intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Yêu cầu đối với việc đào tạo giáo viên trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

28
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bởi xét cho cùng chính đội ngũ nhà giáo sẽ là những người giữ vai trò chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực của đất nước đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nếu không có đội ngũ nhà giáo đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được thời cơ cũng như thách thức của cuộc cách mạng này thì sẽ không có nguồn nhân lực chất lượng cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Yêu cầu đối với việc đào tạo giáo viên trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay

  1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TS. Tiêu Thị Mỹ Hồng1 Tóm tắt: Cuộc các mạng công nghiệp 4.0 đang có tác động mạnh mẽ tới từng quốc gia trên mọi khía cạnh và lĩnh vực của đời sống trong đó có giáo dục. Trước những thay đổi lớn lao của giáo dục dưới tác động cũng như yêu cầu của cuộc cách mạng này, các trường sư phạm buộc phải thay đổi, phải tự đặt ra cho mình những yêu cầu mới trong đào tạo đội ngũ giáo viên, phải đổi mới từ mục tiêu đến mô hình, nội dung, phương pháp để cho ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới, của nền giáo dục mới chuyển từ dạy học định hướng nội dung sang dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Bởi xét cho cùng chính đội ngũ nhà giáo sẽ là những người giữ vai trò chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực của đất nước đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nếu không có đội ngũ nhà giáo đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được thời cơ cũng như thách thức của cuộc cách mạng này thì sẽ không có nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ khóa: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đội ngũ giáo viên, nguồn nhân lực.....  1. Đặt vấn đề Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Với tính chất của mình, cuộc cách mạng này có ảnh hưởng không nhỏ tới giáo dục. Nó vừa đòi hỏi giáo dục phải đổi mới một cách toàn diện để có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thời đại, đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự đổi mới ấy. Lúc này, một câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ là người bắt đầu thực hiện sự đổi mới ấy? Câu trả lời chính là người thầy. Người thầy trong bối cảnh 4.0 ngoài những yêu cầu cần có của một người thầy nói chung như tận tâm, yêu nghề, yêu học trò với trình độ chuyên môn cao còn có những điều kiện đủ để dạy học trong bối cảnh mới, tương thích với môi trường 4.0 và học sinh 4.0. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với nhà trường sư phạm là đào tạo được đội ngũ nhà giáo đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ của nền giáo dục mới, trong bối cảnh mới. Sinh viên sư phạm khi ra trường phải có những phẩm chất, năng lực 1 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ĐT: 0983832528; Email: tieu.my.hong@gmail.com
  2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 538 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành phù hợp, thích ứng được với một xã hội mà tốc độ phát triển và đổi thay ngày càng nhanh chóng. Bởi xét cho cùng, người thầy giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo ra thế hệ trẻ, nguồn nhân lực trong tương lai của mỗi quốc gia dân tộc. 2. Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu mới đối với đội ngũ giáo viên Cách mạng công nghiệp 4.0 là thuật ngữ được sử dụng từ năm 2011 trong chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức. Cuộc cách mạng này là sự kết hợp giữa hệ thống thực và ảo, là sự kết nối giữa các công nghệ tự động hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo với đòi hỏi có sự xuất hiện của các công nghệ cao như: hệ thống kết nối internet, internet kết nối vạn vật (IoT), điện toán đám mây, sự tương tác, tham gia của con người vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng công nghệ cao…. Thực tế cho thấy: cách mạng khoa học công nghệ đã có tác động rất lớn tới sự thay đổi của lực lượng sản xuất ở cả công cụ lao động và người lao động. Tự động hóa là một thành tựu vượt bậc nhưng đồng thời cũng là một thách thức to lớn khi nhiều lĩnh vực công nghiệp đặt ra đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Khi đó, nguy cơ bị loại ra khỏi thị trường lao động là rất cao nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự thay đổi đó. Ngày nay, nhu cầu về lao động có kỹ năng thực hiện những công việc mang tính cố định, theo trình tự và lặp đi lặp lại đã giảm rõ rệt. Những công việc ấy sẽ được thay thế bằng robot. Quá trình robot hóa sẽ dẫn tới tình trạng mất việc làm nghiêm trọng đối với người lao động. Vì thế, “kỹ năng thực hiện những công việc luân chuyển mang tính tương tác đang là đòi hỏi đặt ra với lực lượng lao động mới” [5]. Trong cách mạng công nghiệp 4.0, bằng cấp không phải là vấn đề được quan tâm hàng đầu, con người sẽ được định giá trị bằng giá trị mà họ mang đến cho xã hội. Người học theo quan điểm truyền thống với cách học thụ động dù được trang bị nhiều bằng cấp trong tay cũng nhanh chóng mất chỗ đứng. Vì thế, giáo viên tương lai sẽ phải dạy người học cách tự học, với tư duy phản biện, cùng năng lực thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của hoàn cảnh. Học sinh sẽ phải có những năng lực, phẩm chất của công dân toàn cầu, công dân thời đại 4.0. Trách nhiệm đó đặt lên vai người thầy. Theo khuyến nghị của các chuyên gia quốc tế, vai trò của giáo viên trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp hơn bởi đây là một thế giới thay đổi nhanh chóng với tri thức gần như vô tận. Nhiệm vụ chính của giáo viên là tạo môi trường học tập, tạo điều kiện để người học có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực, sáng tạo và học tập suốt đời trong nhiều không gian và thời gian khác nhau. Phải đem lại cho người học cả kiến thức kỹ năng cũng như cách tư duy mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng.
  3. Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỦ THỂ GIÁO DỤC 4.0 539 Theo UNESCO, ngày nay chức năng giáo viên đã thay đổi, tập trung vào 8 điểm, trong đó có những điểm mang đậm tính chất của thời đại 4.0 như: Đảm nhận nhiều chức năng, có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học và giáo dục; Tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa những nguồn tri thức trong xã hội; Sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy học hiện đại; Thái độ là chủ động, hào hứng đón nhận như một cơ hội đồng thời cũng là thách thức phải vượt qua. Người thầy xác định vấn đề cần quan tâm đặc biệt là đối tượng người học ngày nay rất khác trước, với động cơ tình cảm và sự quan tâm rộng hơn về cả không gian và thời gian. Ngoài những phẩm chất và yêu cầu chung về năng lực của nhà giáo, giáo viên thời đại 4.0 để đáp ứng được yêu cầu cũng như tận dụng được những lợi thế của nó cần phải có: Năng lực tự học và hướng dẫn cho người học cách tự học suốt đời. Ngày nay, sự vận động của thế giới tri thức ngày càng mạnh mẽ, kiến thức mới liên tục ra đời. Giáo dục thời đại 4.0 đã mở rộng độ tuổi học tập qua khái niệm “học tập suốt đời”. Jacques Delor, một nhà kinh tế Pháp và chính trị gia, Chủ tịch thứ tám Ủy ban châu Âu  đã từng viết: “Quan niệm giáo dục suốt cả cuộc đời là một trong số các chìa khoá đi vào thế kỷ XXI”. Quan niệm này vượt ra khỏi sự tách biệt truyền thống giữa giáo dục ban đầu và giáo dục thường xuyên, đáp ứng sự thách thức của một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Vì thế, thầy cô không thể giữ cách dạy cũ – lấy mình làm trung tâm và truyền đạt lại cho học trò những tri thức mà mình biết. Bài toán bắt nhịp với thời đại đang được đặt ra. Kiến thức được đào tạo 4 năm trong nhà trường đại học có đủ mới, đủ cập nhật cho thầy cô lên lớp cả cuộc đời công tác hay không? Với tốc độ sản sinh tri thức như hiện nay, thậm chí những gì là hiện đại khi sinh viên bước vào năm thứ nhất sẽ nhanh chóng trở thành lạc hậu khi họ ra trường. Đó chính là điểm khác nhau cơ bản trong vấn đề dạy học xưa và nay. Với sự xuất hiện liên tục của tri thức mới, giáo viên thời đại 4.0 phải có năng lực tự học suốt đời, liên tục trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp. Giáo viên vừa là người dạy học đồng thời vừa là người học để đáp ứng hoạt động dạy của chính mình. Không có năng lực tự học và không ý thức được sự tự học, giáo viên sẽ nhanh chóng lạc hậu với mớ kiến thức cũ, không được thường xuyên bồi đắp. Trở thành giáo viên không có nghĩa là ngừng học, trở thành giáo viên là bước tiếp theo cho sự học cao hơn, đó là tự học. Nhiệm vụ của giáo viên hiện nay là hướng dẫn học sinh cách học. Điều giáo viên truyền đạt mỗi ngày không còn là kiến thức cụ thể, mà phải là phương pháp giúp học sinh có năng lực tự tìm kiếm và nắm vững kiến thức. Giáo viên phải dạy học sinh cách phân tích, đánh giá vấn đề; tìm nguồn thông tin, chọn lọc và xử lý dữ liệu; biến dữ liệu trong thế giới ảo ấy thành kiến thức của mình. Người học cần có năng lực học tập suốt đời để theo kịp các đòi hỏi công việc liên tục thay đổi
  4. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 540 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành trong xã hội 4.0. Tuy nhiên, để giúp người học hình thành phát triển năng lực tự học, giáo viên phải có phương pháp dạy học thích hợp, phải hỗ trợ, giám sát, đánh giá được quá trình học tập của học sinh cả trong và ngoài lớp học. Chính vì lẽ đó, dù công nghệ thông tin có phát triển ngày càng mạnh mẽ, thông tin ngày càng mở rộng và liên tục cập nhật, thiết bị hỗ trợ học tập ngày càng hiện đại cũng không thể thay thế được vai trò của người thầy. Bởi chỉ có người thầy với năng lực và ý thức tự học mới có thể truyền đến học trò cảm hứng và cách thức cho việc học tập suốt đời. Năng lực dạy học phân hóa, hướng tới từng cá nhân học sinh cũng là một yêu cầu đặt ra đối với giáo viên hiện nay. Tính tập thể và dạy học tập thể với tri thức, kĩ năng, thái độ mang tính tập thể đã tỏ ra lạc hậu. Trong một lớp học, mỗi học trò có đặc điểm tâm sinh lí khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau. Dạy học hiện đại, trong thế giới năng động buộc người thầy phải quan tâm đến từng học sinh, tạo môi trường học tập, tạo điều kiện để học sinh có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực và sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của từng học sinh. Có như vậy, học sinh mới tự do phát huy được năng lực của mình, mới phát hiện ra khả năng tiềm ẩn trong mình. Và vì được giáo dục trong môi trường năng động, khi trưởng thành với sự sáng tạo của mình, các em sẽ nhanh chóng thích nghi và làm chủ được trong xã hội nhiều đổi thay và liên tục đổi thay. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin, khai thác các nguồn tư liệu trong thế giới ảo. Cách mạng công nghiệp 4.0 với nội hàm căn bản nhất là “sự kết nối”. Nhờ sự phát triển của mạng Internet cùng các ứng dụng đi kèm, việc đăng tải cũng như cập nhật thông tin trở nên vô cùng dễ dàng với tất cả mọi người. Cả một thế giới dữ liệu được thiết lập, kho lưu trữ thông tin trong thế giới ảo vô cùng lớn. Để tiếp cận được với hệ thống dữ liệu đó, giáo viên trong thời đại 4.0 phải có kĩ năng công nghệ thông tin. Nghĩa là có kĩ năng trong tiếp cận, chọn lọc và tiếp nhận thông tin một cách chính xác khoa học. Dữ liệu trong thế giới ảo vô cùng đa dạng, vàng có và cát cũng có, thông tin quý có những nguồn thông tin nhiễu không đảm bảo tính khoa học cũng có. Vì thế, giáo viên phải có năng lực đãi vàng từ cát cũng như hướng dẫn học sinh cách đãi cát tìm vàng. Không chỉ tạo nên kho dữ liệu lớn, sức mạnh của khoa học kĩ thuật đã giúp kết nối được toàn bộ không gian của hệ thống giáo dục Việt Nam. Giáo viên, học sinh dễ dàng chia sẻ và tham khảo được nhiều tài liệu tốt có tính ứng dụng cao. Tất cả điều đó yêu cầu người thầy phải có năng lực khai thác tư liệu từ thế giới ảo để phục vụ cho hoạt động thực của mình. Học sinh thời đại 4.0 cũng rất năng động, sáng tạo và chừng mực nào đó có phương tiện và năng lực chủ động để tiếp nhận thông tin. Vì thế, thay vì đưa thông tin đến học trò, giáo viên phải là người giúp học trò có khả năng hiểu ý nghĩa của thông tin, tính xác thực, căn cứ để phân loại thông tin. Tức là làm cho học trò có kĩ năng tìm kiếm, khai thác thông tin hiệu quả nhất, chính xác và khoa học nhất.
  5. Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỦ THỂ GIÁO DỤC 4.0 541 Năng lực thích ứng trước sự biến đổi nhanh chóng của giáo dục và cuộc sống. Một xã hội luôn vận động sẽ đòi hỏi một nền giáo dục năng động, sáng tạo với đội ngũ nhà giáo có năng lực thích ứng, đáp ứng được với những biến đổi nhanh chóng của chính bản thân giáo dục và cuộc sống. Tuổi đời một bộ sách giáo khoa hiện nay chắc chắn sẽ không dài như trước đây và người giáo viên không chỉ có một bộ sách mà tiến tới nhiều bộ sách. Vì thế, nhất định những giáo án được dùng đi dùng lại thậm chí gần cả cuộc đời công tác sẽ không còn chỗ đứng trong giáo dục hiện nay. Giáo viên phải sáng tạo, phải trau dồi và năng động, tích cực để tạo cho mình năng lực thích ứng với mọi sự thay đổi từ mục tiêu đến nội dung và phương pháp dạy học. Hiện nay, ngoại ngữ là một công cụ phương tiện đắc lực giúp giáo viên cập nhật và khai thác thông tin có tính chất quốc tế. Vì vậy, năng lực ngoại ngữ cũng là điều cần thiết đối với giáo viên thời đại 4.0. Sử dụng được ngoại ngữ là một thế mạnh rất lớn giúp giáo viên mở rộng cánh cửa tri thức. Như vậy, thời đại 4.0 đòi hỏi một nền giáo dục mới với những người thầy ngoài tình yêu nghề, yêu trò phải có những năng lực, tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu của thời đại. 3. Đổi mới trong nhà trường sư phạm là một tất yếu Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi vai trò, vị trí của người dạy, yêu cầu ở đội ngũ này những năng lực mới mà trước đây chưa từng được đặt ra. Điều đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo giáo viên phải chuẩn bị cho sinh viên của mình - những nhà giáo trong tương lai có khả năng đáp ứng linh hoạt và hiệu quả trước những yêu cầu mới. Tuy nhiên, nhà trường sư phạm hiện nay còn nhiều hạn chế: từ đội ngũ giảng viên, nội dung chương trình học, phương pháp giảng dạy, công cụ thiết bị hiện đại…. Vì thế, việc đổi mới trong nhà trường sư phạm là một tất yếu. Về đội ngũ, so với các trường đại học trong khu vực và thế giới thì đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường sư phạm của Việt Nam có khoảng cách khá lớn về số lượng cũng như chất lượng. Mặc dù số lượng giảng viên đạt học hàm, học vị cao tăng lên nhanh chóng nhưng năng lực công nghệ thông tin, năng lự ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Mặc dù, hầu hết các giảng viên đều đáp ứng rất tốt việc dạy các khoa học chuyên ngành là những chuyên đề chuyên sâu nhưng lại yếu trong dạy học tích hợp liên môn, xuyên môn, liên ngành. Tính chất độc lập trong quá trình làm việc của giảng viên tại các trường sư phạm rất cao đồng nghĩa với ý thức và kĩ năng làm việc nhóm còn một số bất cập, vì thế cũng ít quan tâm đến tổng thể chương trình đào tạo. Ngay đến các bộ môn trong một khoa cũng thường độc lập tác chiến, việc ai nấy làm, thiếu quan điểm liên kết tri thức xuyên môn, tương tác để cùng nâng cao
  6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 542 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành chất lượng đào tạo. Hầu hết giảng viên chỉ chú trọng đến truyền đạt tri thức một cách cần mẫn giống như người ta tìm cách đổ đầy nước vào bình mà không có sự quan tâm đầy đủ đến dạy kỹ năng và rèn luyện năng lực nghề cũng như trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Xét ở các trường cao đẳng, theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD&ĐT), tính đến hết năm học 2016-2017, Việt Nam có 57 trường với quy mô giảng viên là 3.388 giảng viên đào tạo khoảng 47.800 sinh viên. Tuy nhiên, tỉ lệ giảng viên có trình độ TS ở các trường Cao đẳng sư phạm còn thấp (chiếm 3,4%), tức là chỉ có 115 người đạt trình độ TS và 2.187 người có trình độ thạc sĩ. Điều đó phần nào cho thấy chất lượng giảng viên sư phạm của chúng ta chưa cao. Về chương trình đào tạo, chương trình đào tạo ở các trường sư phạm đặc biệt là các trường cao đẳng ít cập nhật, có những chương trình được xây dựng từ thế kỉ XX đến nay gần như ít thay đổi. Nếu có xây dựng thì lại ít mang tính hệ thống, không theo quy trình, chưa có cái nhìn tổng thể mà phần nhiều chỉ là gia giảm, thêm bớt theo ý chí chủ quan, ít có sự phân tích nhìn nhận khách quan gắn với thay đổi của thời đại. Đội ngũ xây dựng chương trình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm mà ít căn cứ trên các luận cứ khoa học và thực tiễn. Việc phát triển chương trình đào tạo thiếu hoặc chưa có đầy đủ sự tham gia của tất cả các bên liên quan; ít căn cứ vào bối cảnh; chưa tường minh trong xác định chuẩn đầu ra vì thế chưa thể hiện được vai trò của chuẩn đầu ra trong thiết kế chương trình đào tạo, ma trận môn học để xác định tính phù hợp với chuẩn đầu ra chưa được coi trọng. Vì thế, vẫn còn tình trạng môn học “thừa”, tín chỉ “thừa” nằm trong chương trình đào tạo [7]. Không những thế, một số chương trình tương đối cũ, thiếu đồng bộ, ít tính hiện đại là một cản trở rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường sư phạm, đặc biệt khó đáp ứng được yêu cầu của thời đại 4.0. Đặc biệt thời lượng dành cho phát triển năng lực nghề còn hạn chế. Trọng tâm của chương trình đào tạo vẫn là kiến thức mang tính hàn lâm. Hiện nay, trung bình số tín chỉ cần tích lũy của một cử nhân sư phạm là 125-135 tín chỉ, trong 4 năm và được cấu trúc các khối kiến thức như sau: khối kiến thức giáo dục đại cương; khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp trong đó kiến thức cơ sở ngành, kiến thức ngành và nghiệp vụ sư phạm. Theo khung chương trình đào tạo hiện nay các trường đại học sư phạm, nội dung đào tạo năng lực nghề thường bao gồm: kiến thức cơ sở chung rèn luyện năng lực sư phạm (tâm lý học giáo dục, giáo dục học…); kiến thức, kỹ năng và năng lực dạy học chuyên ngành (lý luận và phương pháp dạy học môn, thực hành phương pháp dạy học bộ môn, phương pháp kiểm tra đánh giá trong dạy học bộ môn…); thực hành sư phạm (thực tập sư phạm đợt 1, thực tập sư phạm đợt 2); và học phần phương pháp thay thế khóa luận tốt nghiệp (thường là 2 tín chỉ). Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là trường có thời lượng dành cho đào tạo NVSP nhiều nhất: với tổng số 36/ 135 tín chỉ riêng về nghiệp
  7. Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỦ THỂ GIÁO DỤC 4.0 543 vụ chiếm 27%, 13/135 tín chỉ (9,6%) là những học phần song đôi nội dung chuyên ngành kết hợp cùng phương pháp. Với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, khối kiến thức NVSP cả bắt buộc và tự chọn cũng như học phần thay thế khóa luận tốt nghiệp khoảng trên dưới 40/135 tín chỉ (chiếm 29,6%). Tương tự như vậy, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh là 37/135 tín chỉ (chiếm 27,4%); Đại học Sư phạm, Đại học Huế 25/140 tín chỉ (chiếm 17,8%); Đại học Tây Bắc: 25/150 tín chỉ (chiếm 16,6%)…. Như vậy, thời lượng dành cho NVSP ở một số trường vẫn còn chưa tương xứng với vai trò của nó. Đặc biệt khối kiến thức NVSP chuyên ngành vẫn chiếm tỉ lệ tương đối thấp. Thời gian dành cho thực tập tại trường phổ thông dao động từ 5 đến 7 tín chỉ (từ 3% đến 5%). Lượng thời gian này chiếm quá ít trong toàn bộ khung chương trình đào tạo. Nếu so với các nước tiên tiến trên thế giới (khoảng 10% tổng số tín chỉ), thời lượng thực tập của ta hiện nay tương đối hạn chế. Thời lượng đó chưa đủ để sinh viên nắm bắt được thực tiễn nhà trường cũng như hình thành năng lực dạy học – giáo dục, chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và trường phổ thông. Số học phần trong chương trình đào tạo có chiều hướng tăng, đa số là các học phần 02 tín chỉ, lại chủ yếu là bắt buộc (có những ngành lên đến 50 học phần), ít tự chọn. Không những thế, trong nhiều chương trình đào tạo, học phần tự chọn được xây dựng ra nhưng sinh viên lại được định hướng lựa chọn nhằm giảm kinh phí đào tạo. Nếu sinh viên tự do chọn học phần tự chọn sẽ dẫn đến số lượng sinh viên cho mỗi lớp ít, không đủ kinh phí đào tạo. Điều đó, ít nhiều sẽ tạo nên khó khăn cho người học trong việc tích luỹ. Thêm vào đó tính liên thông dọc, liên thông ngang giữa các chương trình đào tạo trong các cơ sở đào tạo giáo viên là không cao. Về phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá, trong những năm gần đây, các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã kêu gọi đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao. Không ít giảng viên vẫn đi theo lối cũ, đặc biệt là những nhà giáo đã công tác trong nghề lâu năm, tuổi đã cao, ngại đổi mới đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn trong sử dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại; yêu cầu đối với bản thân cũng như với học trò thường chỉ dừng lại ở cung cấp kiến thức một chiều và học thuộc kiến thức chuẩn. Kiểm tra, đánh giá chưa thể hiện tính quá trình mà chỉ căn cứ vào những bài kiểm tra riêng lẻ, đồng thời thi vẫn mang tính chất trả bài – học thuộc mà ít vận dụng, sáng tạo. Học tập tại lớp với hình thức truyền thống chiếm đa số thời gian, hoạt động trải nghiệm gần như ít được sử dụng. Thêm vào đó, nếp tư duy phổ biến của xã hội luôn mong muốn tạo nên cách hiểu thống nhất và ít chấp nhận phản biện cũng là cản trở cho sự xuất hiện cách suy nghĩ khác, không thuận chiều, không giống số đông. Cách tư duy và cách dạy học này không thể tạo nên được những nhà giáo năng động, sáng tạo, chấp nhận sự khác biệt để đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Trong cách mạng 4.0, những nghề mang tính chất lặp đi lặp lại, ít
  8. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 544 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành tính chủ động, sáng tạo sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi máy móc, rô bốt, vậy, tại sao chúng ta lại đào tạo ra những người ngại phản biện, ngại nghĩ khác và luôn mang tính cộng đồng trong tư duy. Thời đại 4.0 sẽ đặt ra câu hỏi: Người học đến trường để làm gì? Nếu chỉ để có tri thức thì không có gì mới hơn sách điện tử, công nghệ dạy học hiện đại với không gian rộng hơn rất nhiều lớp học và vô số “ông thầy” ngoài người thầy (là duy nhất) trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp sẽ lớn hơn rất nhiều so với số lượng bạn bè trong lớp học… Phải đến trường mới là đi học đã là quan niệm quá cũ, ở nhiều nước trên thế giới, học sinh có thể tự học ở nhà, không đến trường nhưng vẫn được cấp bằng, vẫn có các loại chứng chỉ nếu vượt qua được kì thi theo quy định. Như vậy, lúc này, chúng ta đào tạo giáo viên là đào tạo chuyên gia truyền đạt kiến thức ngày ngày đổ đầy nước vào bình hay chuyên gia giáo dục – người hướng dẫn học sinh cách tự đổ đầy nước vào bình và tìm cách làm nóng bình nước ấy lên, để các phân tử nước chuyển động với vận tốc lớn hơn, va chạm mạnh hơn và chuyển thể thành dạng khác. Về cơ sở vật chất, cơ sở vật chất tại các trường sư phạm còn nhiều hạn chế, từ phòng học đến thư viện, trang thiết bị, vừa thiếu vừa lạc hậu. Phòng học thiếu là một thực trạng của hầu hết các trường sư phạm, bàn ghế, bảng đều là sản phẩm của hàng chục năm trước, thiếu cơ động, chỉ phù hợp với kiểu lớp học bó cứng và đặc biệt là hệ thống bảng thông minh gần như không có. Hệ thống máy móc hiện đại hỗ trợ giảng dạy và học tập trong mỗi phòng học thiếu, mạng internet không có, nếu có cũng rất yếu và nhiều sinh viên cùng truy cập gần như không thực hiện được. Đây là cản trở rất lớn cho việc hướng dẫn sinh viên tìm kiếm, khai thác và sử dụng thông tin trên thế giới ảo để phục vụ tiết học trực tiếp. Có một thực tế là, các sinh viên sư phạm khi ra trường nhiều em không sử dụng được các thiết bị hiện đại phục vụ quá trình dạy học tại nhà trường phổ thông. Điều này được lí giải bởi có những thiết bị hiện đại nhà trường phổ thông đã có (đặc biệt là các trường ở thành phố) trong khi trường đại học, cao đẳng sư phạm lại chưa có. Hệ thống thư viện chủ yếu là sách cũ, thậm chí sách được xuất bản từ những năm 70, 80, dịch từ sách các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Những cuốn sách ấy vẫn chiếm vị trí chủ yếu trong thư viện trong khi tri thức khoa học thời đại đang được bổ sung liên tục. Hàng năm, các trường cũng mua thêm một số sách mới, nhưng thiếu tính hệ thống, không đồng bộ theo từng chuyên ngành. Hệ thống giáo trình cũng vừa cũ, vừa thiếu, lại ít thay đổi, không đa dạng, không thể đáp ứng nhu cầu đào tạo tri thức hiện đại. Với thực tế ấy, nhà trường sư phạm cần quyết tâm đổi mới, đi đầu trong công cuộc đổi mới để đào tạo được đội ngũ giáo viên đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
  9. Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỦ THỂ GIÁO DỤC 4.0 545 4. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo sinh viên ngành sư phạm Thứ nhất, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên là một yêu cầu cấp thiết đặt ra với các trường sư phạm trong thời đại 4.0. Một thời chúng ta gọi giảng viên là cán bộ giảng dạy, nên yêu cầu, đòi hỏi và chế độ chính sách cũng giống như đối với cán bộ nói chung. Với tư cách là “cán bộ giảng dạy” – người làm công tác giảng dạy, đội ngũ này có những người sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ phần nhiều ít hoặc không nghiên cứu bởi bản thân nhà trường cũng không đặt ra quy định về việc hoàn thành nhiệm vụ khoa học, không đặt nghiên cứu thành một nhiệm vụ cứng. Nay, để nâng cao trình độ, nhất định giảng viên phải là một nhà khoa học, phải có sản phẩm khoa học, có công trình công bố trong và ngoài nước. Để đội ngũ giảng viên nâng cao được trình độ, nhà trường cũng tạo điều kiện để giảng viên ra nước ngoài nghiên cứu, trau dồi ngoại ngữ, tăng cường giao lưu, học hỏi thế giới bên ngoài. Thời đại 4.0 đòi hỏi đội ngũ giáo viên bên cạnh năng lực chuyên môn thuộc chuyên ngành chuyên sâu cần phải có năng lực ngoại ngữ để tiếp cận những tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến do sự phát triển của công nghệ 4.0 mang lại. Đây là điều cần thiết để giảng viên hội nhập với xu hướng kết nối toàn cầu, hội nhập với giáo dục đại học thế giới. Vì thế, người giảng viên sư phạm cần nâng cao trình độ ngoại ngữ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Bên cạnh ngoại ngữ, năng lực công nghệ thông tin cũng cần được chú ý. Giảng viên cần thành thạo công nghệ thông tin, có năng lực quản lí tài nguyên mạng, biết cách khai thác và hướng dẫn sinh viên cách khai thác tài liệu trong kho tài liệu vô tận của nhân loại. Để có được năng lực này, nhà trường nên có chính sách bồi dưỡng năng lực tin học cho đội ngũ giảng viên đặc biệt yêu cầu cao với đội ngũ giảng viên trẻ. Ngoài sự am tường về công nghệ thông tin, người thầy phải rèn luyện năng lực giao tiếp, thông qua các hệ thống trực tuyến và tổ chức quá trình giao tiếp này sao cho thu hút, kết nối được với nhiều sinh viên. Việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho giảng viên sư phạm nên sử dụng các hình thức đào tạo tiên tiến 4.0 như Mô hình E-learning (đây là mô hình hệ thống quản lý qua mạng); mô hình B-learning (mô hình dạy học kết hợp hình thức học tập trên lớp với hình thức học hợp tác qua mạng máy tính và tự học); mô hình ứng dụng kỹ thuật hội thảo truyền hình (là dịch vụ cho phép nhiều người hội thảo từ xa, với sự xuất hiện của hình ảnh và âm thanh từ một người đến những người còn lại)… để giảng viên sư phạm vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới. Việc giảng viên sư phạm tiếp cận được với các mô hình dạy học mới sẽ nâng cao kiến thức nghiệp vụ, làm phong phú hơn các hình thức dạy học của bản thân và hiệu quả việc rèn kỹ năng nghề cho sinh viên. Như vậy, vai trò của người thầy truyền thống đang bị thách thức, đó là xu hướng chung, nhưng sự truyền cảm hứng từ người thầy thông qua con đường giáo dục thì không một tiến bộ nào xóa bỏ được.
  10. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 546 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành Thứ hai, xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp với yêu cầu mới. Vấn đề xây dựng chuẩn đầu ra cho hoạt động đào tạo giáo viên ở các trường đại học và cao đẳng đã được Bộ Giáo dục Đào tạo yêu cầu công bố từ năm 2010. Tuy nhiên, cho đến nay, việc làm đó cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Chuẩn đầu ra còn chung chung giữa các ngành đào tạo, chưa thể hiện rõ được đặc thù của từng ngành và đặc biệt chưa thể hiện được quyết tâm đổi mới trong đào tạo đáp ứng yêu cầu của thời đại 4.0 nói chung và công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nói riêng. Hiện nay, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đang quyết tâm xây dựng chuẩn đầu ra cho từng chương trình đào tạo, nó như một công bố có trách nhiệm tới toàn xã hội về sản phẩm đầu ra của nhà trường, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội về đội ngũ nhà giáo trong bối cảnh hiện nay. Ở đó có chuẩn cụ thể về phẩm chất, năng lực. Trong bộ chuẩn này thể hiện rất rõ những năng lực cần có của nhà giáo trong kỷ nguyên chuyển đổi số. Thứ ba, đổi mới chương trình đào tạo. Trong điều kiện giao lưu, hội nhập, đặc biệt với sự hỗ trợ của công nghệ 4.0, chúng ta cần tham khảo chương trình đào tạo các nước tiên tiến để tổ chức lại chương trình, hệ thống các bộ môn, hệ thống các môn học và chuyên đề. Chương trình đào tạo phải cập nhật, liên thông, gắn với đào tạo quốc tế và khu vực. Đồng thời với chương trình, nhà trường cần tăng cường hội nhập quốc tế, hợp tác với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế giới và trong khu vực. Xây dựng chương trình phải đảm bảo mối quan hệ và tỉ lệ hợp lí giữa khoa học chuyên ngành, khoa học giáo dục và thực tiễn phổ thông trong nội dung đào tạo. Chú trọng yêu cầu phát triển năng lực nghề, giảm bớt tri thức hàn lâm. Vì thế, tăng thời lượng đào tạo NVSP là điều thực sự cần thiết, đặc biệt là thời lượng thực hành tại trường phổ thông. Cần nâng cao tỉ trọng khối kiến thức sư phạm trong tổng số tín chỉ lên mức trung bình của các nước tiên tiến trên thế giới (khoảng 30%), trong đó thực tập sư phạm chiếm khoảng 10% [6]. Thứ tư, đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá. Trong xu thế mới, sứ mệnh và vị thế của người thầy đã có nhiều đổi thay. Người thầy không còn đóng vai trò trung tâm mà vị trí ấy đã được chuyển sang người học. Người thầy giờ đây đảm nhận sứ mệnh lớn lao hơn rất nhiều, đó là sứ mệnh của một người điều hướng trong quá trình tiếp nhận tri thức. Quá trình dạy học phải lấy người học làm trung tâm, giảng viên cần kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học từ truyền thống đến hiện đại để hình thành được phẩm chất phát triển được năng lực của sinh viên. Kết quả kiểm tra, đánh giá cũng phải đặt trong cả quá trình học tập và làm việc của người học, không dán nhãn, không định kiến, phải thực sự khách quan, công bằng.
  11. Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC CHỦ THỂ GIÁO DỤC 4.0 547 Thứ năm, nâng cao cơ sở vật chất đặc biệt là các thiết bị dạy học hiện đại. Cơ sở vật chất là yếu tố giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo của nhà trường sư phạm. Phòng học, trang thiết bị dạy học, thư viện cần đầu tư nhiều hơn. Đặc biệt đầu tư cho công nghệ giáo dục tiên tiến, áp dụng đào tạo online, kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề sư phạm cho sinh viên, giáo viên, giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng thống nhất trong toàn quốc và trên toàn cầu. 4. Kết luận Thời đại 4.0 đã đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam những yêu cầu mới, thách thức mới trên mọi phương diện. Điểm cuối cùng của thách thức ấy chính là sản phẩm đầu ra của quá trình đào tạo: nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thời đại – năng động, sáng tạo, chủ động thích ứng và thích ứng tốt trước những biến đổi không ngừng của xã hội, trước những yêu cầu của công việc. Để đi đến được điểm cuối ấy, chúng ta phải bắt đầu từ điểm đầu tiên đó là quá trình đào tạo giáo viên của các trường sư phạm. Sinh viên sư phạm phải có những năng lực và phẩm chất của một nhà giáo thời đại 4.0 như: năng lực tự học và hướng dẫn học sinh tự học; năng lực hợp tác, làm việc nhóm; năng lực dạy học phân hóa; năng lực công nghệ thông tin; năng lực ngoại ngữ… Tuy nhiên, điểm khởi đầu này đang có không ít vấn đề cần điều chỉnh như: chất lượng đội ngũ, chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, cơ sở vật chất… Vì thế, trong thời gian tới, các trường đào tạo sinh viên sư phạm cần quyết tâm đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo, bám sát yêu cầu của thời đại để cho ra đời những sản phẩm thực sự chất lượng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Theo Anh Tú (GĐ&TĐ, 03/04/2018), Chuẩn hóa năng lực cho giảng viên các trường sư phạm, nguồn: http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=348 2. Nguyễn Cúc (27/8/2017), Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Nguồn: Báo điện tử baomoi.com. 4. Gieslle O. Martin – Kniep (2016), Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi, Lê Văn Canh dịch, NXB Giáo dục Việt Nam. 5. Tiêu Thị Mỹ Hồng (6/2018), “Từ yêu cầu của cách mạng 4.0 đến sự cần thiết của giáo dục STEM ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, tr 67-71. 6. Tiêu Thị Mỹ Hồng (12/2018), “Đổi mới đào tạo nghiệp vụ sư phạm theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành giáo dục công dân trong các trường đại học sư phạm», Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia Đổi
  12. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế 548 Các vấn đề mới trong khoa học giáo dục: tiếp cận liên ngành và xuyên ngành mới và đào tạo giáo viên giáo dục công dân đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 7. Đinh Xuân Khoa, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền, “Phát triển chương trình đào tạo và mô hình đào tạo giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 1, tháng 1, 2018. 8. Nguyễn Hải Thập, Nguyễn Ngọc Ánh (8/05/2019), Một số giải pháp nâng cao năng lực giảng viên các trường sư phạm, nguồn: http://www.moet.gov.vn/ttbt/ Pages/lich-su-truyen-thong-bo-giao-duc.aspx?ItemID=5986. Requirements for Training Teachers during Industrial Revolution 4.0 in Vietnam Abstract: Industrial Revolution 4.0 has caused profound influence on all aspects and fields of life in every nation including education. Significantchanges in education have been affected by Industrial Revolution 4.0; thus, universities of education need to change with new requirements for training teachers, innovate objectives, models, contents, methods so as that graduates are capable of meeting the needs of the new society and updated education, competence-oriented teaching and learning, instead of content-oriented teaching and learning. It is because teachers themselves are those who play key roles in training human resources for the whole country to work during Industrial Revolution 4.0. Without teachers equipped with sufficient personality and capabilities to take advantage of opportunities and challenges of the revolution, there wouldn’t be high-quality human resources. Keywords: Industrial Revolution 4.0, teachers, human resources.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2