làm nhà Đất chọn làm nhà là miếng đắt vuông vức, bàng phẳng, xa nghĩa địa; tránh đất đình, chùa, đền, miếu. Việc chọn đất làm nhà được thầy địa lý đảm nhiệm. Hưỏng nhà thường là hưỏng Nam: "Lấy vộ hiền hoà, làm nhà hưỏng Nam". Các điều kiêng kỵ khi làm nhà: - Phía trưỏc không có vật gì chán giữa cung nhà, đặc biệt phải tránh đầu đốc nhà phía trước đâm thẳng vào gian giũa nhà mình. - Cổng hai nhà không đâm thẳng vào nhau. Theo quan niệm nếu không tránh các điều trên, gia chủ làm ăn không phát đạt, mọi điều xui xẻo thưòng đến. 231
- Chọn được đất, gia chủ sắm lễ gồm đĩa xôi, con gà, trầu, rượu, vàng mã nhò thầy địa ]ý thắp hương, khấn vái xin phép Thành Hoàng, Thổ địa được làm nhà vào ngày tháng đã ấn định. Gần đây, do dân số ngày càng đông, nên việc chọn đất làm nhà không cồn áp dụng như trưỏc nữa, phải phụ thuộc vào chính quyền xã cấp đất. Nếu phần đất ỏ được cấp không hộp vối tuổi của gia chủ, gia chủ đến nhồ các vị pháp sư làm bùa để yểm, cầu mong làm ãn được thịnh vượng. 2.2. Chọn tuổi làm nhà. Tuổi làm nhà được làm từ 8 đến 77 tuổi; nhưng nguòi ta thưòng làm nhà vào giai đoạn tuổi từ 27 đến 77, trong đó tuổi 25, 45, 54 là nhũng tuổi đẹp nhất. Các tuổi kim lâu 1, 3, 6, 8 thì không làm được nhà, ví dụ tuổi 33, 48, 51... Ngưòi ta quan niệm "tạo tác gia cư tuỳ mệnh trạch, đắc thất sỏ định" (có nghĩa là muốn sửa chữa nhà tuỳ theo bản mệnh tuổi của mình thì làm nhà tốt hay xấu). Khi làm nhà phải xem tuổi đàn ông: "lấy vộ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông" - dân gian đã từng nói vậy. 2.3. Chọn gỗ. Gổ làm nhà được ngưòi dân địa phương chọn rất kỹ, như gỗ, tre, luồng phải là cây thẳng, không dùng cây cụt ngọn, cây hai chạc (một gốc 2 cây), cây đổ nằm, cây dây quấn. Đặc biệt, kiêng không chặt cây có chim quạ làm tổ, cây sét đánh đem về làm nhà. Việc chặt tre, luồng, gỗ làm nhà được chọn ngày giò rất kỹ, phải tránh giò hoả, ngày sát chù. Trưỏc khi chặt phải thắp hương cáo Thổ công, Thổ địa và gia tiên. 2.4 Chọn thợ làm nhà và các điêu kiêng kỵ. Ngoài việc chọn tuổi, chọn gỗ đé làm nhà, gia chủ còn phải chọn thợ làm nhà. Thợ làm nhà không chi chọn thợ giỏi mà còn 232
- phải chọn thợ cả là ngưòi không có tang, ốm đau, gia đình thuận hoà, con cháu phưong trưởng. Ngày phát mộc (cát đầu gỗ) cũng phải chọn ngày, giò. Tránh cung ngày hoả và thưòng chọn ngày vũ, đại cát, hoàng đạo. Ngày cắt đầu gỗ cũng là ngày cát sào mực. Sào mực được chia thành các khoảng cách đều nhau (tính bằng cm) để đo cao, thấp, dài, rộng của ngôi nhà. Khi cát sào mực phải đo từ gốc về ngọn vì theo quan niệm nếu cắt sào mực mà đo từ ngọn xuống gốc sẽ làm cho gia chủ làm ăn lụi bại. Cát đầu gổ phải cắt 4 cây gỗ chính trưỏc ngôi nhà, (cột cái) của gian giữa, sau đó mỏi cắt đến các cột khác. Xà ngang nối giữa 2 đầu cột cái còn gọi là quá giang. Khi lắp 2 mặt xà ngang phải lắp hai mặt đổi chỉnh nhau. Ví dụ: một cây gỗ xẻ ra làm hai xà ngang khi lắp xà ngang của hai gian giữa phải cho hai mặt giữa của cây úp vào nhau. Nếu không làm như vậy, vợ chồng sẽ ly thân, gia chủ làm ăn lục đục. Theo quan niệm của ngưòi dân khi làm nhà phần đầu cây cột cái ỏ gian phía sau nhà thường được cắt xẻ làm đôi, sau đó ghép lại nhằm sự tiếp nối làm ăn, phúc, lộc, thọ cho con cháu không ngừng phát triển. Gian giữa nhà là gian chính đặt bàn thò gia tiên. Do vậy, khi lắp rui mè chú ý không đặt vào chính giữa gian nhà mà phải đặt lệch sang hai bên. Ngưòi ta quan niệm: nếu không đặt lệch tựa như chiếc cây đổ vào nhà - nơi "cư ngự" của ông bà tổ tiên, bị coi là phạm "huý", gia đình bị "quỏ", làm ăn kém phát triển và dễ xẩy ra tang tóc. 2.5. Nghi lễ động thổ và dựng nhà. Trưổc đây, nhà nghèo khung nhà làm bằng tre, luồng, lộp bàng lá kè, rạ; nhà giàu khung làm bằng gỗ, mái lộp ngói, tưòng xây... 233
- Ngày cát đầu gỗ cũng có thể là .ngày động thổ để xây nhà. Lễ vật cúng động thổ gồm 1 con gà, đĩa xôi, trầu cau, ruọu, vàng mã, hương hoa. Ngưòi thắp hương khấn vái có thể là ngưòi đứng tuổi làm nhà hoặc thầy cúng đứng ra đảm nhiệm. Nghi lễ làm xong, vàng, sổ đem hoá, sau đó ngưòi đứng tuổi làm nhà cầm cuốc, xẻng đào 4 góc tượng trưng cho bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách thức đào từ trái qua phải, mỗi góc đào 9 nhát. Dựng nhà: Sau khi làm xong phàn mộc và nề, gia chủ chọn ngày giò tốt, lễ c ấ t nóc hay lễ Thượng lương. Nóc nhà rất quan trọng: "con không cha như nhà không nóc". Không có nóc không thành nhà. Đúng ngày, giò đã chọn, gia chủ bác đòn chính của nóc nhà lên đỉnh sưòn nhà. Mặt trái đòn nóc được chạm nổi 2 vòng trôn bát quái ỏ 2 đầu nóc để trừ tà ma. Mặt phải đòn nóc được ghi hàng chữ Hán đề quốc hiệu, ngày, tháng, năm làm và mong mọi sự tốt lành sẽ đến. Chũ Hán thưòng viết trên thượng lương nhu sau: Tuế thứ Kỷ Sửu niên, trọng đông, nhị thập lục nhật, kiến tân gia đại thắng lợi. Tạm dịch là: Vào ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Sửu làm nhà mói, mọi sự tốt lành sẽ đến. Hai mặt phải của xà ngang 2 bên gian giữa nhà cũng được ghi hàng chữ Hán như sau: - Phú quý tự khang ninh. Nghĩa là: Sự giàu có khang ninh tự đến. - Càn nguyên hanh lợi trình. Nghĩa là: Sự biến đổi của tròi - đất mang đến điều tốt lành. Trưổc đây, khi cất nóc thường có đốt pháo. Tiếng pháo vừa biểu lộ sự vui mừng, vừa đuổi tà ma. Cũng trong dịp này, chủ nhà mồi bà con họ hàng tỏi liên hoan mừng nhà mỏi. 234
- Điều tối kỵ là từ khi làm đòn nóc đến khi dựng không được ai bước qua, nhất là đàn bà, con gái. Ngưòi ta quan niệm ràng: bưỏc qua đòn nóc "hèm" ám vào để lên nhà, gia chủ làm ãn lụi bại và dễ xảy ra tang tóc. 3 - CÁC NGHI LẾ TRONG NGÔI NHÀ. Sau khi làm xong nhà, gia chủ phải làm thủ tục nhập nhà mỏi, gọi là nhập trạch tân gia. Lễ nhập trạch được coi ngày giò kỹ luõng. Khi chuyển lên nhà mỏi phải lập bàn thò Thổ công, bàn thò gia tiên, tiếp theo chuyển đồ dùng sinh hoạt, như: bếp, gạo, muối, xoong nồi, giường, tủ... sau mỏi làm lễ trấn trạch. Nội dung lễ cúng trấn trạch càu xin ba vị thần và bài vị được viết bâng chữ Hán để ở bàn thò Thổ công như sau: Dông trù tư mệnh, Táo phủ thần quân. Bản gia: Thổ địa Long mạch Tôn thần. Ngũ phương Ngũ Thổ phúc đức chính thần. 3.1. Lễ cúng an trạch về nhà mới. Lễ vật cho khoa cúng an trạch về nhà mỏi gồm: xôi, gà, hoa quả, trầu rưọu, vàng sổ để cúng Thổ công, Thổ địa, Thần tài. Ngoài ra, làm Cổm canh cúng báo gia tiên và nấu cháo hoa, mía dóc vỏ tiện từng khúc, khoai lang luộc, cắt quần áo giấy cúng cho chúng sinh. Nghi lễ cúng an trạch nhằm cầu cho gia chủ về nhà mđi làm ăn, may mắn xua đuổi ma quỷ. Nghi lễ cúng an trạch thường mòi pháp sư hoặc thày cúng làm lễ. Lễ an trạch chịu ảnh hưỏng văn hoá Phật giáo thể hiện rõ trong các cãu niệm chú của phái mật tông và cung thỉnh đến đức Phật Bà Quan Âm Bồ Tát. 235
- 3.2. Nghi lễ cúng Thổ công Hầu hết trong ngôi nhà ngưòi Việt đều có bàn thò Thổ công riêng, tại gian đầu hồi, gian giữa nhà hoặc phần phía trên của buồng. Bàn thò Thổ công được trang trí đon giản gồm: bàn thò, bát hưong, mũ làm bằng giấy màu đỏ. Trên bàn thò có ghi bài vị bàng chữ Hán giống như bài vị cúng an trạch. Khi thắp hương cúng tổ tiên đều phải thắp hưong xin phép Thổ công. Thổ công chính là vị thần trông coi gia cư, giáng hoạ ban phúc cho gia đình tín chủ. Nhò Thổ công, các hồn ma quỷ vãng lai không vào nhà. Do vậy, trên bài vị thò Thổ công thưòng viết chữ triện ỏ 4 góc: Sát quỷ trừ tà (xua đuổi tà ma, quỷ quái) ■ Tứ phúc, bình an (ban phúc, bình an). Tín nguõng cúng Thổ công được chú trọng, gia đình nào cũng thiết lập một bàn thò, không kể chi thứ hay chi trưởng. Các gia đình cúng Thổ công vào những ngày giỗ, tết, sóc, vọng. Lễ cúng tuỳ theo gia chủ, có thể cúng chay hoặc cúng mặn. Trong những ngày sóc, vọng, ngưòi ta thưòng cúng hoa quả. Đồ lễ chỉ gồm có vàng mã, trầu, nưỏc, rượu, hoa quả. Tuy nhiên, cũng có những nhà cúng mặn, đĩa xôi, con gà, miếng thịt, trưỏc cúng sau ăn, cốt tỏ lòng thành. Những ngày giổ tết, các gia đình lãm cỗ mặn cúng Thổ công. Ngoài ra, khi làm lễ cáo gia tiên đều thắp huong cúng Thổ công. Nội dung giống như cầu khấn gia tiên. Cúng Thổ công phải khấn đủ ba vị thần linh như ghi trong bài vị: - Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân. - Thổ địa Long mạch Tôn thần. - Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần. Cúng xong, hết một tuần nhang gia chủ lấy vàng mã, số xuống đốt. Khi đốt lấy rượu cúng trên bàn thò đổ vào đống 236
- vàng mã đang cháy. Ngưòi ta tin rằng khi vàng mã đốt đổ rưổu vào sẽ thành vàng, tiền, quần áo thật cho thần linh, vong linh, chân linh ỏ cõi âm. Lể cúng Thổ công quan trọng nhất trong năm là lễ tiễn Ông Công, Ông Táo vào ngày 23-12 Âm lịch. Lễ vật cúng Ông Công, Ông Táo gồm có xôi, chè, trầu, rượu, cau, nưổc lã, vàng mã, sổ, mũ, áo. Cũng vào ngày này, gia chủ làm lễ dựng cây nêu ỏ trưổc nhà. Ồng Lê Văn Nghi, 95 tuổi, làm nghề thầy cúng ỏ xã Thọ Tiến quan niệm ràng: "Dựng cây nêu trưóc nhà nhằm bắc thang cho thần lên tròi tâu vổi Ngọc Hoàng công việc dưỏi trần gian trong một năm qua và là điểm đánh dấu cho thần tù trên tròi xuống trần gian vào ngày mồng 7 tết (hạ cây nêu). Mặt khác, trong thòi gian từ ngày 27 tháng chạp đến ngày mồng 7 tháng giêng, cây nêu thay cho vị thần trông coi toàn bộ gia cư cho gia chủ, xua đuổi tà ma, các vong linh không đến quấy phá"... Khấn vái xong, lễ vật đem hoá; cá chép đem thả ra ao, hồ. Ngày nay cá chép hiếm, ngưòi dân sỏ tại đã đốt cá chép làm bàng giấy. 3.3. Thờ cúng tổ tiên Đạo lý "Uống nuỏc nhỏ nguồn" thể hiện sâu đậm trong việc thò cúng gia tiên. Mỗi gia đình đều thò vong linh tiên tổ, múc đậm, nhạt thé hiện rõ ỏ vai thứ trong dòng họ, gia đình. Đứng đầu gánh vác trách nhiệm là nguòi con trưởng phải phụng sự thò tự tiên tổ tù ông Ngũ đại trỏ lại đến ông, bà, cô, dì, chú, bác hai bên nội, ngoại. Chúng tôi đã khảo sát tại Thanh Hoá 18 ngôi nhà, trong đó ỏ Triệu Sơn 12 nhà, kết quả có 10 ngồi nhà gia chủ cho biết: Chỉ con trai tnlỏng mỏi dược thò tự ông bà, khi nào con trai cả mất mói đến con trai thứ thò tự. Nếu con trai ông trưởng đã lớn phải đảm nhiệm việc k ế sự hương hoả cho dòng tộc. 237
- Một sắc lệnh ban hành năm 1511 như sau: "Trách nhiệm thò cúng tổ tiên được giao cho đích tử. Nếu đích tủ chết, sẽ lấy đích tôn. Trong trường hợp không có đích tôn, sẽ dùng con thứ. Nếu chính thất không có con trai, lú ấy sẽ chọn lựa đứa con trai khôi ngô nhất của một vợ thú*. Việc bài trí bàn thò gia tiên trong mỗi gia đình được xếp theo ngôi thú từ cao đến thấp. Có nhà tính từ ông Ngũ đại từ trên cao xuống thấp theo thứ tự bát hương. Có nhà lại tính từ thấp lên cao và có nhà lại tính bát hương nào to nhất được coi là ông Tổ họ. Tín ngưõng thò cúng gia tiên trong ngôi nhà ngưòi Việt ỏ Triệu Sơn tù năm 1945 trỏ về trưỏc thưòng thấy bàn thò Bà cô Tổ đuộc thò riêng ỏ đầu hồi cửa buồng ngủ. Từ nãm 1945 trở lại đây, bàn thồ Bà cô Tổ lại để chung vói bàn thò gia tiên tại gian giữa. Những gia đình mỏi tách hộ ra ỏ riêng, cha mẹ còn sống khồng đưộc lập bàn thò gia tiên mà chỉ được phép thồ Thổ công, Ông bếp và Bà cô Tổ. Thò cúng gia tiên trong ngày giỗ, tết thưòng làm cỗ mặn; còn ngày sóc, vọng chỉ cần thắp hương, hoa quả, vàng mã, trầu, rượu, nước lã, đèn dầu là đủ, miễn sao tấm lòng thành "Tâm động quỷ thần tri". Tuy nhiên, khi trong gia đình xẩy ra một biến cố hay sự kiện gì như: con ốm, thi cử, đi xa về... đều có tháp hương khấn vái tổ tiên và nêu lý do. Trước đây việc tháp hương, lau chùi đồ thò tự chỉ nam giỏi mỏi được phép đảm nhiệm. Do hoàn cảnh gia đình và quan 1. R.Delosutal: La lustice dans lancien AnNam; B.EFEO, 1890 (Pháp luật An Nam xưa, tr.501). 238
- niệm có thay đổi nên ngưòi phụ nữ (ngưòi vợ) đã được thắp hương thồ phụng; nhưng tỷ lệ còn thấp. Việc thò tự trong gia đình ngưòi Việt có sự phân giỏi: chồng chủ trì việc thò cúng tổ tiên và các thần bảo hộ gia đình cũng như các vị Tiên sư, Thổ địa. Cồn ngưòi vộ chăm lo việc thò cúng mưòi hai Bà mụ, bà cô Tổ, Táo quân, thần chăn nuôi. Trưỏc đây, đi chợ mua các đồ lể vật về tháp hương, như: hoa quả, thịt, cá... phải mang theo một ít nưổc lã từ nhà để khi mua được thứ gì lấy nưỏc bôi vào, nhằm mục đích làm cho các loài quỷ và súc sinh sộ, không được ăn trưỏc của các vị thần linh, gia tiên nhà mình. Ngày nay lễ tục này chỉ còn ỏ các gia đình có ông bà già. Tục mua lễ vật ỏ chợ về cúng ỏ nhà cấu một ít vút xuống đất cũng nhàm tránh cho ma quỷ không được ăn thuồng thấy ở các xã giáp hai huyện Thọ Xuân, Dông Sơn. Khi nấu đồ cúng ngưòi dân kiêng cho tỏi, kiêng không đưa lên mũi ngửi, quan niệm ngửi truỏc coi như là ăn. Khi nấu không đưọc nếm, nấu cơm không được gõ 2 chiếc đũa cả vào nhau, và còn bao nhiêu tục kiêng khác nữa. 3.4. Cúng trăn trạch: Ngưòi ta tin ràng: nhà bị động, làm ăn xúi quẩy là do trong quá trình làm nhà mỏi hay sửa chũa, cơi nổi, hưỏng nhà, hưỏng ngõ đi vào nhà bị một con đưòng cắt ngang. Trong gia đình làm ăn thấy không yên ổn thưòng đi đến nhà thầy cúng xem bói, chỉ dẫn. Nếu động long mạch nặng phải xoay nhà, chuyển hưóng, nhẹ thì tạ lễ thần linh. Lễ vật cúng trấn trạch gồm nưổc ngũ vị nấu lên tẩy uế xung quanh nhà, xôi, gà, vàng mã, trầu, rượu, sỏ, và một bộ quần áo cho Thồ địa. Ngưòi cúng trấn trạch phải là pháp sư đảm nhiệm, ông vừa đi xung quanh nhà theo chữ triện: sát - quỷ - bình - an. 239
- Hương tháp một tuần lấy đồ mã đem hoá và lấy rượu đã cúng rót vào noi vàng mã đang cháy và nghi lễ kết thúc. 3.5. Các ngày lễ trong năm. Ngưòi Việt ỏ Triệu Sơn, Thanh Hoá có tục lệ khao đất đầu năm. Thòi gian từ ngoài 15 tháng Giêng trỏ đi các gia chủ đến "ông đồng - bà cốt"1 xem quẻ đầu năm, làm lễ cầu an. Ngưòi lãnh nhiệm bề âm làm việc cúng bái dâng tiến tiền, vàng, trầu cau, rượu, hoa quả của gia chủ lên của cha - mẹ xin xem quẻ đất cát cho gia chủ trong năm làm ăn ra sao? Theo tục lệ ỏ đây cứ 5 năm làm lễ khao đất một lần. Lể vật khao đất làm cơm canh cúng gia tiên; xôi, gà cúng Thổ công; Tết Đoan Ngọ là ngày lễ giữa năm phòng bệnh, trừ tà, đi sâu, thăm hỏi thầy giáo,... vào ngày này, mỗi gia đình đều làm cỗ mặn cúng gia tiên. Rằm tháng 7: Ngưòi Việt có câu "cúng quanh năm không bàng cúng Rằm tháng 7". Lễ cúng Ràm tháng 7 còn gọi là ngày xá tội vong nhân hay tết Vu lan. Điển tích lễ Vu lan vổi tích Mục Kiền Liên làm phúc cho thân mẫu. Các gia đình làm com canh cúng gia tiên và có đốt vàng mã, quần áo, đồ dùng sinh hoạt, hương hoa dâng lên bàn thò; cúng cháo hoa và muối, gạo, tiền vàng, quần áo cho chúng sinh (cô hồn) không có ngưồi thò tự. Cháo hoa múc vào khuôn lá đa. Mỗi một khuôn lá đa múc một thìa cháo và cám 1 que hương để ngoài cổng, sân, vưòn, đưòng. Nguòi dân quan niệm: vào ngày này phải cúng cho chúng sinh cô hồn ăn thật no để được hưỏng phúc của các vong linh, cô hồn, chúng sinh, phù hộ cho gia đình làm ăn phát đạt. 1. "Ông đồng - bà cốt": những người đồng bóng, bối toán. 240
- Khi tuần nhang đầu đã cháy hết, gia chủ đốt mã, phát lưong và một tay cầm cây dâu, một tay cầm dao và miệng nói "Tất cả chúng sinh, cô hồn, nay gia đình tôi làm cỗ phát lương cho các vong linh, cơm cháo, gạo, muối, trầu thuốc, rượu, vàng, quần áo đã đầy đủ, các vị ăn cho no rồi đi nơi khác không đưộc ỏ đây để cho gia đình yên ổn làm ãn. Vong linh nào cố tình ỏ lại sẽ bị chém". Gia chủ cầm dao chặt 3 nhát vào cành dâu, rồi lấy cành dâu quất xung quanh nơi cúng cháo, sau đó nghi lễ kết thúc. L ễ đêm giao thừa (tết Nguyên đán): Chiều 30 tết mọi gia đình làm cơm mòi ông bà tổ tiên về ăn tết cùng gia đình gọi là cúng tất niên. Giò phút giao thừa của năm cũ và năm mỏi, mọi nhà sắm lễ vật cúng giao thùa. Lễ vật thưòng là con gà, hay chân giò lợn, bánh trái, hoa quả. Cúng giao thừa ỏ tất cả bàn thò trong nhà và cúng ỏ ngoài sân. Nội dung khấn cầu xin thánh, thần, tròi, phật, gia tiên phù hộ sang năm mỏi làm ăn phát đạt, con ngưòi khoẻ mạnh, mùa màng bội thu. Vào thòi điểm giao thừa, mọi nhà đều đốt pháo, ngoài ý nghĩa đón mùng năm mỏi còn mang ý nghĩa trừ tà ma. Ngoài ra, các gia chủ thưòng lấy vôi bột rác hoặc vôi nưóc vẽ, 3 vuông 7 tròn ỏ giũa sân, vẽ hình cung tên ỏ 4 góc sân nhàm cho ma quỷ sọ, vẽ cày bừa ỏ ngoài cồng. Nếu gia chủ nào biết chữ Hán thì viết hai chữ triện: sát - quỷ ỏ giữa sân. Trong ba ngày tết, trong nhà đèn hưong lúc nào cũng phải thắp. Theo quan niệm nếu hương đèn tắt là ồng bà, tổ tiên không ngự ỏ bàn thò, ma quỷ cô hồn ỏ ngoài sẽ vào trong nhà. Mặt khác, huơng đèn cháy như muốn cả năm làm ãn may mắn 241
- cầu mong sự no đù. Câu ca thưòng nói "đói no hai bữa, đỏ lửa trong nhà". Bỏi vậy, trong ba ngày tết lúc nào bếp cũng đỏ lửa. Các kiểu kiêng kỵ trong ngày tết: - Kiêng không cho lửa ngày mùng 1 tết. - Kiêng không đánh võ cốc chén, bát đĩa. - Kiêng không cãi nhau. - Kiêng không quét rác trong 3 ngày tết vì sộ hót đổ thần tài. - Kiêng khồng đến xồng nhà là ngưòi bị ốm đau, đeo khăn trên đầu, tang, gia đình không được thuận hoà... - Đầu năm đi chơi xuân phải xem huổng và giò đi để cả năm làm ăn may mán. 3.6. Các lễ tục và điều kiêng kỵ: - Trong gia đình có ngưòi sinh đẻ, ỏ cửa buồng ra vào thưòng được yểm bùa để tránh ma quỷ, ngưòi có vía dữ đến thăm làm cho đứa trẻ bị ốm đau, hay khóc, giật mình. Để phòng tránh điều đó ngưòi ta chôn ỏ cửa buồng (phần phía trong) con dao cùn hoặc chiếc đinh hay lưõi cày đã đuợc ngâm qua nuỏc tiểu. Lấy cứt đứa trẻ ỉa làn đầu gọi là cứt keo bôi lên thành cửa buồng (nam 7 cái, nữ 9 cái). Txên giưòng nằm thưòng để con dao nhọn ỏ đầu giưòng. Lấy mảnh sành, bát võ để 4 góc giưòng... - Khi đứa trẻ sinh ra đầy cũ phải cúng ỏ trong buồng tạ on 12 Bà Mụ và khi đầy tháng, đầy năm cúng báo gia tiên, Thổ công, sau đó mói cho đứa trẻ đi choi khỏi giuòng nằm. - Trong gia đình có tang ma, tục lệ quy định có buộc chân tay nguòi chết khi khâm liệm, sau đó, cho tử thi vào quan tài, để dọc theo mái nhà, đầu quay vào phía trong, chân ra phía ngoài. Khi khiêng quan tài đi chôn, không đưa qua cửa chính mà phải đi cửa phụ. Bàn thò ngưòi chết được lập riêng, đù 27 242
- tháng mỏi đua bát hương lên thò chung tại bàn thò gia tiên. Nếu nhà có ngưòi chết trùng tang phải mòi pháp sư về lập đàn tràng cúng siêu thoát và dán các lá bùa ỏ bổn góc nhà và cửa ra vào. - Khi có nguòi nằm ngủ trong nhà, nhất là trẻ em, ngưòi ta kiêng không đậy giấy báo, khăn mặt, lên mặt ngưòi đang nàm ngủ. Kiêng nằm ngủ quấn chiếu quanh ngưòi. Đi làm đồng về không được cầm cuốc, xẻng để ỏ truỏc cửa nhà, hoặc đi qua sân không được vác trên vai... - Con gái đi lấy chồng, nhung vộ chồng không thuận hoà, phải về nhà mẹ đẻ. Nếu đã có mang đến ngày sinh nỏ không được đẻ ưong nhà, mà phải làm riêng một gian nhà ra đầu hồi nhà, hay xó bếp, ngoài vưòn để đẻ và nuôi con; đến khi nào đầy tháng mổi đưộc vào trong nhà. - Trong quá trình làm nhà, gia chủ không đối đãi tốt vổi thợ, thợ sẽ phản lại gia chủ bàng cách: đóng đinh vào đỉnh cột cái hoặc ỏ hai đầu thượng lương, hoặc láy xương gà, xương cá cho vào mộng láp ghép phần chỗ quá giang ngàm vào phần cột cái vói kẽ bẩy của mái hiên sẽ làm cho gia đình làm ăn lụi bại. Câu ca của thợ mộc thuòng răn nhà chủ như sau: "Bà chắc tay cối xay bà lung lay" mang hàm y đe doạ ám hại gia chủ. - Bậc thềm lên xuống của ngôi nhà thưòng làm bậc lẻ 1, 3, 5. Vì số lẻ là dương, cầu mong mọi sự tốt lành. Nhà làm 3 bậc, mang ý nghĩa 3 giai đoạn của đòi ngưòi là sinh, bệnh, lão. Người ta kiêng làm bậc thềm theo số chẵn vì số bậc này là âm, biểu thị số chết: bệnh-tử. - Trong bếp, vào những ngày sóc, vọng phải thắp hương ông Táo hay còn gọi là ông đầu râu, ông bếp. Khi nấu ăn ngưòi dân 243
- kiêng không lấy củi, đũa bếp gõ lên thành bếp. Đốt củi phải đốt từ gốc trưổc. Nếu đun rom, rạ, tro bếp phải kéo về phía bên vần nồi cơm. Bắc cơm ra ngoài phải gạt tro vào chổ vừa bác nồi cơm ra. Nếu không làm như vậy ngưòi ta tin rằng hổ sẽ vào nhà, mùa màng bị thất thu. - Trong bũa ăn nếu đứa trẻ bị hóc xương, một ngưòi trong nhà tự lấy muối bỏ vào bếp hoặc lấy bát nưỏc hất lên mái nhà, ra xoay mâm một vòng tròn, xương hóc trong miệng sẽ ra ngoài. - Đũa cả ghế cơm không được dùng nấu canh, xào rau. Làm như vậy gia đình hay cãi nhau. - Khi ăn cơm xong, thưòng đế lại một ít cơm trong nồi vổi quan niệm là để cho nhiều lúa gạo, lần sau lại có gạo nấu com. - Khi trâu, bò, lộn đẻ ngưòi dân thuòng lấy chiếc nùn rơm đốt cho cháy dỏ buộc vào cây xương rồng 3 cạnh rồi treo ỏ trưỏc cửa chuồng. Mục đích là đánh vía những ngưòi có vía dữ nhìn vào làm cho con vật không cho con bú. - Trong mỗi gia đình, ngoài thò gia tiên, còn thò cây hương ỏ ngoài sân. Vào các ngày sóc, vọng, giỗ tết, cây hương thò Tròi - Phật, vong hồn chết yểu của gia chủ. Lể vật cúng ỏ cây hưong gồm có hoa quả, trầu cau, nưổc lã. - Thưòng truỏc nhà hay ỏ cổng ra vào có trồng cây dâu mang ý nghĩa để trừ tà ma. Ỏ ngoài cổng thưòng đặt chó đá đế giữ nhà, càu mong của cải trong nhà không bị thất thoát. Trưổc nhà thưòng trồng cau (chuối sau cau trưóc) vừa tăng phần cảnh quan trong khuôn viên, vừa mang ý nghĩa tôn giáo. Theo giáo sư Trần Lâm Biền: "Cây cau là nấc thang lên xuống của thánh thần, sự giao hoà giữa tròi và đất đ ể cho con ngưòỉ 244
- và vạn vật sinh sôi phát triển. Mặt khác, cây cau tựa như cây nêu cắm ỏ trước nhà mang ý nghĩa trù tà m a" . Trưỏc nhà ngưòi Việt thưòng đào ao thả cá, không chỉ để tâng nguồn thực phẩm cho bữa ăn, mà còn để cân bàng sinh thái môi trường cảnh quan, là điểm yểm "huyệt" long mạch cho gia chủ làm ăn thịnh vượng. Câu ca xưa vẫn thường nhác đến khi mua bán nhà phải chọn đủ các yếu tố là: nhà ngang, rẫy dọc, vưòn cau, ao cá là như vậy. - Gà, ngan ấp trứng nở con cho xuống ổ, ngưòi dân thưòng tính theo lịch trăng hay lịch nưổc thuỷ triều lên xuống. Đầu tháng thì cho xuống buổi sáng, giữa tháng - buổi trưa, cuối tháng - buổi chiều. Khi cho gà xuống ổ lấy một bát nưổc hất lên mái nhà, miệng nói "nước chảy" ba lần rồi bắt 1 con gà hứng vào chỗ nưổc chảy, sau đó mỏi cho cả ổ xuống. Theo quan niệm, làm như vậy gà nuôi không bị "khát nưỏc" mỏi sống được. - Khi chăn nuôi được lộn hay trâu bò đem bán, nhất là lợn, gia chủ thường phải cắt một túm lông đuôi vứt lại trong chuồng vổi ưổc muốn lần sau nuôi chóng lổn như con trưỏc. Trong làng có đám ma hay bốc mả, nguòi dân thưòng lấy dây buộc quan tài đem về buộc vào gốc cây ăn quả, thưòng bị sâu, ít quả, hoặc để lên trên gác chuồng trâu, bò tránh dịch bệnh. Quan tài khi cải táng nguòi dân lấy về nhà trấn chuồng lộn cho lộn hay ăn chóng lốn. Trên đây là những lễ tục trong khuôn viên nhà ngưòi Việt ỏ Triệu Sơn, Thanh Hoá, có nhũng lể tục tương đồng vỏi các 1. "Cây cỏ trong nghệ thuật tạo hlnh cổ của người Việt" - Tư liệu mỹ thuật trao đổi nghiệp vụ - Phòng tư liệu Viện nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật. 245
- tỉnh khác từ Hà Tĩnh trở ra. Việc sưu tầm các phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo trong ngôi nhà ngưòi Việt để phục vụ cho khu trung bày ngoài tròi của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là điều cần thiết và tất nhiên còn phải tiếp tục. Vấn đề đặt ra ở đây là: Giổi thiệu cái gì? Trưng bày như thế nào để làm nổi bật phần hồn của ngôi nhà mà lễ tục là một phần không thể thiếu được. Vậy có nên đưa phàn tái tạo lễ tục vào trong ngôi nhà để trưng bày, giỏi thiệu cho khách thăm quan nghiên cứu hay không? Nếu trưng bày thì phải làm như thế nào? Bỏi lễ tục bao hàm cả phàn văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, trong đó lễ tục lại luôn biến đổi theo thòi gian. Cái mỏi và cái cũ đan xen vào nhau và trỏ thành tập tục của mỗi gia đình, mỗi địa phương, trong khi ngôi nhà ngưòi Việt trưng bày ỏ đây lại mang tính tiêu biểu cho cả một dân tộc trên phạm vi cả nưỏc. Mặt khác, ngôi nhà trưng bày ngoài tròi của ngưòi Việt tại Bảo tàng là ngôi nhà kiến trúc cổ, hiện vật gốc. Phần trưng bày lễ tục sẽ đưộc làm như thế nào; ta chỉ giỏi thiệu những gì mà chủ nhân ngôi nhà có hay giói thiệu cả lễ t\c cùc địa phương mà ngôi nhà đó là đại diện? Theo tôi, việc trưng bày kiến trúc dân gian nhà ngưòi Việt khu vực ngoài tròi theo quan điểm như sau: Một là, việc nghiên cứu, sưu tầm, trung bày kiến trúc dân gian nhà ngưòi Việt ỏ Bắc Bộ từ Thanh Hoá trỏ ra phải thực hiện tái tạo toàn bộ khuôn viên, không thể chỉ tái tạo nguyên bản ngôi nhà đã sưu tầm được. Bỏi vì, chưa hẳn ngồi nhà đó đá đại diện cho phần kiến trúc dân gian của ngưòi Việt ỏ đồng bằng Bắc Bộ, nhất là phần lễ tục. 246
- Hai là, phàn khuôn viên, sân, vưòn, ao, cây ăn quả, cây hương, công trình phụ phải phù hộp vỏi môi trưòng cảnh quan của địa phương. Ba lù, việc dựng ngôi nhà ngưòi Việt theo nguyên bản tại Bảo tàng phải đi liền vói việc sưu tầm hiện vật của phần nội thất ngôi nhà như: giường, tủ, bàn ghế, đồ dùng sinh hoạt khác, cũng phải theo nguyên bản mỏi có giá trị nghiên cứu khoa học, tính hấp dẫn vói công chúng. Bốn là, việc trung bày các hiện vật trong nội thất không thể thiếu được phần lễ tục. Bỏi vì, phần lễ tục được ví như mạch máu nuôi dưõng co thể sổng của phần kiến trúc, nhất là khi giỏi thiệu về phong tục, tập quán, cách thức sinh hoạt của gia đình ngưòi Việt. Năm là, ngôi nhà trưng bày ỏ Bảo tàng phải hội đủ các điều kiện về mặt kiến trúc, mỹ thuật, phong tục, tập quán, nếp sống sinh hoạt, văn hoá gia đình một cách đầy đủ để giổi thiệu cho khách thăm quan nghiên cứu. 247
- LỊCH TRE CỦA NGƯÒl MƯÒNG CHU VĂN K H ÁNH "Lịch Tre" là một di sản văn hoá truyền thống độc đáo của ngưòi Mưòng cồn được lưu truyền đến ngày nay. Trải qua thăng trầm lịch sử vỏi bao nhiêu biến động của thòi gian, cùng quá trĩnh giao lưu văn hoá trong nội địa và khu vực, lịch Mưòng không cồn nguyên bản, nhung sự hiện diện của nó cũng đủ minh chứng cho sự tồn tại của những trí thức về tự nhiên cùa ngưòi Mưồng đã phát triển đến một trình độ nhất định. Điêu khó khăn nhất trong quá trình khảo cứu lịch Mưòng là hệ thống cơ sỏ thiên văn và lịch pháp đâ bị mai một, nhung chúng tôi cũng mạnh dạn đưa ra những giả thuyết trong chừng mực các cứ liệu khoa học cho phép. I. CẤU TẠO LỊCH MƯỜNG Ngưồi Mưòng gọi bộ lịch của họ là Sách Đoi (hay Khách Doi) vì nó lấy sự vận hành của sao Đoi và Mặt Trăng để tính lịch, còn gọi là "Lịch Tre" bỏi nội dung lịch đưộc khắc trên các thẻ tre. Một bộ lịch hoàn chỉnh bao gồm 12 thẻ tre, trên đó khắc những vạch ký hiệu ngày, tháng và các hiện tượng tự nhiên khác. Những ký hiệu này không được chuẩn hoá thành hệ thống chung, mà mỗi khu vực có những quy ưổc riêng. Có thể chia làm 3 phần chính: 1) phần tháng được vạch ỏ phần đầu thẻ tre, mỗi tháng có một ký hiệu tương ứng; 2) phần ngày được khắc 248
- các khấc nhỏ bên sưòn của thẻ; 3) trong lòng thẻ ghi những ký hiệu ngày có hiện tượng tự nhiên: Đó là các ngày mưa, ngày bão - tròi có thể có mưa hay bão; ngày cá đi - có thể kiếm cá; ngày hao lỗ - tránh buôn bán hay trao đổi hàng hoá; còn ngày Doi vào có điều may mắn do ngoại cảnh đem đến nhưng tránh làm các việc lốn. Có nhiều vùng còn đưa vào lịch các ngày khách, ngày thú đi ăn, ngày ma... Những ký hiệu thường thấy ghi trên lịch tre Ngày D oi vào Ngày mưa Ngày bão Ngày cá Ngày lỗ »• • ■• > • •J /» ỉ,/ t V • , i Ngày được chia làm 16 giò, mỗi giò ứng vói 1,5 giò dương lịch, giò không được đo đếm bằng đồng hồ mà được xác định một cách rất "linh hoạt" thông qua các hiện tượng tự nhiên như: gà gáy, mặt tròi mọc, giữa ngày, mặt tròi lặn, mọi vật ngủ yên... Nếu lịch của dân tộc Chaldée tính ngày bắt đàu tù lúc mặt tròi mọc, lịch Ấ Rập tính ngày bắt đầu từ lúc mặt tròi lặn, còn lịch Trung Quốc tính ngày tù nửa đêm thì lịch Mưòng lại tính ngày bắt đầu từ thòi điểm trưỏc bình minh (Gà gáy). Dưỏi đây là tên gọi các giò trong lịch Mưòng (xem bảng tr. 250). Mỗi thẻ tre đều khắc 30 khấc ngày, chia làm 3 đoạn rõ ràng tưong úng vối 3 tuần trong tháng, gióng như cách chia tháng làm 3 tuần trong âm lịch: Thượng tuần - tuần Cây, Trung tuần - tuần Lôồng và Hạ tuần - tuần Cối. Riêng tuần Lôồng có lịch khác lệch sang cạnh kia của thẻ tre. 10 ngày đàu trong tháng đưộc gọi là ngày Cây 1, ngày Cây 2... ngày Cây 10; 10 ngày giữa tháng gọi là ngày Lôồng 1, ngày Lôồng 2... ngày Lôồng 10; 10 ngày cuối tháng được gọi là ngày Cối 1, ngày Cối 2... ngày Cối 10. Cách chia tháng làm 3 tuần mỗi tuần 10 ngày rất có thể 249
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nghiên cứu các nhân tố của mạng xã hội tác động đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh (HUFI)
9 p | 270 | 18
-
Nghiên cứu các nhân tố của mạng xã hội tác động đến kết quả học tập của sinh viên trường đại học công nghiệp thực phẩm TP. HCM (HUFI)
9 p | 154 | 11
-
Nghiên cứu các nhân tố của mạng xã hội tác động đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Công nghiệp thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (HUFI)
9 p | 101 | 8
-
Tình hình nghiên cứu về thơ ca của các nữ thi nhân trong Toàn Đường thi và Manyoshu
9 p | 83 | 6
-
Ebook Lịch sử tỉnh Hải Dương, Tập 4 (từ năm 1945 đến năm 2015): Phần 1
316 p | 11 | 4
-
Tích hợp phương pháp sư phạm kỹ thuật số trong hoạt động giảng dạy và học tập: Nghiên cứu về một trường đại học tư thục ở Việt Nam
10 p | 14 | 4
-
Hoạt động chuyển giao quyền đánh giá cho sinh viên trong công tác đào tạo kỹ năng mềm tại UFM: Một số kinh nghiệm và kết quả trong môi trường đào tạo trực tuyến
12 p | 35 | 4
-
Nghiên cứu xã hội học và dân số Việt Nam (Tập 1): Phần 2
157 p | 45 | 4
-
Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 5): Phần 1
216 p | 15 | 3
-
Giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học ở trường Đại học Thành Đô (Nghiên cứu trường hợp Khoa Du lịch – Ngoại ngữ)
8 p | 15 | 3
-
Nghiên cứu các mô hình phân loại văn bản để xây dựng chatbot tư vấn tuyển sinh
7 p | 21 | 3
-
Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố thuộc bản thân sinh viên đến kết quả học tập của sinh viên khóa 58 khoa kinh tế
5 p | 101 | 3
-
Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 2): Phần 1
239 p | 21 | 3
-
Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 1): Phần 2
311 p | 20 | 2
-
Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 1): Phần 1
286 p | 27 | 2
-
Tuyển tập các nghiên cứu thuộc lĩnh vực Bảo tàng dân tộc Việt Nam (Tập 5): Phần 2
327 p | 12 | 2
-
Xác định mối tương quan giữa hoạt động học tập và kết quả học tập học phần tiếng Anh cơ bản dựa trên phân tích dữ liệu nhật ký trên hệ thống đào tạo trực tuyến tại Trường Đại học Mở Hà Nội
11 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn