intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học - Bài 10: Các loại nghiên cứu

Chia sẻ: Nguyễn Bình Minh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

93
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài giảng là giúp sinh viên có thể mô tả được những thiết kế thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học y học và hạn chế của mỗi loại nghiên cứu, trình bày được từng loại nghiên cứu có ảnh hưởng gì đến tính giá trị và tính tin cậy của kết quả nghiên cứu,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học - Bài 10: Các loại nghiên cứu

  1. Các loại nghiên cứu Mục tiêu 1. Mô tả được những thiết kế thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học y học  và hạn chế của mỗi loại nghiên cứu 2. Trình bày được từng loại nghiên cứu có ảnh hưởng gì đến tính giá trị và tính tin cậy   của kết quả nghiên cứu 3. Xác định được loại nghiên cứu thích hợp cho đề  cương nghiên cứu của chính học   viên Mở đầu Phụ thuộc vào chúng ta đã biết gì về vấn đề  nghiên cứu, có những câu hỏi khác nhau  cần được đặt ra  và tương ứng với các thiết kế nghiên cứu khác nhau. Việc chọn lựa   thiết kế nghiên cứu phụ thuộc vào ­ Vấn đề thuộc loại gì? ­ Kiến thức đã biết được về vấn đề ­ Nguồn lực có được dành cho nghiên cứu Thí dụ trong những vấn đề về quản lí y tế (thí dụ như việc quá tải của bệnh viện) chỉ  cần mô tả  rõ ràng vấn đề  và xác định các yếu cố  góp phần cũng đủ  cung cấp những   thông tin để hành động. Ðối với một số vấn đề quản lí y tế và nhiều loại nghiên cứu khác, có thể chúng ta cần   muốn biết mối liên hệ  giữa các biến số  (thí dụ  như  ít ăn rau và ung thư  đại tràng).   Trong trường hợp này chúng ta cần có nghiên cứu phân tích  hay nghiên cứu thực  nghiệm. Một số loại nghiên cứu Có nhiều cách phân loại nghiên cứu trong đó người ta thường chia làm 2 loại: ­ Các nghiên cứu không can thiệp: trong đó nhà nghiên cứu chỉ mô tả  và phân tích tình   hình nhưng không can thiệp ­ Các nghiên cứu có can thiệp: nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết   quả của việc tác động (thí dụ như  tiến hành chương trình giáo dục sức khoẻ  và xem   nó có tác động gì lên tỉ lệ tiêm chủng). Nghiên cứu không can thiệp Nghiên cứu không can thiệp bao gồm nghiên cứu thăm dò, nghiên cứu mô tả và  nghiên  cứu phân tích Nghiên cứu thăm dò Nghiên cứu thăm dò là nghiên cứu trên quy mô nhỏ  trong thời gian ngắn khi chúng ta  chưa rõ về vấn đề hay tình hình cần phải nghiên cứu
  2. Thí dụ: Uỷ  ban quốc gia phòng chống AIDS muốn xây dựng dịch vụ  tham vấn cho   bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV nhưng không biết những nhu cầu   của bệnh  nhân cần được hỗ trợ. Ðể thăm dò những nhu cầu này, một số cuộc phỏng vấn sâu  đã  được tiến hành với nhiều nhóm bệnh nhân và  với các nhân viên y tế đã làm trong lãnh  vực này. Trong nghiên cứu thăm dò người ta thường mô tả và so sánh. Thí dụ nhà nghiên cứu có   thể  mô tả  nhu cầu của từng nhóm bệnh nhân và so sánh  nhu cầu về  tham vấn của   bệnh nhân nam và bệnh nhân nữ. Nghiên cứu thăm dò sẽ  có giá trị  tốt hơn nếu nhà   nghiên cứu cố gằng tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng khác nhau. Nghiên cứu mô tả Nghiên cứu mô tả  bao gồm việc thu thập và trình bày có hệ thống  các số liệu nhằm   cung cấp một bức tranh về một tình huống cụ thể. Nghiên cứu mô tả  có thể  được tiến hành trên một quy mô lớn hoặc quy mô nhỏ.  Ở  quy mô nhỏ nghiên cứu mô tả  bao gồm việc mô tả  sâu các đặc tính của một số bệnh   nhân hay các trạm y tế hoặc các dự  án. Loại hình nghiên cứu này được gọi là nghiên  cứu trường hợp (case study) hay báo cáo ca bệnh (case report, case series).  Ở quy mô  lớn hơn và các cuộc điều tra cắt ngang nhằm xác định  sự  phân bố  của các biến số  nhất định ở một thời điểm. Các đặc tính này có thể là các đặc tính thực thể, kinh tế xã   hội hay hành vi của cộng đồng. Ðôi khi nhà nghiên cứu thường kết hợp sự mô tả dân số nghiên cứu với sự so sánh các   nhóm trong dân số. Mặc dù nghiên cứu này cũng sử dụng phương pháp so sánh tương   tự như nghiên cứu phân tích, khi chỉ so sánh các nhóm dân số khác nhau, bản chất của   nghiên cứu này vẫn là nghiên cứu mô tả. Khác với các nghiên cứu phân  tích nhằm tìm mối liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm   và tình trạng bệnh tật, các nghiên cứu mô tả,  Nghiên cứu mô tả  nhằm báo động, tìm  hiểu một số đặc điểm  hay ước lượng quy mô của một vấn đề sức khoẻ hay tìm hiểu   kiến thức, thái độ, hành vi của người dân về vấn đề  đó để  đề  xuất các giải pháp can  thiệp.  Những nghiên cứu mô tả bao gồm: nghiên cứu ca bệnh, nghiên cứu loạt ca bệnh trong   nghiên cứu  lâm sàng và nghiên cứu trường hợp trong nghiên cứu sức khoẻ công cộng.  Các nghiên cứu kiến thức, thái độ, hành vi   hay các điều tra cắt ngang cũng là các  nghiên cứu mô tả  quan trọng. Các nghiên cứu mô tả  tương đối phổ biến trong y văn  và sau đây  là một số thí dụ Một báo cáo loạt ca bệnh (case series) dựa trên việc mô tả bệnh sử và bệnh cảnh lâm   sàng của 4 người đàn ông được nhập viện tại trung tâmY khoa của Ðại học California   ở  Los Angeles (UCLA) vì bệnh viêm phổi do Pneumocystic carinii. 6 Ðây là một vấn   đề sức khoẻ cần phải báo động vì loại viêm phổi này trước đây chỉ xuất hiện ở những  người bị  rối loạn hệ  thống miễn dịch. Những nhà nghiên cứu tiến hành một nghiên   cứu để xem đây là một vấn đề  sức khoẻ mới hay chỉ là các trường hợp tương tự  với   những ca bệnh viêm phổi Pneumocystic carinii được phát hiện từ  trước? Vấn đề  sức  khoẻ này có những đặc điểm gì ?  Một nghiên cứu trường hợp được tiến hành dựa trên việc mô tả  đặc điểm của một 
  3. trạm y tế có hoạt động tương đối tốt nhằm rút ra các bài học về quản lí cho các trạm   y tế  7.  Ðây là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn trong tình hình có nhiều trạm y tế  còn hoạt động kém. Ở Anh quốc nhóm chăm sóc ban đầu (primary care groups) được đưa vào hoạt động từ  năm 1999 và có một ngân quỹ thống nhất để  chi trả cho các hoạt động y tế của bệnh  nhân bao gồm cả chi phí nhập viện. Tuy nhiên người ta vẫn chưa rõ các thông tin nền   (baseline) về  sức khoẻ, kinh tế  xã hội và tỉ  lệ  nhập viện của 66 nhóm chăm sóc ban   đầu nay  ở  thành phố  Luân đôn. Vì vậy một nghiên cứu cắt ngang mô tả  được tiến  hành và cho thấy sự  khác biệt đáng kể  về  kinh tế  xã hội, y tế  và thực hành của các   nhóm và các thông tin này được sử dụng cho việc lập kế hoạch và đánh giá dịch vụ y   tế 8. Như  vậy các nghiên cứu mô tả  có một giá trị  thực tiễn hết sức to lớn và hoàn toàn   không kém nghiên cứu phân tích về giá trị khoa học. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu  vì không nắm rõ mục tiêu nghiên cứu của mình nên thay vì thực hiện một nghiên cứu  mô tả tốt họ tiến hành một nghiên cứu phân tích kém. Thí dụ trong một nghiên cứu cắt   ngang nhằm tìm hiểu mô hình bệnh  tật của một cộng đồng (đây là một nghiên cứu rất   có giá trị  để  thiết kế  chương trình can thiệp y tế  cho cộng đồng đó) nhà nghiên cứu   không tập trung vào việc mô tả các vấn đề sức khoẻ mà lại (thí dụ như) cố gắng tìm   mối liên hệ giữa ung thư  và hút thuốc lá và như vậy làm loãng giá trị của đề tài nghiên   cứu bằng một phân tích kém chất lượng và bị sai lệch. Nghiên cứu so sánh hay nghiên cứu phân tích Dịch tễ học phân tích (hoặc tìm nguyên nhân) có nội dung tìm nguyên nhân gây ra vấn  đề sức khỏe trong dân chúng. Phương pháp áp dụng là phân tích các yếu tố ảnh hưởng làm gia tăng tỷ lệ bệnh trong  một dân số. Nguyên lí của phương pháp này là so sánh tỉ  lệ  mắc bệnh của hai nhóm   dân số: một dân số có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ và một dân số  không tiếp xúc với  yếu tố  nguy cơ. Nếu tỉ  lệ  mắc bệnh này khác biệt giữa hai nhóm (nghĩa là nguy cơ  tương đối khác 1) thì ta kết luận có thể  có mối liên hệ  giữa yếu tố  tiếp xúc và bệnh   tật. Mặc dầu rất nhiều lãnh vực khoa học sinh học tham gia vào khảo sát nguyên nhân  bệnh tật con người nhưng vai trò của dịch tễ  học là độc đáo và không thể  thay thế.  Hơn nữa phương pháp dịch tễ  học thường đi đầu tìm ra các nguyên nhân. Các ngành   khoa học khác sẽ đi theo để tìm thêm chứng cứ ủng hộ. Thí dụ John Snow đã tìm ra cơ  chế lây bệnh của dịch tả trước khi các nhà vi sinh học tìm ra phẩy khuẩn tả – Doll và  Hill tìm thấy vai trò của thuốc lá gây bệnh ung thư phổi trước khi các nhà khoa học tìm  thấy hóa chất sinh ung trong khói thuốc lá.  Ðể có số liệu cụ thể, dịch tễ học phân tích có thể  dùng các phương pháp điều tra thu  thập sau đây:
  4. Khảo sát nguyên nhân trong cohort Coù beänh Coù t ieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng beänh t0 Thôøi gian t1 Coù Khoâng beänh t ieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng beänh t0 Thôøi gian t1 Nghiên cứu đoàn hệ là nghiên cứu nhằm tìm ra sự liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm   và một tình trạng sức khoẻ  (thí dụ  như  một bệnh tật) bằng cách quan sát và so sánh  nguy cơ  mắc bệnh giữa hai nhóm quần thể có tình trạng phơi nhiễm khác nhau. Một   thí dụ  kinh điển của nghiên cứu đoàn hệ  là nghiên cứu các bác sĩ Anh quốc (The   British Doctor's study) được bắt đầu tiến hành vào năm 1951 trong đó  34.440 nam bác  sĩ  được hỏi về tình trạng hút thuốc lá (có hay không) và được theo dõi về tử vong do   ung thư phổi trong vòng 20 năm 3. Kết quả cho thấy nguy cơ tử vong hàng năm do ung  thư phổi ở người không hút thuốc lá là 10/100.000 trong khi nguy cơ tử vong hàng năm  do ung thư  phổi  ở  người hút thuốc lá là 140/100.000. Như  vậy hút thuốc lá làm tăng   nguy cơ  ung thư  phổi lên 14 lần (nguy cơ  tương đối là 14) và như  vậy hút thuốc lá  được gọi là yếu tố nguy cơ (hay nguyên nhân) của ung thư phổi. Tiền đề  của nghiên cứu đoàn hệ  là phải theo dõi  đầy đủ  một  hiện tượng sức khoẻ  của quần thể   trong thời gian khá dài (không có mất theo dõi  ­ loss from follow­up).  Ðây là khuyết điểm chính của nghiên cứu đoàn hệ  và các thiết kế  nghiên cứu khác   (bệnh chứng và cắt ngang) được đề  xuất để  khắc phục.  Nếu được theo dõi đầy đủ,   nghiên cứu đoàn hệ có ưu điểm là trực quan và ít gây ra sai lệch do chọn lựa và sẽ có   tính thuyết phục cao.
  5. Khảo sát nguyên nhân bệnh chứng: Coù t ieáp xuùc Coù beänh Khoâng t ieáp xuùc t0 Thôøi gian t1 Coù t ieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng t ieáp xuùc t0 Thôøi gian t1 Giả  sử  chúng ta không có điều kiện theo dõi 34.440 bác sĩ trong thời gian 20 năm  nhưng chúng ta có điều kiện (a)  biết chắc chắn một người có phải là một nam bác sĩ   hay không (b) ghi nhận được thông tin của tất cả các trường hợp ung thư phổi xảy ra   trên các  nam bác sĩ  và (c) chọn một mẫu đại diện cho quần thể nam bác sĩ về phương   diện hút thuốc lá. Khi đó bằng phép tính số học đơn giản có thể chứng minh: soá cheânh huùt thuoác laù ôûngöôøi maécbeänh soá cheânh maéc beänhôûngöôøi huùt thuoác laù OR soá cheânh huùt thuoác laù ôûngöôøi khoâng maéc beänh soá cheânh maécbeänh ôûngöôøi khoâng huùt thuoáclaù Và như  vậy chúng ta có thể   ước lượng được nguy cơ  tương đối mà không cần phải  quan sát trong thời gian dài.   Nhằm tìm hiểu sự liên quan giữa sử dụng Oestrogen tổng hợp (OCE) và ung thư  mội  mạc tử  cung, một nghiên cứu bệnh chứng được tiến hành trong đó có 183 người bị  ung thư nội mạc tử cung (nhóm bệnh) và 183 người không bị ung thư nội mạc tử cung   (nhóm chứng) được hỏi tiền căn sử dụng OCE4 . Kết quả cho thấy trong nhóm  bệnh   có 55 người có tiền căn sử  dụng OCE (số  chênh sử  dụng OCE trong nhóm này là  55/128=0,43) và trong nhóm chứng có 19 người có tiền căn sử dụng OCE (số chênh sử  dụng OCE trong nhóm chứng là 19/164=0,12). Tỉ số của hai số chênh này là 0,43/0,12=   3,6. Con số này (3,6) cũng chính là số chênh mắc ung thư mội mạc tử cung của nhóm   sử dụng OCE so với nhóm không sử dụng OCE hay là mức tăng nguy cơ  ung thư nội   mạc tử cung nếu sử dụng OCE. Nghiên cứu bệnh chứng tốt đòi hỏi phải thoả mãn 3  điều kiện đã nêu ở trên trong đó   có điều kiện là phải có thông tin về tất cả các trường hợp bệnh vì vậy nghiên cứu này  thích hợp cho các bệnh nghiêm trọng và tất cả  các trường hợp bệnh đều phải nhập  
  6. viện. Bệnh ung thư  là một thí dụ  kinh điển của loại bệnh thích hợp cho nghiên cứu  bệnh chứng. Nếu nghiên cứu bệnh chứng không thoả mãn được 3 điều kiện trên sẽ bị  sai lệch (biased). Hơn thế nữa, khi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng, nhà nghiên cứu  phải chuẩn bị  rất chu đáo về  mặt kĩ thuật vì không dễ  dàng thuyết phục được cộng  đồng khoa học đều đồng ý rằng nhóm chứng là thực sự đại diện cho quần thể không  mắc bệnh. Tuy nhiên nghiên cứu bệnh chứng có  ưu điểm là tiến hành nhanh, ít tốn  kém đặc biệt trong nghiên cứu các bệnh hiếm và có thời gian tiềm tàng kéo dài. Nghiên cứu cắt ngang Trở về thí dụ nghiên cứu sự liên hệ giữa hút thuốc là và ung thư phổi, chúng ta có thể  không cần thời gian theo dõi trong suốt thời gian từ  1951 đến 1971 mà chỉ   cần tiến  hành một cuộc điều tra ở thời điểm 1971, ghi nhận thông tin về hút thuốc và ung thư  phổi và có được kết luận tương tự  như  nghiên cứu đoàn hệ   nếu chúng ta giả  định  được rằng (a) Tất cả các trường hợp ung thư phổi chẩn đoán trong giai đoạn 1951 đến  1971 đều còn sống cho đến năm 1971 (b) Việc mắc ung thư phổi không làm thay đổi  thói quen hút thuốc lá của bác sĩ mắc bệnh (nghĩa là nếu họ hút thuốc lá rồi bị ung thư  phổi thì họ vẫn tiếp tục hút thuốc lá và nếu họ  không hút thuốc lá thì sau khi ung thư  phổi vẫn tiếp tục không hút thuốc lá).  Như vậy, nghiên cứu cắt ngang thường ít được   sử  dụng cho các bệnh nghiêm trọng như  ung thư, bệnh nhiễm trùng, tai nạn. Những  bệnh thích hợp cho nghiên cứu cắt ngang bao gồm  rối loạn có tính chất định lượng và  ít gây tử vong (béo phì, suy dinh dưỡng, bất dung nạp đường huyết, tăng huyết áp thể  nhẹ hay trung bình). Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở  Bavaria, cộng hoà liên bang Ðức  nhằm   đánh giá tác động của bú sữa mẹ (trong thời kì nhũ nhi) lên nguy cơ béo phì  (vào cuối   tuổi nhà trẻ) bằng cách sử dụng các số liệu chiều cao, cân nặng và bộ câu hỏi về dinh   dưỡng của 9357 trẻ  từ  5­6 tuổi được khám sức khoẻ  trước khi nhập học 5.  Ở  trẻ  không được bú mẹ, tỉ lệ béo phì là 4,5% trong khi đó ở trẻ được bú mẹ tỉ lệ béo phì là   2,8%.  Tác giả  kết luận rằng bú sữa mẹ  làm giảm nguy cơ  béo phì   ở  cuối tuổi nhà   trẻ. Mặc dù đây là nghiên cứu cắt ngang nhưng có tính giá trị tốt do thoả mãn được hai   giả định của nghiên cứu cắt ngang (a) đứa trẻ bị béo phì không bị tăng nguy cơ tử vong  và (b) việc trẻ bị béo phì không ảnh hưởng gì đến việc bú sữa mẹ ở giai đoạn nhũ nhi. Tóm lại nghiên cứu cắt ngang có ưu điểm là đơn giản và ít tốn kém. Tuy nhiên nó chỉ  có thể áp dụng được cho các bệnh tật có tính chất định lượng, phổ biến, ít gây tử vong   và các yếu tố nguy cơ ít biến động. Nghiên cứu can thiệp Trong nghiên cứu can thiệp nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết quả  của việc tác động. Thông thường có hai nhóm được so sánh,nhóm được can thiệp (thí  dụ  như  được điều trị  với một loại thuốc) và nhóm không được can thiệp (nhóm sử  dụng giả dược). Nghiên cứu can thiệp được chia thành nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu bán thực   nghiệm Trong nghiên cứu thực nghiệm, các cá nhân được chia ngẫu nhiên thành (ít nhất) hai 
  7. nhóm. Một nhóm  được nhận can thiệp (nhóm thử nghiệm) và một nhóm không được  nhận can thiệp (nhóm chứng). Kết cuộc của can thiệp được tính từ  việc so sánh kết   quả ở hai nhóm. Nghiên cứu thực nghiệm có 3 đặc tính: ­ Thao tác ­ Có nhóm chứng ­ Chia nhóm ngẫu nhiên: sức mạnh của nghiên cứu thực nghiệm chính là việc chia   nhóm ngẫu nhiên giúp loại bỏ yếu tố gây nhiễu. Nghiên cứu bán thực nghiệm là  nghiên cứu có sự thao tác của nhà nghiên cứu nhưng  thiếu một trong hai đặc tính còn lại của nghiên cứu thực nghiệm (thí dụ như không có   nhóm chứng hay không được chia nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu thực nghiệm có thể được chia làm 3 loại: 1­ Thử  nghiệm lâm sàng: là nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân.  Loại nghiên cứu  bao gồm việc thử nghiệm một điều trị mới hay một biện pháp dự phòng các di   chứng trên bệnh nhân nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều trị hay dự phòng  kể trên.  2­ Thử  nghiệm thực địa là việc can thiệp trên người chưa có bệnh. Loại nghiên cứu  này chủ  yếu đánh giá các biện pháp dự phòng.Để  nghiên cứu có tính xác  hợp  người ta thường chỉ sử dụng thử nghiệm thực địa để đánh giá các giải pháp can  thiệp dự  phòng cho các bệnh bệnh phổ  biến hay trầm trọng. Các thử  nghiệm  vaccine là một loại thử nghiệm thực địa phổ biến nhất. 3­ Can thiệp cộng đồng tương tự như thử nghiệm thực địa nhưng có đặc điểm là biện   pháp can thiệp được áp dụng cho cả cộng đồng chứ không phải có một cá nhân  đơn lẻ. Can thiệp cộng đồng áp dụng khi biện pháp can thiệp này chỉ có thể áp  dụng cho quy mô  cộng đồng thí dụ  như  việc đánh giá hiệu quả  của việc cải  tạo vệ sinh môi trường trong việc phòng chống sốt rét. Nghiên cứu can thiệp chính thống có 3 đặc điểm quan trọng: có việc can thiệp chủ  động và đặc hiệu cho nghiên cứu, có nhóm đối chứng và sử  dụng việc phân nhóm  ngẫu nhiên để  đưa các đối tượng vào nhóm   can thiệp và  hay nhóm đối chứng đối   chứng. Nghiên cứu can thiệp không có đủ  3 đặc tính trên được gọi là nghiên cứu bán   can thiệp (quasi experiment). Việc sai lệch thông tin trong nghiên cứu can thiệp có thể  được giảm thiểu nếu với phương pháp mù đơn (có nghĩa là làm sao cho đối tượng   không biết loại điều trị  của cá nhân mình) hoặc mù đôi (cả  đối tượng điều trị  và nhà  nghiên cứu đều không biết loại điều trị  được thực hiện trên từng cá nhân). Tuy nhiên  tính chất mù của nghiên cứu can thiệp không phải là yêu cầu tuyệt đối. Do   nghiên   cứu   thực   nghiệm   có   chia   làm   2   nhóm   can   thiệp   và   nhóm   chứng   bằng   phương pháp chia nhóm ngẫu nhiên, sẽ phân bố đều yếu tố gây nhiễu trong 2 nhóm và   hạn chế vai trò của yếu tố gây nhiễu, đặc biệt khí cỡ mẫu đủ lớn. Đó là lí do tại   sao   những bằng chứng từ nghiên cứu thực nghiệm được đánh giá cao. Tính giá trị và tính tin cậy của kết quả nghiên cứu Tính giá trị nghĩa là kết luận của nghiên cứu là đúng
  8. Tính tin cậy là nếu ai đó sử dụng cùng phương pháp nghiên cứu trong cùng một hoàn  cảnh sẽ có kết luận tương tự. Giaù trò vaø chínhGiaù xaùctrò - khoâng tin caäy Khoâng giaù trò - khoâng tin caäy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0