Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
lượt xem 5
download
Bài viết dựa trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và bất bình đẳng thu nhập, từ đó phân tích các khía cạnh tác động của nợ công đến tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam. Qua đó, đề xuất quản lý nợ công gắn với tăng trưởng kinh tế - xã hội, vay nợ công phải được sử dụng để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, sử dụng vốn vay hiệu quả, phối hợp đồng bộ trong điều hành chính sách nhằm phân phối nguồn lực công hướng tới mục tiêu thiên niên kỉ là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam Lê Thị Diệu Huyền Học viện Ngân hàng Những năm qua đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ nợ công của các quốc gia thông qua đẩy mạnh việc vay nợ nhằm thực hiện đầu tư bắt kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, việc gia tăng nợ công không được kiểm soát có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo và gia tăng bất bình đẳng. Trong nghiên cứu của Oxfarm (2017) đã chỉ ra con số, 8 tỷ phú đã sở hữu khối tài sản tương đương với một nửa người nghèo trên thế giới (khoảng 3,6 tỷ người). Lý do được đề cập ở đây chính sự phát triển của kinh tế đem lại lợi ích cho những người giàu nhất, bộ phận còn lại của xã hội, đặc biệt là những người nghèo dường như lại không được hưởng lợi. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018, hệ số GINI của Việt Nam đã đạt mức khoảng 0,4. Điều đáng lo ngại là bất bình đẳng thu nhập tăng trong hai thập kỷ qua và số người giàu đang chiếm phần thu nhập quá lớn. Gánh nặng nợ công càng gia tăng trên vai người dân trong khi đó xu hướng gia tăng khoảng cách giàu nghèo càng trở nên trầm trọng. Bài viết dựa trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và bất bình đẳng thu nhập, từ đó phân tích các khía cạnh tác động của nợ công đến tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam. Qua đó, đề xuất quản lý nợ công gắn với tăng trưởng kinh tế - xã hội, vay nợ công phải Public debt and Income inequality: From theory to pratice in Vietnam Abstract: Over the past few years, there has been a dramatic increase in public debt of countries. However, uncontrolled increase in public debt may cause poverty and income inequality. In Vietnam, income inequality has increased over the past two decades when the burden of public debt has been increasing on the shoulders of each people. The paper shows the relationship between public debt and income inequality, then analyzing the impact of public debt on income inequality in Vietnam. Therefore, management of public debt need to associate with socio-economic growth, public debt must be used to invest to stimulate economic growth, loans must to be used efficiently and coordinating in policy to distribute public resources towards the millennium goal of eradicating poverty and social equality. Keywords: Public debt, Income inequality, Economic growth Huyen Thi Dieu Le Email: huyenltd@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam Ngày nhận: 13/12/2019 Ngày nhận bản sửa: 10/01/2020 Ngày duyệt đăng: 05/02/2020 © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng ISSN 1859 - 011X 21 Số 216- Tháng 5. 2020
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam được sử dụng để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, sử dụng vốn vay hiệu quả, phối hợp đồng bộ trong điều hành chính sách nhằm phân phối nguồn lực công hướng tới mục tiêu thiên niên kỉ là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội. Từ khóa: Nợ công, bất bình đẳng thu nhập, tăng trưởng kinh tế. 1. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cận các dịch vụ công của người có thu nợ công và bất bình đẳng thu nhập nhập thấp, khiến bất bình đẳng gia tăng. Ngoài ra, nghiên cứu của Domaski và Nghiên cứu trong nước và nước ngoài cộng sự (2016) phát hiện sự gia tăng bất cho thấy vấn đề bất bình đẳng và nợ công bình đẳng thu nhập hộ gia đình tại các có những mối quan hệ cụ thể khác nhau, nước phát triển bằng cách xem xét tác các nghiên cứu đều cho thấy các kênh động của vay nợ lên giá tài sản và nợ của truyền dẫn tác động của nợ công đến bất hộ gia đình, nghĩa là tác động của nợ lên bình đẳng thu nhập thông qua tăng trưởng bất bình đẳng ảnh hưởng thông qua chính kinh tế, giá tài sản, lãi suất, chi tiêu công, sách tiền tệ như lãi suất và giá tài sản, điều thuế... này đồng nghĩa với mức lãi suất thấp và tăng giá trái phiếu Chính phủ là nhân tố Một số nghiên cứu cho rằng bất bình gia tăng bất bình đẳng. Trong nghiên cứu đẳng thu nhập đang ngày càng gia tăng, của Azzimonti và cộng sự (2012) cũng nợ công có thể làm trầm trọng hơn vấn phân tích mối quan hệ giữa nợ công, hội đề này. Nghiên cứu của Cơ quan Nghiên nhập tài chính quốc tế và bất bình đẳng cứu quốc gia Mỹ (NBER, 2014) đối với thu nhập ở các quốc gia OECD cho thấy 44 quốc gia, đã kết luận rằng tăng trưởng Chính phủ có xu hướng duy trì nợ công kinh tế sẽ giảm trung bình 4% khi nợ công cao khi thị trường tài chính hội nhập quốc vượt ngưỡng 90% GDP; về mặt xã hội, tế sâu hơn và bất bình đẳng thu nhập gia khủng hoảng nợ công gây ra thất nghiệp, tăng. Cùng với kết quả đó, nghiên cứu của bất ổn và bất bình đẳng. Điều này cho Chatzouz (2014) và Floden (2011) phân thấy, gia tăng nợ công khiến tăng trưởng tích ở một số quốc gia khi thị trường tài kinh tế giảm, gia tăng bất ổn, thất nghiệp chính chưa phát triển thì việc gia tăng nợ tăng sẽ làm gia tăng bất bình đẳng trong Chính phủ tác động thông qua nhiều yếu xã hội. Nghiên cứu của Victor Amourreux tố, trong đó nhấn mạnh về tác động tổng (2014) đưa ra kết luận rằng cuộc khủng thể. Ông cho rằng, khi Chính phủ sử dụng hoảng nợ công tại Anh vào thế kỉ thứ 19 thuế để trả nợ sẽ ảnh hưởng tới hành vi tiết đã dẫn đến việc tài sản được chuyển từ kiệm của người nghèo, có nghĩa là điều tầng lớp có thu nhập thấp và trung bình chỉnh nợ có thể ảnh hưởng tới thu nhập sang tầng lớp có thu nhập cao do Chính và tiết kiệm của người nghèo, vấn đề liên phủ tăng thuế nhằm tạo nguồn thu để trả quan tới tái phân phối các khoản nợ. nợ. Bên cạnh đó, để giải quyết gánh nặng nợ, Chính phủ phải cắt giảm ngân sách Một số nghiên cứu khác cho thấy những hỗ trợ cho các chương trình xã hội như tác động ngược chiều về việc gia tăng bất giáo dục, y tế,… làm giảm cơ hội tiếp bình đẳng thu nhập có thể ảnh hưởng đến 22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
- LÊ THỊ DIỆU HUYỀN mức nợ công thông qua kênh tăng trưởng phát triển và mở cửa nền kinh tế của TP. kinh tế. Nghiên cứu của Tibi (2015) cho HCM cũng đã tác động tiêu cực đến người thấy bất bình đẳng thu nhập có tác động nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ dương đến mức nợ công của quốc gia ở đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn hầu hết các quốc gia ngoại trừ các quốc thấp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngành gia ở Châu Âu và các nước phát triển. nông lâm thủy sản của thành phố thấp. Ngược lại, quy mô nợ công cũng có ảnh Tăng trưởng kinh tế giúp xóa đói giảm hưởng có ý nghĩa đến vấn đề phân phối nghèo trên diện rộng nhưng cải thiện tình thu nhập. Kết quả này làm nảy sinh câu trạng thu nhập của người nghèo lại phụ hỏi về khả năng kiểm soát nợ của Chính thuộc vào mô hình tăng trưởng kinh tế. phủ để giảm bất bình đẳng thu nhập. Người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh Trong nghiên cứu của Aksman (2017) tế nhiều hơn người nghèo và như vậy đã cũng xem xét tác động của đói nghèo và làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo bất bình đẳng thu nhập lên nợ công ở các giữa nội thành và ngoại thành. quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nhất Một số nghiên cứu cho thấy những tác định giữa cả đói nghèo và bất bình đẳng động chưa rõ ràng của nợ công đến bất thu nhập với tỷ lệ nợ công/GDP. Cùng bình đẳng thu nhập. Nghiên cứu của với đó, Hoàng Thủy Yến (2015) nghiên Sigrid và cộng sự (2017) cho rằng tác cứu tác động của bất bình đẳng thu nhập động của nợ công đến chênh lệch giầu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng nghèo phụ thuộc nhiều vào mức độ chênh chỉ ra một số nguyên nhân của bất bình lệch giầu nghèo. Nếu mức chênh lệch giàu đẳng thu nhập như đặc trưng của nhóm nghèo càng lớn thì nợ công có tác động dân số, sự khác biệt về địa lý, sự khác biệt mạnh đến phân hóa giàu nghèo trong dài về các động lực tăng trưởng nông nghiệp hạn, đối với mức chênh lệch giàu nghèo và phi nông nghiệp giữa các vùng, những chưa rõ rệt thì nợ công có mức độ tác thay đổi trong mô hình sản xuất, từ công động ít hơn. Nghiên cứu ở các quốc gia việc, tay nghề thấp đến công việc có kỹ Nam Á, Akram (2016) đã chỉ ra mặc dù năng cao. Do vậy, bất bình đẳng sẽ ảnh nợ công có tác động tiêu cực đến tăng hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy trưởng kinh tế nhưng nợ công nước ngoài nhiên, nghiên cứu này chưa xem xét liệu không có tác động đến bất bình đẳng thu có tác động đến vấn đề nợ công ra sao nhập. Tuy nhiên, nợ công trong nước thì khi tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Trong có mối quan hệ dương với hệ số GINI, do nghiên cứu của Lê Quốc Hội (2008) cho đó nợ trong nước tác động xấu đến người thấy bất bình đẳng thu nhập có thể xuất nghèo thông qua tăng trưởng kinh tế. Kết phát từ cơ cấu kinh tế, tức là phân bổ thu quả này tương đồng với kết quả nghiên nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ cứu của Salti (2011) tại 109 quốc gia trong công quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu giai đoạn 1990- 2007 cho thấy nợ công quả, thiếu những nguồn lực có thể trả nợ. trong nước đã tác động đến việc phân phối Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn thu nhập và từ đó càng làm gia tăng gánh Thị Hằng (2003) về các nguyên nhân của nặng nợ đối với người nghèo. nghèo đói và bất bình đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) cho thấy, dù tốc Các nghiên cứu cho thấy vấn đề bất bình độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng quá trình đẳng và nợ công có những mối quan hệ Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 23
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các kênh 42,2% GDP năm 2010 lên tới 46% GDP truyền dẫn như tăng trưởng kinh tế, thuế, năm 2018, tiến sát mức trần mà Quốc hội chi tiêu công, lãi suất, giá tài sản...Vì thế, cho phép. Tốc độ tăng nợ công trung bình với qui mô và tốc độ gia tăng nợ công lớn, cả giai đoạn khoảng 15- 17%, mặc dù không kiểm soát một cách chặt chẽ, cũng tốc độ tăng nợ trong hai năm trở lại đây như việc phối hợp chính sách tài khóa, đã giảm. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu chính sách tiền tệ trong phân bổ nguồn lực The Global Debt Clock, tỷ lệ nợ công trên công không nhịp nhàng có thể khiến gia đầu người tại Việt Nam đang có xu hướng tăng bất bình đẳng trong xã hội. gia tăng liên tiếp từ mức khoảng 15 triệu đồng/người năm 2010 lên mức khoảng 32 2. Nợ công và bất bình đẳng thu nhập ở triệu đồng/người năm 2018. Việt Nam Trong khi đó, bất bình đẳng của Việt Nam Qui mô và tốc độ tăng giảm nợ công có xu cũng có xu hướng tăng giảm cùng với nợ hướng tương đồng với sự gia tăng và cải công. Hệ số GINI theo thu nhập gia tăng thiện về bất bình đẳng thu nhập từ 0,42 năm 2012 lên 0,43 năm 2016 và sau đó giảm xuống còn 0,42 năm 2018. Sau khi Luật Quản lý nợ công lần đầu tiên Điều này cho thấy, có sự tương đồng trong tại Việt Nam được thông qua và có hiệu lực toàn giai đoạn khi nợ công có xu hướng năm 2010, nợ công có xu hướng ngày càng giảm xuống thì hệ số GINI cũng có giảm tăng nhanh cả về qui mô và tốc độ và có xu xuống trong hai năm trở lại đây. Mặc dù hướng chững lại trong 2 năm trở lại đây. mức giảm không nhiều nhưng cũng khẳng định mức nợ công đang được điều chỉnh Từ năm 2010, nợ công Việt Nam ở mức giảm và xu hướng bất bình đẳng thu nhập 56,3% GDP, tăng liên tục tới 63,7% năm cũng đang được dần cải thiện, cho thấy 2016 và có xu hướng giảm dần trong hai những dấu hiệu khả quan về mức độ bình năm trở lại đây và ở mức 58,4% GDP năm đẳng thu nhập. 2018. Trong khi đó, dư nợ Chính phủ năm 2010 ở mức 44,6% GDP tăng tới 52,7 năm So sánh với một số quốc gia Châu Á cho 2016 và giảm xuống 50% năm 2018 và dư thấy, hệ số GINI của Việt Nam đứng ở nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh từ mức trung bình, cao nhất là Trung Quốc Hình 1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2010- 2018 Đơn vị: % Nguồn: Tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5,6,7,8- Bộ Tài chính, 2018* là số ước tính 24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
- LÊ THỊ DIỆU HUYỀN Hình 2. Hệ số GINI của Việt Nam giai đoạn 2008- 2018 Nguồn: Tổng hợp từ Wealth Distribution and Income Inequality by Country (2018) với hệ số GINI là 0,51 và thấp nhất là kinh tế, mặc dù có sự cải thiện về hiệu quả Lào với hệ số GINI là 0,36. Theo Cornia đầu tư nhưng hiệu quả sử dụng nợ công ở và Court (2001), hệ số GINI nằm trong Việt Nam chưa cao. Bên cạnh đó, một số khoảng 0,30- 0,45 là phạm vi bất bình dự án vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài đẳng thu nhập trong vùng khá an toàn. của Chính phủ, dự án được Chính phủ bảo Với ngưỡng này, mức độ bất bình đẳng lãnh khó khăn trong trả nợ. Tình trạng số thu nhập là chấp nhận được để đánh đổi dự án được phê duyệt nhiều, điều chỉnh đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Dựa trên tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban số liệu GINI thực tế, có thể thấy rằng bất đầu, giải ngân vốn vay vẫn còn chậm trễ, bình đẳng thu nhập của Việt Nam vẫn nằm các dự án, công trình thi công dở dang, trong vùng an toàn nhưng có xu hướng chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ... còn tăng lên nếu không kiểm soát tốt. nhiều. Điều này cùng với thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công, hoạt động của Hiệu quả sử dụng các khoản nợ, cấu trúc các doanh nghiệp Nhà nước và các tập nợ an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, nợ có những tác động không nhỏ tới kích thất thoát vốn đầu tư lớn. Một số dự án thích đầu tư và cải thiện mức thu nhập cho đầu tư không trả được nợ, phải tái cơ cấu người dân nợ khiến gia tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ. Trong tổng đầu tư vốn của Nhà nước vẫn chủ yếu từ ngân sách (Hình 3) nhưng Bên cạnh đó, theo số liệu của Bản tin nợ cũng có xu hướng giảm dần thay thế bằng công của Bộ Tài Chính, cấu trúc nợ công nguồn vốn vay. Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam chủ yếu vẫn là nợ Chính phủ giai đoạn 2010- 2018, ICOR của Việt Nam (trung bình khoảng 70% tổng nợ công), giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11 nợ của Chính phủ bảo lãnh chủ yếu là năm 2017 và 5,97 năm 2018, bình quân nợ của doanh nghiệp, của các tổ chức tài giai đoạn 2016- 2018, hệ số ICOR ở mức chính, tín dụng vay trong nước và khoản 6,17, thấp hơn so với hệ số 6,2 của giai vay nước ngoài chiếm khoảng 17%, nợ đoạn 2010- 2015. Kết quả này cho thấy của Chính quyền địa phương chiếm tỷ việc vay nợ tập trung đầu tư phát triển trọng nhỏ khoảng 3%. Trong quá trình cơ Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 25
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam Hình 3. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của khu vực Nhà nước giai đoạn 2010- 2018 Đơn vị: % Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê 2018* là số ước tính Hình 4. Cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2010- 2018 Đơn vị: % Nguồn: Tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5,6,7,8- Bộ Tài chính 2018* là số liệu ước tính cấu lại danh mục nợ theo hướng an toàn và trả nợ vay về cho vay lại không xảy ra nhưng nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng tình trạng nợ quá hạn, các chỉ tiêu vẫn ở đáng kể, trong đó vay ODA và các khoản trong phạm vi kiểm soát và giới hạn được vay ưu đãi chiếm trên 90% danh mục duyệt là 25% theo quy định của Quốc hội. nợ vay nước ngoài, ODA chiếm khoảng Tuy nhiên, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ 75%. Nếu trước năm 2010, thời gian trả có xu hướng ngày càng tăng cả về con số nợ trung bình đối với các khoản vay ODA tuyệt đối lẫn tương đối, điều này gây áp (bao gồm cả giai đoạn gia hạn) là 30- 40 lực đối với việc sắp xếp nguồn để trả nợ năm với mức lãi suất khoảng 0,7- 0,8%/ của ngân sách, khả năng cân đối nguồn bố năm. Đến giai đoạn sau 2010, thời gian trả trí chi trả nợ hàng năm chưa tương xứng nợ giảm xuống còn 10- 20 năm và mức với nghĩa vụ trả nợ đến hạn, vay đảo nợ lãi suất tối thiểu là 2%/năm. Bên cạnh tăng nhanh với khối lượng lớn trong nhiều đó, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với năm, tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ nếu không thu ngân sách không có sự biến động quá được kiểm soát tốt. lớn, nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
- LÊ THỊ DIỆU HUYỀN Hình 5. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo khu vực thành thị- nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2018 Đơn vị: nghìn đồng Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động thương binh xã hội 2018* là số liệu sơ bộ Hơn nữa, từ tháng 7/2017, Việt Nam trở chọn và chuẩn bị các dự án đầu tư công thành quốc gia có thu nhập trung bình, đem lại hiệu quả để phát triển kinh tế- xã không còn là nước có thu nhập thấp nên hội bền vững, đồng thời nâng cao hiệu quả sẽ không được vay theo điều kiện ODA sử dụng các khoản nợ, cấu trúc nợ công an mà tiến tới vay theo điều kiện thị trường, toàn sẽ đảm bảo nguồn thanh toán chi trả áp lực gia tăng trả nợ càng cao. Trong khi nợ, sẽ góp phần thực hiện đầu tư cho các đó, nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế chương trình phát triển kinh tế, cải thiện ngày càng lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đời sống, tăng thu nhập của người dân, tăng phúc lợi xã hội nhằm cải thiện đời góp phần xóa đói giảm nghèo. sống của người dân. Theo số liệu tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, thực tế hiện Khi các khoản nợ không được chi trả, việc nay ở Việt Nam, mức độ bất bình đẳng về Chính phủ dự kiến tăng thuế, cùng với quá thu nhập ở hai khu vực thành thị và nông trình đô thị hoá nhanh chóng dẫn đến phát thôn rất khác nhau. Cụ thể, thu nhập bình sinh nhiều vấn đề xã hội mới liên quan quân đầu người/tháng ở thành thị năm đến bất bình đẳng như nông dân mất việc 2010 mới chỉ là 2.130 nghìn đồng, sau đó làm, di cư lao động từ nông thôn ra thành tăng lên đến 5.523 nghìn đồng năm 2018, thị… Cùng với đó các khoản chi tiêu công trong khi đó khu vực nông thôn tương tăng lên nhưng chưa thực sự giúp cho ứng là 762 nghìn đồng năm 2010 và 2.940 người nghèo tiếp cận với các dịch vụ công nghìn đồng năm 2018 (Hình 5). Từ năm với chất lượng tốt, điều này khiến phân 2016 xu hướng về mức độ bất bình đẳng hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng. Bất về thu nhập cũng dần được cải thiện giữa bình đẳng gia tăng, đòi hỏi nhà nước cần khu vực thành thị và nông thôn cùng với phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, xã hội, đến năng cao hiệu quả sử dụng vốn vay thu nhập và mức sống của quốc gia. Tuy mà không làm gia tăng gánh nặng nợ đối nhiên, nếu như trước đây, bất bình đẳng với người dân. thu nhập ở khu vực thành thị thường cao hơn nông thôn thì sau năm 2010, bất bình Phân bổ nguồn vốn vay đang tạo ra sự đẳng thu nhập ở thành thị có xu hướng bất bình đẳng giữa các vùng lãnh thổ, địa giảm nhưng vẫn tăng nhanh hơn ở khu phương, vùng miền vực nông thôn. Điều này cho thấy, cần lựa Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 27
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam Theo báo cáo của Chính phủ năm 2018, người giàu giàu nhanh hơn người nghèo. việc phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn Thực tế cho thấy, thu nhập bình quân vay nợ công còn dàn trải, phát sinh những đầu người của hộ nghèo đã tăng lên và tỷ rủi ro từ các dự án sử dụng vốn dẫn đến lệ hộ nghèo đã giảm mạnh. Cụ thể, tỷ lệ không trả được nợ, Chính phủ phải trả nợ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm, nếu thay, thiếu gắn kết giữa quyết định đầu năm 2010 cả nước có 14,2% số hộ nghèo tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ, chưa gắn nhưng đến 2018, tỷ lệ này giảm xuống còn trách nhiệm vay và trả nợ với việc phân 5,4%. Trong khi đó, khu vực thành thị có bổ, sử dụng nợ công... Bên cạnh đó, việc tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và năm 2018 huy động nguồn lực ODA chưa có chiến chỉ ở mức 1,88% thì ở khu vực nông thôn, lược, thiếu tập trung, chưa có trọng tâm, tỷ lệ này vẫn là 6,9%, chênh lệch tỷ lệ trọng điểm. Tại nhiều địa phương cho nghèo giữa khu vực nông thôn và khu vực thấy, dự án có quy mô nhỏ lẻ, không mang thành thị khá lớn. Điều này cho thấy, tăng tính đồng bộ, chưa gắn kết với quy hoạch thu nhập của người dân chưa bền vững, tổng thể, kế hoạch, phân bổ vốn vay nhiều có nghĩa là thu nhập bình quân đầu người trường hợp chưa sát với nhu cầu thực tế, tăng lên nhưng khoảng cách thu nhập giữa chất lượng kém. Tính đồng bộ, kết nối người giàu và người nghèo ngày càng lớn. của một số dự án chưa được chú trọng, chưa có sức lan tỏa và kết nối vùng, miền. Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc Điều này dẫn tới chênh lệch về thu nhập tế, vay nợ để thực hiện đầu tư đã tạo ra giữa nông nghiệp và công nghiệp, dịch những thuận lợi cho một số vùng, một số vụ, giữa thành thị và nông thôn, giữa lao ngành và một số bộ phận dân cư trong nền động trong các công ty nước ngoài và lao kinh tế. Tuy nhiên, việc định hướng chiến động khu vực trong nước. Nếu so sánh lược ưu tiên của Chính phủ đối với những khoảng cách chi tiêu, thu nhập của người địa phương nghèo vẫn chưa rõ ràng, có thể giàu và người nghèo được đại diện bởi tạo ra những lỗ hổng khiến cho chênh lệch nhóm 20% những người giàu nhất và 20% ngày càng lớn. những người nghèo nhất ở Việt Nam, sự chênh lệch này đã và đang gia tăng liên 3. Một số khuyến nghị tục và đáng kể. Sự chênh lệch về thu nhập tuyệt đối ở Việt Nam đang tăng lên nhanh, Vay nợ để đầu tư góp phần tăng trưởng tuy nhiên hiện tượng bất bình đẳng ở Việt kinh tế nhưng xa hơn là mở rộng khả năng Nam không phải là hiện tượng người giàu tiếp cận cho người nghèo hưởng lợi từ giàu lên, người nghèo nghèo đi mà là tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Bảng 1. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực thành thị, nông thôn của Việt Nam giai đoạn 2010- 2018 Đơn vị tính: % Năm 2010 2012 2014 2016 2018* Cả nước 14,2 11,1 8,4 5,8 5,4 Thành thị 6,9 4,3 3 2 1,88 Nông thôn 17,4 14,1 10,8 7,5 6,9 Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động thương binh xã hội 2018* là số liệu sơ bộ 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
- LÊ THỊ DIỆU HUYỀN Do vậy, khi vay nợ công và thực hiện Thứ ba, phân phối nợ công đang diễn ra phân phối tốt hơn nguồn lực công nhằm sự bất bình đẳng giữa các vùng miền, do giảm bất bình đẳng về thu nhập trong xã đó, các hoạt động đầu tư công cần được hội, cần tập trung vào một số vấn đề sau: cải thiện hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư công, cải thiện môi Thứ nhất, quản lý nợ công gắn với kết trường, cuộc sống của người dân. Cân đối hợp tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công các khoản giải ngân ODA cũng cần hướng bằng trong xã hội. Mô hình này xuất phát đến các tỉnh vùng sâu, xa, vùng khó khăn. từ nhu cầu tăng trưởng kinh tế đòi hỏi Thực hiện phân bổ vốn đầu tư, đặc biệt là phải có nguồn vốn lớn, vay nợ là điều các khoản vốn vay một cách hợp lý, ưu không thể tránh khỏi, nhưng việc gia tăng tiên đối với địa phương, vùng miền gặp nợ công phải được kiểm soát và phân bổ nhiều khó khăn , hướng đến người nghèo, vốn vay một cách hợp lý. Trong mô hình đảm bảo gánh nặng nợ không còn là nỗi lo này cần phát huy vai trò của khu vực Nhà của mỗi người dân. nước trong vấn đề định hướng và chiến lược ưu tiên rõ ràng trong phân bổ vốn Thứ tư, thực hiện chính sách an sinh xã vay, chỉ sử dụng vốn vay nước ngoài cho hội đối với những khu vực kém phát triển các lĩnh vực, dự án đầu tư công trong nước và đối với người nghèo. Điều này có thể không đáp ứng được hoặc khu vực tư nhân thực hiện thông qua nhiều kênh như thực không có động lực đầu tư do không có lợi hiện các chương trình trợ giúp về phát nhuận hoặc một số lĩnh vực đặc thù cần triển cơ sở hạ tầng, đất đai, vốn, các trợ nhà nước đầu tư để kiểm soát. Còn các giúp về dạy nghề, tạo việc làm, truyền đạt ngành, lĩnh vực khác để tư nhân đầu tư kinh nghiệm sản xuất, đồng thời, thực hiện hoặc phối hợp công tư nhằm mở rộng sự các ưu đãi về y tế, giáo dục, văn hoá, nhà tham gia của các bên vào chiến lược xoá ở… Do vậy, trong quá trình tăng trưởng đói giảm nghèo của quốc gia. kinh tế, cần kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội, Thứ hai, sử dụng các khoản vốn vay, đặc trong đó trọng tâm là xoá đói giảm nghèo, biệt là các khoản vay ưu đãi để khuyến giảm bất bình đẳng thu nhập. khích đầu tư, cung cấp những dịch vụ công có chất lượng cao hơn, giúp cho Thứ năm, phối kết hợp công cụ chính người nghèo và các nhóm yếu thế tiếp cận, sách pháp luật, quy hoạch, chính sách hưởng lợi nhiều hơn từ các khoản đầu tư. phân phối cùng với tài khóa và tiền tệ góp Điều này đồng nghĩa với việc đảm bảo đầu phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền tư tăng trưởng kinh tế tạo thu nhập của vững, bảo đảm công bằng xã hội. người nghèo tăng nhiều hơn, người nghèo được hưởng nhiều hơn những dịch vụ Chính vì vậy, từ nghiên cứu lý thuyết cho công nhằm góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ đến cơ sở thực tiễn tại Việt Nam cho thấy nghèo. Bên cạnh đó, người nghèo và nhóm gia tăng nợ công, sử dụng các khoản nợ người nghèo dễ bị tổn thương cũng cần không hiệu quả có những tác động không được tạo cơ hội tham gia, chủ động đối nhỏ tới kích thích đầu tư và cải thiện mức với các hoạt động phát triển kinh tế, giảm thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, phân nghèo cho bản thân và địa phương mình. bổ vốn vay không phù hợp, không trả được nợ có thể khiến tình trạng chênh lệch về thu Số 216- Tháng 5. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 29
- Vấn đề nợ công và bất bình đẳng thu nhập: Lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam nhập giữa các địa phương và gia tăng tình đầu tư, phân bổ và sử dụng vốn vay hiệu trạng bất bình đẳng thu nhập. Qua đó, đề quả, phối hợp trong điều hành chính sách xuất quản lý nợ công gắn với tăng trưởng nhằm phân phối nguồn lực công hướng tới kinh tế, vay nợ công phải được sử dụng để mục tiêu là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo Tài liệu tham khảo 1. Aksman, E. (2017). Do Poverty and Income Inequality Affect Public Debt? Gospodarka Narodowa, (6), 79-93. 2. Akram, N. (2016). Public debt and pro-poor economic growth evidence from South Asian countries. Economic research- Ekonomska istraživanja, 29(1), 746-757. 3. Azzimonti, M., De Francisco, E., & Quadrini, V. (2012). Financial globalization, inequality, and the rising public debt. American Economic Review, 104(8), 2267-2302. 4. Bộ Tài chính, Bản tin Nợ công số 5,6,7,8, năm 2016, 2017, 2018, 2019. 5. Chính phủ (2018), Quyết định số 195/BC-CP ngày 17/5/2018 về báo cáo sử dụng vốn vay và quản lý nợ công năm 2017 và kế hoạch năm 2018. 6. Chatzouz, M. (2014). Government Debt and Wealth Inequality: Theory and Insights from Altruism. 7. Cornia and Court (2001), Inequality, Growth and Poverty in the Era of Liberlization and Globalization”, UNU-WIDER, No. 4. Helsinki: United Nations University. 8. Domanski, M. Scatigna, A, Zabai (2016), Wealth inequality and monetary policy. 9. Floden, M. (2001). The effectiveness of government debt and transfers as insurance. Journal of Monetary Economics, 48(1), 81-108. 10. Hoàng Thủy Yến (2015), tác động của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Luận án tiến sĩ. 11. Lê Quốc Hội (2008), The Linkages between Growth, Poverty and Inequality in Vietnam: An Empirical. 12. Nguyễn Thị Hằng (2003), Các nguyên nhân của nghèo đói và bất bình đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ. 13. Oxfarm (2017), Báo cáo bất bình đẳng, Báo cáo Nghiên cứu chính sách 12/1/2017. 14. Salti, N. (2015), Income inequality and the composition of public debt. Journal of Economic Studies, 42(5), 821-837. 15. Sigrid Röhrs, S., & Winter, C. (2017). Reducing government debt in the presence of inequality. Journal of Economic Dynamics and Control, 82, 1-20. 16. Tibi (2015), National debt and income inequality. 17. Victor Amourreux (2014), Public debt and its unequalizing effects, Master thesis disertation. 18. https://www.gso.gov.vn 19. http://www.molisa.gov.vn 20. https://www.gfmag.com/global-data/economic-data/wealth-distribution-income-inequality 21. https://www-cdn.oxfam.org/s3fs-public/file_attachments/bp-economy-for-99-percent-160117-en.pdf 22. https://admin.nber.org/xsearch?q=public+debt+and+inequality+2014&whichsearch=ftpub&restrict_papers=yes&fullr esults=1&datefilter=&b=search+again công bằng xã hội ■ 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 216- Tháng 5. 2020
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tài chính quốc tế: Bộ ba bất khả thi
40 p | 321 | 137
-
Thực trạng và thách thức nợ công ở Việt Nam
16 p | 111 | 12
-
kinh tế trung quốc - những rủi ro trung hạn: phần 2 - nxb thế giới
292 p | 106 | 11
-
ỨNG DỤNG TRONG QUẢN LÝ - TẠO LẬP TÍNH CÁCH CHO CON NGƯỜI - 5
19 p | 75 | 8
-
Bàn về chính sách quản lý nợ công của Việt Nam
6 p | 85 | 8
-
Rủi ro tiềm ẩn nợ công Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
11 p | 107 | 7
-
Tái cơ cấu đầu tư công nhìn trong mối tương quan hệ thống với sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia
4 p | 59 | 7
-
Chế định công nhận trong luật quốc tế
10 p | 91 | 5
-
Quá trình hình thành giáo trình bản chất và các hình thức tồn tại của giá trị thặng dư p1
5 p | 56 | 5
-
Tài chính cho phát triển bền vững ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách
28 p | 60 | 4
-
Nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
6 p | 46 | 4
-
Quá trình hình thành và phương pháp nắm vững một số vấn đề lý luận về kinh tế tư bản tư nhân p3
10 p | 82 | 4
-
Nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu phục vụ vận hành hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản
3 p | 10 | 4
-
Nợ công - Những vấn đề đặt ra
4 p | 85 | 3
-
Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
7 p | 100 | 3
-
Đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không được kiểm soát và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
8 p | 45 | 2
-
Nhật Bản nỗ lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số như thế nào?
12 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn