Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ ĐA DẠNG, HIỆU<br />
QUẢ CHO PHỤ NỮ VÀ EM GÁI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC<br />
XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN CỦA TỈNH QUẢNG NINH (*)<br />
Bùi Thúy Phượng(1) - Ngô Quang Sơn(2)<br />
<br />
P<br />
hụ nữ dân tộc thiểu số sống ở nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát<br />
triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và trong sự phát triển chung của đất nước. Nhưng<br />
trong thực tế hiện nay phụ nữ dân tộc thiểu số ở nông thôn còn gặp nhiều cản trở, sự đóng góp<br />
của chị em so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, cần quan<br />
tâm hợp lý đến phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn trong đó có đào tạo nghề, giải quyết việc làm.<br />
Từ khóa: Mô hình đào tạo nghề, phụ nữ và em gái dân tộc thiểu số, xã đặc biệt khó khăn,<br />
Quảng Ninh.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề nghiệp, nông thôn, trong phát triển nguồn nhân<br />
Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề lực của đất nước, nhưng phụ nữ DTTS nông<br />
hết sức quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới<br />
đặc biệt quan tâm trong những năm đổi mới vừa nông thôn và phụ nữ đô thị. Chính vì vậy, cần có<br />
qua. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII đã khẳng những quan tâm hợp lý đến phụ nữ DTTS nông<br />
định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn, thôn.<br />
thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các Dạy nghề đóng vai trò quan trọng trong<br />
dân tộc trong đổi mới công nghiệp hóa và hiện việc nâng cao chất lượng của lực lượng lao động<br />
đại hóa đất nước. Hơn 30 năm đổi mới, Đảng và nữ, tạo cơ hội tìm kiếm được việc làm có thu<br />
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, nhằm nhập ổn định, góp phần giảm nghèo và nâng cao<br />
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.<br />
thiểu số (DTTS) và miền núi, rút ngắn khoảng Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề<br />
cách giàu nghèo, tri thức giữa các dân tộc và án 295 “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai<br />
giữa các vùng miền trong cả nước. Nghị quyết đoạn 2020-2015”. Nghiên cứu giải quyết vấn đề<br />
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương đào tạo nghề dành cho phụ nữ DTTS nông thôn<br />
Đảng khóa IX đã nêu rõ 5 quan điểm về Công ngày càng có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc.<br />
tác dân tộc, trong đó có quan điểm thứ ba: “Phát 2. Điều tra, khảo sát và phân tích kết quả<br />
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội<br />
và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân Nhóm nghiên cứu đã chọn 02 huyện ở mức<br />
tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải trung bình về phát triển kinh tế - xã hội; mỗi<br />
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách huyện chọn 02 xã (trong đó, một xã có điều kiện<br />
dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn kinh tế phát triển và một xã có điều kiện kinh<br />
nhân lực,…” tế rất khó khăn). Mỗi xã chọn 01 trường THCS,<br />
01 Trung tâm học tập cộng đồng; mỗi huyện<br />
Phụ nữ DTTS sống ở nông thôn có vai trò chọn 01 Trường PTDTNT, 01 Trung tâm giáo<br />
hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông dục, hướng nghiệp và dạy nghề. Tổng cộng điều<br />
Bài báo là sản phẩm khoa học của Đề tài nghiên cứu cơ<br />
(*) tra, khảo sát ở 04 xã trong 02 huyện, 04 trường<br />
bản trong khoa học xã hội và nhân văn của Quỹ phát triển THCS, 04 Trung tâm học tập cộng đồng, 02<br />
Khoa học và Công nghệ Quốc gia: Nghiên cứu mô hình<br />
đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số các xã đặc biệt<br />
Trung tâm giáo dục, hướng nghiệp và dạy nghề,<br />
khó khăn khu vực Tây Nam Bộ, VI2.1-2013.1 02 Trường PTDTNT. Cỡ mẫu: Mỗi trường học,<br />
Ngày nhận bài: 12/2/2017. Ngày phản biện: 20/2/2017. Ngày duyệt đăng: 6/3/2017<br />
(1)<br />
Trường Đào tạo Cán bộ Nguyễn Văn Cừ, tỉnh Quảng Ninh Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
(2)<br />
Học viện Dân tộc; e-mail: ngoquangson@cema.gov.vn<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cơ sở giáo dục sử dụng 100 mẫu phiếu cho học chuyên môn kỹ thuật mong muốn được học nghề<br />
sinh nữ DTTS; mỗi xã sử dụng 150 mẫu phiếu để tìm việc làm có chuyên môn kỹ thuật. Nhóm<br />
cho phụ nữ DTTS. Tổng cộng số phiếu khảo sát phụ nữ DTTS từ 40 đến 44 tuổi có nhu cầu học<br />
là 1.800 phiếu, trong đó có 1.200 phiếu cho học nghề để chuyển đổi việc làm vì không còn đất<br />
sinh nữ DTTS ở các trường học và cơ sở giáo sản xuất nông nghiệp,...<br />
dục, 600 phiếu cho phụ nữ DTTS ở 04 xã.<br />
Những nhóm chiếm tỷ lệ thấp gồm nhóm<br />
Đồng thời sẽ tiến hành phỏng vấn sâu một dưới 20 tuổi và nhóm trên 50 tuổi. Nhóm phụ<br />
số đối tượng để có thêm thông tin khách quan. nữ DTTS nông thôn trên 50 tuổi ít có nhu cầu<br />
2.1. Nhận thức về nhu cầu học nghề của học nghề ở độ tuổi này. Nhóm phụ nữ dưới 20<br />
phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn ở các xã đặc tuổi ít có nhu cầu học nghề. Ưu tiên của nhóm<br />
biệt khó khăn tỉnh Quảng Ninh này là: Tiếp tục học phổ thông, sau đó sẽ thi đại<br />
học; nhóm đã thôi học muốn tìm việc làm, có thu<br />
Những yếu tố và yêu cầu chuyển dịch cơ nhập ngay.<br />
cấu kinh tế tạo ra sự chuyển dịch rất lớn đối<br />
với lao động nữ DTTS ở nông thôn, từ dịch + Trình độ học vấn: Có 87,6% phụ nữ<br />
chuyển kỹ năng đến dịch chuyển nghề nghiệp, DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề trong mẫu<br />
dịch chuyển nơi sinh sống. Có một số xu hướng khảo sát đã tốt nghiệp THCS trở lên, đủ điều<br />
chuyển dịch sau: kiện tuyển sinh học nghề ở các cấp trình độ sơ<br />
cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Tuy<br />
- Chuyển dịch kỹ năng: Từ nông dân sản nhiên vẫn còn tới 12,7% phụ nữ DTTS nông thôn<br />
xuất truyền thống sang nông dân sản xuất hiện đại; mới chỉ tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt nghiệp<br />
- Chuyển dịch nghề nghiệp: Từ lao động tiểu học, nhóm này chỉ đủ điều kiện tham gia các<br />
nông nghiệp (nông dân) sang lao động phi nông khoá dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng.<br />
nghiệp ở nông thôn;<br />
+ Nhận thức, hiểu biết của phụ nữ DTTS<br />
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi làm nông thôn về học nghề và hệ thống chính sách<br />
việc: Từ lao động nông nghiệp hoặc lao động dạy nghề: Trong những năm qua, chính quyền<br />
phi nông nghiệp ở nông thôn trở thành lao động địa phương và Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp đã<br />
công nghiệp tại các khu công nghiệp, dịch vụ ở có nhiều nỗ lực trong tuyên truyền cho người<br />
nông thôn; dân nói chung và phụ nữ DTTS nông thôn nói<br />
- Chuyển dịch nghề nghiệp và nơi sinh sống: riêng về dạy nghề.<br />
Từ lao động nông thôn chuyển thành lao động công + Phụ nữ DTTS nông thôn có chuyển biến<br />
nghiệp, dịch vụ ở các đô thị (mới và cũ). trong hiểu biết, nhận thức về việc học nghề còn<br />
Từ các xu hướng này cho thấy, để đạt được thấp: Mặc dù đã được tuyên truyền, phổ biến<br />
mục tiêu đề ra, nhu cầu về đào tạo nói chung nhưng họ chưa thực sự tin tưởng việc học nghề<br />
và đào tạo nghề cho lao động nữ DTTS nông sẽ giúp họ thay đổi được tương lai. Học nghề<br />
thôn là rất lớn. Kết quả điều tra qua mẫu phiếu, vẫn là lựa chọn cuối cùng đối với nhóm phụ nữ<br />
kết hợp với ý kiến thu nhận được từ các cuộc DTTS nông thôn trẻ không thể thi đỗ vào đại học,<br />
toạ đàm, phỏng vấn sâu tại 04 xã cho thấy thực cao đẳng. Phần lớn chị em vẫn cho rằng “chỉ có<br />
trạng nhận thức và nhu cầu học nghề của phụ nữ hai con đường chính là thoát ly học đại học, cao<br />
DTTS nông thôn như sau: đẳng; hoặc ở địa phương làm nông nghiệp, làm<br />
công nhân khu công nghiệp, kinh doanh, làm<br />
+ Nhóm phụ nữ DTTS nông thôn có nhu<br />
nghề truyền thống,… không đi học nghề vẫn làm<br />
cầu học nghề: Nhóm phụ nữ DTTS từ 20 đến 24<br />
được những việc này”.<br />
tuổi và nhóm phụ nữ DTTS từ 40 đến 44 tuổi<br />
chiếm tỷ trọng cao nhất, tương ứng là 22,7% và 2.2. Định hướng nghề nghiệp, tư vấn học<br />
20,5%. Nhóm phụ nữ DTTS từ 20 đến 24 tuổi nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn ở<br />
mới vào thị trường lao động, chưa có trình độ các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Quảng Ninh<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 19<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Việc định hướng lựa chọn nghề nghiệp, tư biến, chế tạo”, cụ thể là chế biến lương thực-thực<br />
vấn học nghề cho phụ nữ DTTS nông dân đóng phẩm, sơ chế sản phẩm nông-lâm-thuỷ sản sau<br />
vai trò quan trọng cho việc chuẩn bị gia nhập/tái thu hoạch,… lý do để phụ nữ DTTS nông thôn<br />
gia nhập/dịch chuyển/di chuyển trong thị trường lựa chọn học những nghề này để chế biến các<br />
lao động. Có đến 62,7% phụ nữ DTTS nông thôn sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp của hộ gia đình<br />
trong mẫu khảo sát đã tự định hướng được nghề mình, làm gia tăng giá trị sản phẩm, tăng thu<br />
nghiệp cho bản thân, chia ra những người đủ khả nhập, giảm dần tình trạng bán sản phẩm thô với<br />
năng tự quyết định; những người không có khả lợi nhuận thấp. Phụ nữ DTTS nông thôn muốn<br />
năng tự quyết định, nhưng không tìm được sự hỗ tạo thành chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp,...<br />
trợ, tư vấn bên ngoài (nhóm phụ nữ DTTS nông nghề may cũng được một số ít phụ nữ DTTS<br />
thôn nghèo, trình độ thấp,… ). nông thôn ở vùng thuần nông, nghèo, thiếu việc<br />
làm lựa chọn nhằm tìm việc làm ở khu công<br />
Hơn 47,5% phụ nữ DTTS nông thôn trong<br />
nghiệp hoặc tự mở cửa hàng may tại cộng đồng.<br />
mẫu khảo sát đã được định hướng nghề nghiệp<br />
Hiện tại nghề may không còn hấp dẫn do thu<br />
từ cán bộ địa phương, đặc biệt từ cán bộ Hội Liên<br />
nhập không cao, thời gian làm việc kéo dài, bình<br />
hiệp Phụ nữ, các Trung tâm hướng nghiệp, dạy<br />
quân trên 10 giờ/ngày.<br />
nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung<br />
tâm học tập cộng đồng, thông qua các buổi họp, Các nghề thuộc lĩnh vực “phục vụ cá nhân,<br />
sinh hoạt đoàn thể, cán bộ địa phương đã tích cực công cộng” như: Nấu ăn, chăm sóc sắc đẹp,<br />
trao đổi, cung cấp thông tin, tư vấn nghề nghiệp dịch vụ chăm sóc gia đình,… được 17% phụ nữ<br />
cho phụ nữ DTTS nông thôn. DTTS nông thôn trong mẫu khảo sát lựa chọn.<br />
Lý do phụ nữ DTTS nông thôn chọn nghề này<br />
Trong thời đại kỹ thuật số, phương tiện<br />
vì dễ dàng tự mở kinh doanh như dịch vụ nấu<br />
thông tin đại chúng hiện đại như Tivi, đài, báo,<br />
cỗ thuê cho các cơ quan, tổ chức, trường học, hộ<br />
Internet,… phát triển mạnh từ thành thị tới nông<br />
gia đình,… mở cửa hàng ăn uống, mở cửa hàng<br />
thôn đã tạo thuận lợi cho phụ nữ DTTS nông<br />
làm tóc,… hoặc ra thành thị làm giúp việc hộ<br />
thôn tiếp cận được thông tin giúp định hướng<br />
gia đình, chăm sóc người ốm,… học nghề này<br />
nghề nghiệp. Có 32,3% phụ nữ DTTS nông thôn<br />
do không đòi hỏi cao về trình độ học vấn nên dễ<br />
trong mẫu điều tra tại các tỉnh đã tìm hiểu thông<br />
học, dễ tiếp thu do công việc rất gần gũi với công<br />
tin từ các kênh này để tự định hướng nghề nghiệp việc hàng ngày của phụ nữ DTTS nông thôn.<br />
cho bản thân. Cha mẹ và những nguời thân trong<br />
gia đình vẫn có vị trí nhất định trong định hướng 2.4. Trình độ đào tạo cho phụ nữ dân tộc<br />
nghề nghiệp cho phụ nữ DTTS nông thôn (tương thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh<br />
ứng là 17,7% và 14%). Sơ cấp nghề, học nghề ngắn hạn dưới 3<br />
2.3. Nhu cầu về nghề của phụ nữ dân tộc tháng là lựa chọn của nhiều phụ nữ DTTS nông<br />
thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh thôn trong mẫu khảo sát (tương ứng là 49,2% và<br />
41,7%). Lý do họ lựa chọn đào tạo nghề ngắn<br />
Nghề được nhiều phụ nữ DTTS nông hạn và sơ cấp vì không yêu cầu trình độ tuyển<br />
thôn trong mẫu khảo sát lựa chọn (52,6%) vẫn sinh đầu vào, phù hợp với nhóm phụ nữ DTTS<br />
thuộc lĩnh vực sản xuất nông-lâm-thuỷ sản như: nông thôn có trình độ học vấn thấp; thời gian<br />
Kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, học nghề ngắn, phù hợp với phụ nữ DTTS nông<br />
gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản,…. Nhóm phụ nữ thôn đã có gia đình, con nhỏ có thể vừa học vừa<br />
DTTS nông thôn này muốn gắn bó với sản xuất làm, không phải đi học xa, chi phí ít; có nhiều<br />
nông nghiệp, tuy nhiên họ mong muốn thay đổi chính sách, chương trình/dự án hỗ trợ học nghề<br />
kỹ thuật sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật để miễn phí; chương trình, nội dung học nghề ngắn<br />
có năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn. gọn, sát với thực tiễn, dễ áp dụng và áp dụng<br />
Nghề được 40,5% phụ nữ DTTS nông vào công việc được ngay. Nhận thức về học<br />
thôn mong muốn được học thuộc lĩnh vực “chế nghề còn hạn chế, tâm lý “trọng bằng cấp” cũng<br />
<br />
20 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
còn ảnh hưởng nhiều đến sự lựa chọn của phụ học nghề tại xã. Những vùng thuần nông như địa<br />
nữ DTTS nông thôn về cấp đào tạo nghề. Tỷ lệ bàn khảo sát, 95,5% phụ nữ DTTS nông thôn chỉ<br />
phụ nữ DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề muốn được học nghề ngay tại xã. Tham gia hình<br />
trình độ trung cấp và cao đẳng nghề tương ứng thức học nghề này, các phụ nữ DTTS nông thôn<br />
là 18,2% và 5,8%. Nhóm này đa số ở nhóm tuổi không phải thu xếp công việc gia đình, không bị<br />
25 trở xuống, rất ít chị ở nhóm tuổi 25-35, có xáo trộn lớn trong đời sống, sinh hoạt. Vì vậy,<br />
trình độ học vấn từ THCS trở lên. Hiện nay, phụ nhiều phụ nữ DTTS nông thôn sẽ có cơ hội được<br />
nữ DTTS nông thôn có đặc điểm như đã lập gia học nghề, cải thiện việc làm.<br />
đình, có con nhỏ, trung tuổi, ở vùng nghèo, vùng<br />
3. Nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo<br />
DTTS rất “ngại ngần” khi nói đến trường cao<br />
nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số nông thôn<br />
đẳng hay trung cấp nghề.<br />
tỉnh Quảng Ninh<br />
2.5. Hình thức đào tạo cho phụ nữ dân<br />
Dạy nghề cho lao động nữ DTTS nông<br />
tộc thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh<br />
thôn vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa xã<br />
Hình thức đào tạo được nhiều phụ nữ hội và nhân văn sâu sắc. Chính vì vậy, phải tổ<br />
DTTS nông thôn lựa chọn nhất là kèm cặp, chức dạy nghề thiết thực với bà con nông dân,<br />
truyền nghề 48,5% và bồi dưỡng, cập nhật kiến vừa đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội. Do tính<br />
thức, kỹ năng nghề 34,9%. Nhóm phụ nữ DTTS đặc thù của lao động nông thôn, việc đào tạo<br />
nông thôn trung tuổi, phụ nữ DTTS nông thôn, nghề cho lao động nông thôn cần phải có những<br />
phụ nữ DTTS nông thôn có trình độ thấp, phụ cách thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối<br />
nữ DTTS ở các làng nghề truyển thống rất ưa tượng. Để xây dựng được các mô hình dạy nghề<br />
thích loại hình đào tạo này vì phù hợp với khả phù hợp, theo chúng tôi phải triển khai những<br />
năng tiếp thu, năng lực của họ. Có 22,7% phụ nữ hoạt động như:<br />
DTTS nông thôn có nhu cầu học nghề chính quy,<br />
- Trước hết, cần phải triển khai các hoạt<br />
tập trung. Phần lớn là nhóm phụ nữ DTTS nông<br />
động điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng nhân lực<br />
thôn trẻ đang học ở các trường PTDTNT THCS<br />
qua lao động, qua đào tạo nghề trong các ngành<br />
và PTDTNT THPT, có trình độ học vấn đạt tiêu<br />
kinh tế, vùng kinh tế và từng địa phương. Việc<br />
chuẩn tuyển sinh của các trường nghề (tốt nghiệp<br />
“nắm” nhu cầu phải đi trước một bước và phải<br />
THCS, THPT). Họ thực sự mong muốn có cơ<br />
triển khai thường xuyên với quy mô và mức độ<br />
hội thay đổi nghề nghiệp, cải thiện cuộc sống; họ<br />
chấp nhận học xa nhà, chấp nhận chương trình khác nhau để kịp thời bổ sung những thông tin<br />
học tập khó khăn, nhiều thách thức hơn. nhu cầu về những nghề mới với quy mô và trình<br />
độ phù hợp. Nhu cầu sử dụng lao động chính là<br />
2.6. Địa điểm đào tạo cho phụ nữ dân tộc “đầu ra” của đào tạo, qua đó có thể biết được cần<br />
thiểu số nông thôn tỉnh Quảng Ninh đào tạo những nghề gì và với trình độ nào.<br />
Một trong những điểm cần chú ý khi tổ - Thứ hai, đồng thời với việc nắm thông tin<br />
chức các khoá dạy nghề cho phụ nữ DTTS nông về nhu cầu sử dụng lao động, cần thiết phải khảo<br />
thôn là họ không muốn đi học xa nhà. Trong mẫu sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nghĩa là cần<br />
điều tra, chỉ có 6% phụ nữ DTTS nông thôn có có sự phân nhóm đối tượng để tổ chức các khoá<br />
nhu cầu học nghề ở tỉnh khác do muốn được học đào tạo cho phù hợp. Do đặc thù của sản xuất ở<br />
ở trường nghề có uy tín, hoặc do tin tưởng sự nông thôn là có thể sử dụng lao động từ rất trẻ<br />
giới thiệu của người thân, quen. 94% còn lại chỉ cho đến sau độ tuổi lao động (theo quy định của<br />
mong muốn được học nghề trong địa bàn tỉnh, pháp luật lao động). Vì vậy, có thể có những đối<br />
huyện, xã đang sinh sống (cùng xã, cùng huyện, tượng chỉ có thể tham gia được các khoá đào tạo<br />
trong tỉnh). ngắn hạn, nhưng cũng có nhóm đối tượng (ví dụ<br />
Nhóm phụ nữ DTTS nông thôn đã có gia nữ DTTS từ 16 - 24 tuổi) có thể và có điều kiện<br />
đình, nhóm trên 35 tuổi đa số mong muốn được tham gia các khoá đào tạo dài hạn. Mặt khác, cần<br />
<br />
Số 17 - Tháng 3 năm 2017 21<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thiết phải phân các nhóm đối tượng trên trình độ gia vào quá trình đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ<br />
học vấn. Đối với những người có trình độ học hội cho người học được tham gia vào quá trình<br />
vấn thấp, họ có thể theo học các khoá dạy nghề sản xuất của doanh nghiệp từ khi còn học và sau<br />
ngắn hạn. khi học nghề xong là có thể làm việc được ngay<br />
với nghề nghiệp của mình.<br />
- Thứ ba, đối với nhóm đối tượng nữ DTTS<br />
nông dân đào tạo để có thể làm nông nghiệp hiện Theo chúng tôi, trước mắt cần phải tổ chức<br />
đại, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, người đào tạo thí điểm cho các nhóm đối tượng, với<br />
DTTS nông dân làm việc theo mùa vụ, nên các hình thức và phương thức đào tạo khác nhau để<br />
khoá đào tạo cần gắn với việc vừa học vừa làm tìm ra được những mô hình đào tạo phù hợp nhất<br />
việc của người nông dân, hoặc phải lựa chọn thời đối với các nhóm đối tượng lao động nữ nông<br />
gian nông nhàn của người DTTS để tổ chức các dân người DTTS khác nhau để từ đó có kinh<br />
khoá học cho phù hợp. nghiệm nhân rộng ra tất cả các vùng, miền trong<br />
cả nước.<br />
- Thứ tư, mục tiêu dạy nghề cho lao động<br />
nữ DTTS nông dân là tạo cho họ có một nghề để Tài liệu tham khảo<br />
có thể tự tạo việc làm trong nông nghiệp (tăng 1. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa<br />
năng suất lao động) hoặc tìm được việc làm phi XHCN Việt Nam, Quyết định số 630/QĐ-TTg<br />
nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài nông thôn). ngày 29/5/2012 phê duyệt chiến lược dạy nghề<br />
Nói cách khác, dạy nghề cho lao động nữ DTTS thời kỳ 2011 - 2020;<br />
nông dân phải gắn với giải quyết việc làm cho<br />
người lao động. Theo chúng tôi, đây là vấn đề 2. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa<br />
cốt lõi đối với dạy nghề cho lao động nông thôn, XHCN Việt Nam, Quyết định số 1956/2009/<br />
nhất là đối với nhóm lao động cần phải chuyển QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt<br />
sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai<br />
nghiệp. Nếu không gắn được với việc làm, có đoạn 2011-2020;<br />
đầu ra thì người nữ DTTS nông dân sẽ không 3. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa<br />
tham gia học nghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị XHCN Việt Nam, Quyết định số 295/QĐ-TTg<br />
lãng phí. Do đó, trong quá trình đào tạo nghề rất ngày 26 tháng 2 năm 2010 phê duyệt Đề án hỗ<br />
cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn<br />
nghiệp, các cơ sở sản xuất để họ một mặt tham 2010-2015.<br />
<br />
<br />
<br />
ABSTRACT<br />
BUILDING MODELS OF DIVERSIFIED AND EFFECTIVE VOCATIONAL<br />
TRAINING FOR WOMEN AND GIRLS IN ETHNIC MINORITIES IN DIFFICULTY<br />
SPECIAL COMMUNES IN QUANG NINH PROVINCE<br />
Women in ethnic minorities living in rural areas play a very important role in agricultural and<br />
rural development, human resource development in the country, But women in ethnic minorities in<br />
rural areas have more difficulies in comparison to rural men and urban women. Vocational training<br />
plays an important role in improving the quality of the female workforce, creating opportunities<br />
for stable income, generating employment, contributing to poverty reduction and empowerment of<br />
women in the family and society. The study of a diverse and effective model of vocational training<br />
for ethnic minority women and girls in the extremely difficult communes of Quang Ninh province will<br />
have a particularly deep meaning in implementing gender equality, socio-economic development in<br />
the local areas in the current period.<br />
Keywords: Diverse and Effective Models of Vocational Training; Ethnic Minority Women<br />
and Girls; Extremely Difficult Communes; Quang Ninh Province.<br />
<br />
22 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br />