Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2021)
lượt xem 2
download
Nối tiếp phần 1, phần 2 của tập bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học tiếp tục cung cấp cho sinh viên những nội dung, kiến thức về: biến số; thiết kế nghiên cứu; các số đo dịch tễ học; số đo hậu quả và số đo tác động; phương pháp thu thập số liệu; phương pháp chọn mẫu; cách tính cỡ mẫu; chiến lược phân tích số liệu;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2021)
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y BIẾN SỐ Mục tiêu 1. Xác định biến số là gì và tại sao việc chọn lựa biến số là quan trọng 2. Phân biệt được biến số định tính (categorical) và biến số định lượng (numerical) 3. Phân biệt được sự khác biệt giữa biến số độc lập và biến số phụ thuộc và chúng được sử dụng trong nghiên cứu như thế nào 4. Xác định được các biến số được đo lường trong dự án nghiên cứu đang được thiết kế và cho biết: - Biến số nào có thể đo lường trực tiếp - Biến số nào không thể đo lường trực tiệp và phải sử dụng định nghĩa cụ thể(operation definition) - Biến số nào không thể đo lường được vào thời điểm hiện tại. Biến số Do nghiên cứu khoa học là việc thu thập, phân tích và lí giải số liệu để giải quyết vấn đề nghiên cứu hay trả lời một câu hỏi nghiên cứu (Varkevisser et al., 1991) nên nghiên cứ khoa học cần phải thu thập thông tin các đặc tính hay các đại lượng của đối tượng. Các đặc tính hay đại lượng này được gọi là biến số. Nói cách khác: Biến số là những đại lượng hay những đặc tính có thể thay đổi từ người này sang người khác hay từ thời điểm này sang thời điểm khác. Biến số định tính và biến số định lượng Như vậy biến số có thể thể hiện đại lượng hay đặc tính. Nếu nó thể hiện một đại lượng nó được gọi là biến số định lượng. Nếu nó nhằm thể hiện một đặc tính nó được gọi là biến số định tính. Biến số định tính còn được chia làm 2 loại: biến số 67
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y danh định và biến số thứ tự. Biến số danh định là biến số mà giá trị của nó không thể biểu thị bằng số mà phải biểu diễn bằng một tên gọi (danh: tên) và các giá trị này không thể sắp đặt theo một trật tự từ thấp đến cao. Thí dụ: Biến số dân tộc với các giá trị: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm,… là biến số định tính vì chúng ta không thể sắp xếp các giá trị này từ theo một trật tự từ thấp đến cao hay ngược lại. Một số thí dụ khác của biến số danh định là tình trạng hôn nhân (có 4 giá trị: độc thân, có gia đình, li dị, góa) nhóm máu (A, B, AB và O). Trong phân tích thống kê, để tiện việc nhập số liệu hay lí giải kết quả, người ta có thể ánh xạ (mapping) các giá trị của biến danh định vào các con số. Việc này được gọi là mã hóa và cần hiểu rằng việc mã hóa này hoàn toàn có tính chất áp đặt và các con số được dùng trong mã hóa không phản ánh bản chất của biến số danh định. Giới tính là biến số danh định và có hai giá trị là nam và nữ. Chúng ta có thể mã hóa giới tính và quy ước Nam là 1 và Nữ là 2. Tuy nhiên việc mã hóa này là áp đặt và chúng ta hoàn toàn có thể quy ước Nam là 1 và Nữ là 0. Việc mã hóa chỉ nhằm giúp việc nhập số liệu và xử lí số liệu trở nên dễ dàng hơn chứ không nhằm phản ánh bản chất của biến số đó (do đó hoàn toàn vô căn cứ nếu cho rằng mã hóa Nam=1 và Nữ=0 là phản ánh thái độ phong kiến "Nhất nam viết hữu - Thập nữ viết vô). Biến số thứ tự là biến số danh định nhưng có thể sắp xếp thứ tự được. Thí dụ: tình trạng kinh tế xã hội (giàu, khá, trung bình, nghèo, rất nghèo) là biến số thứ tự bởi vì người giàu có điều kiện kinh tế tốt hơn người khá, người khá hơn người trung bình, trung bình hơn nghèo, v.v Những thí dụ khác là học lực của học sinh (giỏi, khá, trung bình, kém), tiên lượng (tốt, khá, xấu, tử vong). 68
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Theo phân loại tăng huyết áp của Tổ chức Y tế Thế giới được trình bày như sau, thì phân loại huyết áp với các giá trị huyết áp bình thường, huyết áp cao nhẹ, vừa và nặng là biến số thứ tự. Huyết áp bình thường: HA tâm thu (139 và HA tâm trương ( 89 Tăng huyết áp nhẹ: HA tâm thu ( 179 hay HA tâm trương ( 104 Tăng huyết áp vừa: HA tâm thu ( 180 hay HA tâm trương (114 Tăng huyết áp nặng: HA tâm thu (180 và HA tâm trương ( 115 mmHg Biến số định lượng nhằm thể hiện một đại lượng và do đó có giá trị là những con số. Thí dụ: tuổi là biến số liên tục bởi vì ta có thể nói người này 20 tuổi, người kia 32 tuổi, v.v. Những thí dụ khác là đường huyết, hemoglobin, hematocrite, chiều cao, cân nặng, thu nhập, v.v Khi chúng ta quan tâm đến việc lí giải nguyên nhân của sự việc chúng ta chia biến số thành biến số độc lập và biến số phụ thuộc. Biến số dùng để mô tả hay đo lường vấn đề nghiên cứu được gọi là biến số phụ thuộc. Biến số dùng để mô tả hay đo lường các yếu tố được cho là gây nên (hay gây ảnh hưởng đến) vấn đề nghiên cứu được gọi là biến số độc lập Cần phân biệt sự khác biệt giữa biến số và giá trị của biến số (còn gọi là yếu tố): Giới tính là biến số nhưng Nữ không phải là biến số mà là một giá trị của biến số (hay còn gọi là yếu tố). Thời gian chờ đợi để được sử dụng dịch vụ y tế là biến số nhưng thời gian chờ đợi lâu là giá trị của biến số. Kiến thức về các cây con thuốc là biến số nhưng ít hiểu biết về các cây con thuốc là yếu tố. Ta có thể nói biến số mức độ hút thuốc lá có liên quan đến nguy cơ ung thư phổi nhưng phải nói hút thuốc lá nặng là yếu tố nguy cơ của ung thư phổi. 69
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Biến số (đại lượng hay đặc tính được quan tâm) được chia làm 3 loại: - Biến số có thể đo lường trực tiếp - chiều cao, cân nặng, tuổi, tình trạng hôn nhân.v.v - Biến số không thể đo lường trực tiếp được như tình trạng dinh dưỡng, mức độ đắc khí, mức độ hài lòng của bệnh nhân, kiến thức của bà mẹ về thực hành chăm sóc trẻ. - Biến số không đo lường được trong nghiên cứu hiện tại. Trên nguyên tắc, mọi biến số đều có thể đo lường được nhưng trong một nghiên cứu cụ thể có thể có một số biến số không đo lường được do hạn chế của điều kiện kĩ thuật hay không thống nhất về định nghĩa cụ thể (thí dụ nồng độ endorphine gia tăng sau khi châm cứu, mức độ hữu dụng của những bệnh nhân bị tàn tật, chất lượng dân số) Ðịnh nghĩa cụ thể Thông thường, nhà nghiên cứu bắt đầu với một quan điểm tương đối mơ hồ về cách đo lường các biến số nghiên cứu. Thí dụ, nếu nhà nghiên cứu muốn đo lường mức độ đau thì nhà nghiên cứu phải chuyển đổi khái niệm đau thành một mệnh đề chặt chẽ xác định cách đo lường biến số này. Phụ thuộc vào cách lí giải trừu tượng của khái niệm đau và yêu cầu cụ thể của nghiên cứu, chúng ta có thể chọn lựa một phương pháp đo lương mức độ đau đớn. Ðịnh nghĩa cụ thể của biến số là một mệnh đề về cách người nghiên cứu của một nghiên cứu nào đó chọn cách đo lường biến số đó. Nó phải không được mơ hồ và chỉ có một cách lí giải duy nhất. Thí dụ, một nhà nghiên cứu cho rằng việc điều trị của bà ta có thể giúp cải thiện việc "kiểm soát vận động", câu hỏi chúng ta cần đặt ra ngay là "kiểm soát vận động" có ý nghĩa như thế nào. Nhà nghiên cứu có thể trả lời là bà ta quan tâm đến việc kiểm soát vận động được đo lường bởi Plunkett Motor Dexterity Task Score. Một nhà nghiên cứu khác có thể không chấp nhận định nghĩa này và cho rằng việc kiểm soát vận động nên được tự đánh giá bởi bệnh nhân. Cả hai định nghĩa này được gọi là định nghĩa cụ thể. 70
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Một định nghĩa cụ thể tốt là định nghĩa cung cấp đủ thông tin để cho phép một nhà nghiên cứu khác có thể lập lại kĩ thuật đo lường, nếu người đó muốn. Trong mô tả nghiên cứu nhà nghiên cứu nên bao gồm trong định nghĩa cụ thể những công cụ đo lường và quy trình nghiên cứu để người đọc có thể rõ ràng về những việc đã làm. Biến số độc lập - phụ thuộc - gây nhiễu Việc xác định biến số nào là biến số độc lập hay biến số phụ thuộc được xác định trong phần đặt vấn đề và mục tiêu của nghiên cứu. Do đó trong khi thiết kế nghiên cứu cần phải xác định rõ ràng biến số nào là độc lập và biến số nào là phụ thuộc. Thí dụ nếu nghiên cứu mối quan hệ giữa ung thư phổi và hút thuốc lá thì hút thuốc lá là biến số độc lập và ung thư phổi là biến số phụ thuộc Nếu nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu tại sao thanh niên hút thuốc thì hút thuốc là biến số phụ thuộc và "áp lực của bạn bè" là biến số độc lập. Biến số gây nhiễu (confounding variable) là biến số cung cấp một giải thích khác của mối liên hệ giữa biến số độc lập và biến số phụ thuộc. Một biến số được đánh giá là biến số gây nhiễu khi có 3 đặc tính sau: - Có liên quan đến biến số phụ thuộc (là yếu tố nguy cơ của vấn đề nghiên cứu) - Có liên quan đến biến số độc lập (phân bố không đều giữa các giá trị của biến độc lập) - Không nằm trong cơ chế tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc Thí dụ: Số lần khám thai Cân nặng con lúc sinh (Biến số độc lập) (Biến số phụ thuộc) 71 Thu nhập - Học vấn gia đình (biến số gây nhiễu)
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Có mối liên hệ giữa số lần khám tiền sản và sanh con nhẹ hơn 2500 gram. Tuy nhiên thu nhập của gia đình cũng có thể ảnh hưởng đến số lần khám tiền sản và việc sanh con nhẹ cân. Như vậy thu nhập của gia đình là yếu tố gây nhiễu. Kiểm soát yếu tố gây nhiễu Ðể khắc phục yếu tố gây nhiễu người ta có thể sử dụng: - Phương pháp hạn chế: thí dụ chỉ nghiên cứu những bà mẹ trong gia đình có thu nhập trung bình, không nghiên cứu những bà mẹ trong gia đình nghèo - Phương pháp bắt cặp trong chọn mẫu và phân tầng trong phân tích mẫu: - Phương pháp phần tầng: gồm tiến hành phân tích số liệu riêng biệt cho nhóm bà mẹ nghèo, cho nhóm bà mẹ trung bình và nhóm bà mẹ giàu rồi tổng hợp kết quả lại. Thực chất phương pháp phân tầng gồm là sự tổng hợp của nhiều nghiên cứu hạn chế (mỗi nghiên cứu được hạn chế cho một giá trị của biến số gây nhiễu) - Phương pháp mô hình hóa sử dụng phương pháp hồi quy đa biến để tách riêng tác động của từng biến số có liên quan trong mô hình. Khi đó hệ số của các biến số trong mô hình đánh giá tác động của biến số đó, không bị ảnh hưởng hay gây nhiễu bởi các yếu tố khác (bởi vì trong hồi quy đa biến, hệ số B1 của biến số X1 nêu lên sự thay đổi của biến phụ thuộc Y khi X1 thay đổi một đơn vị và các biến số liên quan khác như X1 , X2 , … không thay đổi). - Phương pháp chia nhóm ngẫu nhiên: chỉ sử dụng được cho nghiên cứu thực nghiệm nhưng đây là phương pháp khử yếu tố gây nhiễu toàn diện nhất và không cần xác định hay đo lường toàn bộ các yếu tố gây nhiễu. Biến số nền (background variables) Trong bất cứ nghiên cứu nào, có những biến số nền tảng thí dụ như tuổi, giới, trình độ giáo dục, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, v.v. Những biến số này thường có ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu (biến số phụ thuộc) và có tác động như biến số gây nhiễu. Nếu biến số nền có ảnh hưởng quan trọng đến 72
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y nghiên cứu cần phải thu thập thông tin về biến số nền. Nhưng không nên thu thập quá nhiều biến số nền để tránh làm tăng kinh phí nghiên cứu một cách vô ích. 73
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Bài tập: 1. Giả sử chúng ta có khung ý niệm (conceptual framework) về mối liên hệ giữ kém vận động và bệnh mạch vành như sau: Hút thuốc lá Kém vận động Tăng LDL-cholesterol Bệnh mạch vành Giảm HDL-cholesterol Xem ti vi nhiều Trong các yếu tố: Hút thuốc lá, Tăng LDL-cholesterol, Xem ti vi nhiều, yếu tố nào được xem là yếu tố gây nhiễu? 2. Một nghiên cứu đoàn hệ được tiến hành ở Anh quốc, những người tham gia được ghi nhận mức độ hoạt động tình dục cao ở đầu nghiên cứu (được đánh giá bằng tần suất có khoái cảm) có nguy cơ tử vong trong 10 năm thấp hơn những người được ghi nhận có mức độ hoạt động tình dục thấp.1 Giả sử điều này là đúng, anh chị có lời khuyên gì về việc hoạt động tình dục để giảm thiểu nguy cơ tử vong. Một số nhà khoa học cho rằng kết luận của nghiên cứu có thể là không đúng. Họ giải thích rằng những người có quan hệ tình dục thường xuyên là những người có sức khoẻ tổng quát tốt hơn, do đó, có nguy cơ tử vong thấp hơn. Theo các anh chị, những nhà khoa học này cho rằng tình trạng sức khoẻ tổng quát là yếu tố biến đổi hậu quả hay yếu tố gây nhiễu? Nếu điều này được chứng minh là đúng thì anh chị sẽ có lời khuyên gì đối với mọi người để giảm thiểu nguy cơ tử vong. Các bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm lại đưa ra lời giải thích khác. Họ cho rằng ở những người khoẻ mạnh, quan hệ tình dục thường xuyên là có lợi cho sức khoẻ và làm giảm nguy cơ tử vong còn ở người ở tình trạng sức khoẻ tổng quát đã kém việc quan hệ tình dục thường xuyên lại khiến đối tượng dễ bị tử vong hơn. 74
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Theo các anh chị, nếu kinh nghiệm lâm sàng này là đúng thì tình trạng sức khoẻ tổng quát là yếu tố biến đổi hậu quả hay yếu tố gây nhiễu? Nếu điều này là đúng thì anh chị sẽ có lời khuyên gì đối với mọi người để giảm thiểu nguy cơ tử vong. 1. Davey Smith G, Frankel S, Yarnell J. Sex and death: are they related? Findings from the Caerphilly Cohort study. BMJ. 1997; 315: 1641-1644 2. Gần như tất cả các nghiên cứu quan sát cho thấy sự giảm nguy cơ tử vong bệnh tim ở các phụ nữ sử dụng oestrogen. Một nghiên cứu gộp (meta-analysis) của 25 nghiên cứu đã xuất bản tìm thấy nguy cơ tương đối chung là 0.70 đối với bệnh mạch tim ở các phụ nữ có sử dụng estrogen (so với nhóm không dùng oestrogen); trong 7 nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả của việc sử dụng oestrogen và progestogen, nguy cơ ước lượng là 0.66.2 Tuy nhiên, gần đây, Hemminki and McPherson đã tổng kết 22 nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên của việc sử dụng trị liệu oestrogen và thấy rằng các biến cố tim mạch lại là nguyên nhân chủ yếu của việc bỏ cuộc hay phản ứng ngoại ý.3 Tỉ số nguy cơ tóm tắt là (1.39) trong nhóm sử dụng estrogen so với nhóm không sử dụng. Điều này cho thấy estrogen không có tác dụng có lợi, nếu không phải là có hại, lên nguy cơ bệnh tim mạch. Anh chị tin vào kết quả nghiên cứu của loại nghiên cứu nào hơn? Anh chị cho rằng điều trị hormone thay thế ở phụ nữ mãn kinh có lợi hay có hại cho sức khỏe tim mạch? Tại sao anh chị lại tin như vậy? 1. Barrett-Connor E. Hormone Replacement Therapy. BMJ 1998;317:457- 461 . 2. Barrett-Connor E, Grady D. Hormone replacement therapy, heart disease, and other considerations. Annu Rev Public Health 1998; 19: 55-72. 3. Hemminki E, McPherson K. Impact of postmenopausal hormone therapy on cardiovascular events and cancer: pooled data from clinical trials. BMJ 1997; 315: 149-153 75
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y 4. Writing Group for the PEPI Trial. Effects of estrogen or Bias in studies of use of oestrogen and heart disease1 Bias in who is prescribed oestrogen: More educated Higher social class Osteoporosis* No diabetes, heart disease, or hypertension Healthier before treated Bias in who takes oestrogen: Compliant women estrogen/progestin regimens on heart disease risk factors in postmenopausal women. JAMA 1995; 273: 199-208 3. Một nghiên cứu thực nghiệm trên khỉ chimpanzee cho thấy lượng estrogen giúp khỉ chimpanzee cái được bảo vệ và có nguy cơ bị sốt rét thấp hơn so với khỉ đực. Một nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài này và thực hiện một nghiên cứu bệnh chứng để xác định mối liên hệ giữa giới tính và sốt rét. Nhà nghiên cứu này tìm được 150 trường hợp bệnh (trong đó có 88 nam) và 150 chứng (trong đó có 68 nam). Tỉ số số chênh thô tính được là 1,71. Nhà nghiên cứu này cũng biết chút ít về dịch tễ và cho rằng những hoạt động nghề nghiệp ngoài nhà là yếu tố gây nhiễu và do đó, thu thập thông tin về nghề nghiệp hoạt động ngoài nhà ở các đối tượng, sử dụng phương pháp phân tầng và ghi nhận được các kết quả sau: Nhóm nghề nghiệp ngoài nhà Nhóm nghề nghiệp trong nhà 76
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Bệnh Chứng Tổng số Bệnh Chứng Tổng số Nam 53 15 68 Nam 35 53 88 Nữ 10 3 13 Nữ 52 79 131 Tổng số 63 18 81 Tổng số 87 132 219 Theo các anh chị, nghề nghiệp (ngoài nhà và trong nhà) có phải là yếu tố gây nhiễu trong nghiên cứu này hay không? tại sao? Nhà nghiên cứu đang viết bài báo cáo và dự định sẽ công bố giá trị OR hiệu chỉnh theo nghề nghiệp. Tình cờ có một chuyên viên dịch tễ của Tổ Chức Y tế Thế giới đọc được bản thảo của nghiên cứu này và cho ý kiến phản biến. Theo ông, do nghề nghiệp là hậu quả của giới tính nên chuỗi giới tính - nghề nghiệp - sốt rét có thể được xem như là cơ chế tác động của giới tính lên nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Do đó nghề nghiệp không phải là yếu tố gây nhiễu. Ông ta khuyên nên báo cáo giá trị OR thô (không hiệu chỉnh cho nghề nghiệp). Theo anh chị, nhà nghiên cứu có nên nghe theo lời khuyên của chuyên gia dịch tễ hay không? 77
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Mục tiêu 1. Mô tả được những thiết kế thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học y học và hạn chế của mỗi loại nghiên cứu 2. Trình bày được từng loại nghiên cứu có ảnh hưởng gì đến tính giá trị và tính tin cậy của kết quả nghiên cứu 3. Xác định được loại nghiên cứu thích hợp cho đề cương nghiên cứu của chính học viên Mở đầu Phụ thuộc vào chúng ta đã biết gì về vấn đề nghiên cứu, có những câu hỏi khác nhau cần được đặt ra và tương ứng với các thiết kế nghiên cứu khác nhau. Việc chọn lựa thiết kế nghiên cứu phụ thuộc vào - Vấn đề thuộc loại gì? - Kiến thức đã biết được về vấn đề - Nguồn lực có được dành cho nghiên cứu Thí dụ trong những vấn đề về quản lí y tế (thí dụ như việc quá tải của bệnh viện) chỉ cần mô tả rõ ràng vấn đề và xác định các yếu cố góp phần cũng đủ cung cấp những thông tin để hành động. Ðối với một số vấn đề quản lí y tế và nhiều loại nghiên cứu khác, có thể chúng ta cần muốn biết mối liên hệ giữa các biến số (thí dụ như ít ăn rau và ung thư đại tràng). Trong trường hợp này chúng ta cần có nghiên cứu phân tích hay nghiên cứu thực nghiệm. 78
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Một số loại nghiên cứu Có nhiều cách phân loại nghiên cứu trong đó người ta thường chia làm 2 loại: - Các nghiên cứu không can thiệp: trong đó nhà nghiên cứu chỉ mô tả và phân tích tình hình nhưng không can thiệp - Các nghiên cứu có can thiệp: nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết quả của việc tác động (thí dụ như tiến hành chương trình giáo dục sức khoẻ và xem nó có tác động gì lên tỉ lệ tiêm chủng). Nghiên cứu không can thiệp Nghiên cứu không can thiệp bao gồm nghiên cứu thăm dò, nghiên cứu mô tả và nghiên cứu phân tích Nghiên cứu thăm dò Nghiên cứu thăm dò là nghiên cứu trên quy mô nhỏ trong thời gian ngắn khi chúng ta chưa rõ về vấn đề hay tình hình cần phải nghiên cứu Thí dụ: Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS muốn xây dựng dịch vụ tham vấn cho bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV nhưng không biết những nhu cầu của bệnh nhân cần được hỗ trợ. Ðể thăm dò những nhu cầu này, một số cuộc phỏng vấn sâu đã được tiến hành với nhiều nhóm bệnh nhân và với các nhân viên y tế đã làm trong lãnh vực này. Trong nghiên cứu thăm dò người ta thường mô tả và so sánh. Thí dụ nhà nghiên cứu có thể mô tả nhu cầu của từng nhóm bệnh nhân và so sánh nhu cầu về tham vấn của bệnh nhân nam và bệnh nhân nữ. Nghiên cứu thăm dò sẽ có giá trị tốt hơn nếu nhà nghiên cứu cố gằng tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng khác nhau. Nghiên cứu mô tả Nghiên cứu mô tả bao gồm việc thu thập và trình bày có hệ thống các số liệu nhằm cung cấp một bức tranh về một tình huống cụ thể. Nghiên cứu mô tả có thể được tiến hành trên một quy mô lớn hoặc quy mô 79
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y nhỏ. Ở quy mô nhỏ nghiên cứu mô tả bao gồm việc mô tả sâu các đặc tính của một số bệnh nhân hay các trạm y tế hoặc các dự án. Loại hình nghiên cứu này được gọi là nghiên cứu trường hợp (case study) hay báo cáo ca bệnh (case report, case series). Ở quy mô lớn hơn và các cuộc điều tra cắt ngang nhằm xác định sự phân bố của các biến số nhất định ở một thời điểm. Các đặc tính này có thể là các đặc tính thực thể, kinh tế xã hội hay hành vi của cộng đồng. Ðôi khi nhà nghiên cứu thường kết hợp sự mô tả dân số nghiên cứu với sự so sánh các nhóm trong dân số. Mặc dù nghiên cứu này cũng sử dụng phương pháp so sánh tương tự như nghiên cứu phân tích, khi chỉ so sánh các nhóm dân số khác nhau, bản chất của nghiên cứu này vẫn là nghiên cứu mô tả. Khác với các nghiên cứu phân tích nhằm tìm mối liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm và tình trạng bệnh tật, các nghiên cứu mô tả, Nghiên cứu mô tả nhằm báo động, tìm hiểu một số đặc điểm hay ước lượng quy mô của một vấn đề sức khoẻ hay tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi của người dân về vấn đề đó để đề xuất các giải pháp can thiệp. Những nghiên cứu mô tả bao gồm: nghiên cứu ca bệnh, nghiên cứu loạt ca bệnh trong nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu trường hợp trong nghiên cứu sức khoẻ công cộng. Các nghiên cứu kiến thức, thái độ, hành vi hay các điều tra cắt ngang cũng là các nghiên cứu mô tả quan trọng. Các nghiên cứu mô tả tương đối phổ biến trong y văn và sau đây là một số thí dụ Một báo cáo loạt ca bệnh (case series) dựa trên việc mô tả bệnh sử và bệnh cảnh lâm sàng của 4 người đàn ông được nhập viện tại trung tâmY khoa của Ðại học California ở Los Angeles (UCLA) vì bệnh viêm phổi do Pneumocystic carinii. 6 Ðây là một vấn đề sức khoẻ cần phải báo động vì loại viêm phổi này trước đây chỉ xuất hiện ở những người bị rối loạn hệ thống miễn dịch. Những nhà nghiên cứu tiến hành một nghiên cứu để xem đây là một vấn đề sức khoẻ mới hay chỉ là các trường hợp tương tự với những ca bệnh viêm phổi Pneumocystic carinii được phát 80
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y hiện từ trước? Vấn đề sức khoẻ này có những đặc điểm gì ? Một nghiên cứu trường hợp được tiến hành dựa trên việc mô tả đặc điểm của một trạm y tế có hoạt động tương đối tốt nhằm rút ra các bài học về quản lí cho các trạm y tế 7. Ðây là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn trong tình hình có nhiều trạm y tế còn hoạt động kém. Ở Anh quốc nhóm chăm sóc ban đầu (primary care groups) được đưa vào hoạt động từ năm 1999 và có một ngân quỹ thống nhất để chi trả cho các hoạt động y tế của bệnh nhân bao gồm cả chi phí nhập viện. Tuy nhiên người ta vẫn chưa rõ các thông tin nền (baseline) về sức khoẻ, kinh tế xã hội và tỉ lệ nhập viện của 66 nhóm chăm sóc ban đầu nay ở thành phố Luân đôn. Vì vậy một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành và cho thấy sự khác biệt đáng kể về kinh tế xã hội, y tế và thực hành của các nhóm và các thông tin này được sử dụng cho việc lập kế hoạch và đánh giá dịch vụ y tế 8. Như vậy các nghiên cứu mô tả có một giá trị thực tiễn hết sức to lớn và hoàn toàn không kém nghiên cứu phân tích về giá trị khoa học. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu vì không nắm rõ mục tiêu nghiên cứu của mình nên thay vì thực hiện một nghiên cứu mô tả tốt họ tiến hành một nghiên cứu phân tích kém. Thí dụ trong một nghiên cứu cắt ngang nhằm tìm hiểu mô hình bệnh tật của một cộng đồng (đây là một nghiên cứu rất có giá trị để thiết kế chương trình can thiệp y tế cho cộng đồng đó) nhà nghiên cứu không tập trung vào việc mô tả các vấn đề sức khoẻ mà lại (thí dụ như) cố gắng tìm mối liên hệ giữa ung thư và hút thuốc lá và như vậy làm loãng giá trị của đề tài nghiên cứu bằng một phân tích kém chất lượng và bị sai lệch. Nghiên cứu so sánh hay nghiên cứu phân tích Dịch tễ học phân tích (hoặc tìm nguyên nhân) có nội dung tìm nguyên nhân gây ra vấn đề sức khỏe trong dân chúng. Phương pháp áp dụng là phân tích các yếu tố ảnh hưởng làm gia tăng tỷ lệ 81
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y bệnh trong một dân số. Nguyên lí của phương pháp này là so sánh tỉ lệ mắc bệnh của hai nhóm dân số: một dân số có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ và một dân số không tiếp xúc với yếu tố nguy cơ. Nếu tỉ lệ mắc bệnh này khác biệt giữa hai nhóm (nghĩa là nguy cơ tương đối khác 1) thì ta kết luận có thể có mối liên hệ giữa yếu tố tiếp xúc và bệnh tật. Mặc dầu rất nhiều lãnh vực khoa học sinh học tham gia vào khảo sát nguyên nhân bệnh tật con người nhưng vai trò của dịch tễ học là độc đáo và không thể thay thế. Hơn nữa phương pháp dịch tễ học thường đi đầu tìm ra các nguyên nhân. Các ngành khoa học khác sẽ đi theo để tìm thêm chứng cứ ủng hộ. Thí dụ John Snow đã tìm ra cơ chế lây bệnh của dịch tả trước khi các nhà vi sinh học tìm ra phẩy khuẩn tả – Doll và Hill tìm thấy vai trò của thuốc lá gây bệnh ung thư phổi trước khi các nhà khoa học tìm thấy hóa chất sinh ung trong khói thuốc lá. Ðể có số liệu cụ thể, dịch tễ học phân tích có thể dùng các phương pháp điều tra thu thập sau đây: Khảo sát nguyên nhân trong cohort Coù beänh Coù tieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng beänh t0 Thôøi gian t1 Coù Khoâng beänh tieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng beänh t0 Thôøi gian t1 Nghiên cứu đoàn hệ là nghiên cứu nhằm tìm ra sự liên hệ giữa một yếu tố phơi nhiễm và một tình trạng sức khoẻ (thí dụ như một bệnh tật) bằng cách quan sát và so sánh nguy cơ mắc bệnh giữa hai nhóm quần thể có tình trạng phơi nhiễm 82
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y khác nhau. Một thí dụ kinh điển của nghiên cứu đoàn hệ là nghiên cứu các bác sĩ Anh quốc (The British Doctor's study) được bắt đầu tiến hành vào năm 1951 trong đó 34.440 nam bác sĩ được hỏi về tình trạng hút thuốc lá (có hay không) và được theo dõi về tử vong do ung thư phổi trong vòng 20 năm 3. Kết quả cho thấy nguy cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ở người không hút thuốc lá là 10/100.000 trong khi nguy cơ tử vong hàng năm do ung thư phổi ở người hút thuốc lá là 140/100.000. Như vậy hút thuốc lá làm tăng nguy cơ ung thư phổi lên 14 lần (nguy cơ tương đối là 14) và như vậy hút thuốc lá được gọi là yếu tố nguy cơ (hay nguyên nhân) của ung thư phổi. Tiền đề của nghiên cứu đoàn hệ là phải theo dõi đầy đủ một hiện tượng sức khoẻ của quần thể trong thời gian khá dài (không có mất theo dõi - loss from follow-up). Ðây là khuyết điểm chính của nghiên cứu đoàn hệ và các thiết kế nghiên cứu khác (bệnh chứng và cắt ngang) được đề xuất để khắc phục. Nếu được theo dõi đầy đủ, nghiên cứu đoàn hệ có ưu điểm là trực quan và ít gây ra sai lệch do chọn lựa và sẽ có tính thuyết phục cao. Khảo sát nguyên nhân bệnh chứng: Coù tieáp xuùc Coù beänh Khoâng tieáp xuùc t0 Thôøi gian t1 Coù tieáp xuùc Khoâng beänh Khoâng tieáp xuùc t0 Thôøi gian t1 83
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y Giả sử chúng ta không có điều kiện theo dõi 34.440 bác sĩ trong thời gian 20 năm nhưng chúng ta có điều kiện (a) biết chắc chắn một người có phải là một nam bác sĩ hay không (b) ghi nhận được thông tin của tất cả các trường hợp ung thư phổi xảy ra trên các nam bác sĩ và (c) chọn một mẫu đại diện cho quần thể nam bác sĩ về phương diện hút thuốc lá. Khi đó bằng phép tính số học đơn giản có thể chứng minh: soá cheânh huùt thuoác laù ôû ngöôøi maéc beänh soá cheânh maéc beänh ôû ngöôøi huùt thuoác laù OR soá cheânh huùt thuoác laù ôû ngöôøi khoâng maéc beänh soá cheânh maéc beänh ôû ngöôøi khoâng huùt thuoác laù Và như vậy chúng ta có thể ước lượng được nguy cơ tương đối mà không cần phải quan sát trong thời gian dài. Nhằm tìm hiểu sự liên quan giữa sử dụng Oestrogen tổng hợp (OCE) và ung thư mội mạc tử cung, một nghiên cứu bệnh chứng được tiến hành trong đó có 183 người bị ung thư nội mạc tử cung (nhóm bệnh) và 183 người không bị ung thư nội mạc tử cung (nhóm chứng) được hỏi tiền căn sử dụng OCE4 . Kết quả cho thấy trong nhóm bệnh có 55 người có tiền căn sử dụng OCE (số chênh sử dụng OCE trong nhóm này là 55/128=0,43) và trong nhóm chứng có 19 người có tiền căn sử dụng OCE (số chênh sử dụng OCE trong nhóm chứng là 19/164=0,12). Tỉ số của hai số chênh này là 0,43/0,12= 3,6. Con số này (3,6) cũng chính là số chênh mắc ung thư mội mạc tử cung của nhóm sử dụng OCE so với nhóm không sử dụng OCE hay là mức tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung nếu sử dụng OCE. Nghiên cứu bệnh chứng tốt đòi hỏi phải thoả mãn 3 điều kiện đã nêu ở trên trong đó có điều kiện là phải có thông tin về tất cả các trường hợp bệnh vì vậy nghiên cứu này thích hợp cho các bệnh nghiêm trọng và tất cả các trường hợp bệnh đều phải nhập viện. Bệnh ung thư là một thí dụ kinh điển của loại bệnh thích hợp cho nghiên cứu bệnh chứng. Nếu nghiên cứu bệnh chứng không thoả mãn được 3 84
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y điều kiện trên sẽ bị sai lệch (biased). Hơn thế nữa, khi tiến hành nghiên cứu bệnh chứng, nhà nghiên cứu phải chuẩn bị rất chu đáo về mặt kĩ thuật vì không dễ dàng thuyết phục được cộng đồng khoa học đều đồng ý rằng nhóm chứng là thực sự đại diện cho quần thể không mắc bệnh. Tuy nhiên nghiên cứu bệnh chứng có ưu điểm là tiến hành nhanh, ít tốn kém đặc biệt trong nghiên cứu các bệnh hiếm và có thời gian tiềm tàng kéo dài. Nghiên cứu cắt ngang Trở về thí dụ nghiên cứu sự liên hệ giữa hút thuốc là và ung thư phổi, chúng ta có thể không cần thời gian theo dõi trong suốt thời gian từ 1951 đến 1971 mà chỉ cần tiến hành một cuộc điều tra ở thời điểm 1971, ghi nhận thông tin về hút thuốc và ung thư phổi và có được kết luận tương tự như nghiên cứu đoàn hệ nếu chúng ta giả định được rằng (a) Tất cả các trường hợp ung thư phổi chẩn đoán trong giai đoạn 1951 đến 1971 đều còn sống cho đến năm 1971 (b) Việc mắc ung thư phổi không làm thay đổi thói quen hút thuốc lá của bác sĩ mắc bệnh (nghĩa là nếu họ hút thuốc lá rồi bị ung thư phổi thì họ vẫn tiếp tục hút thuốc lá và nếu họ không hút thuốc lá thì sau khi ung thư phổi vẫn tiếp tục không hút thuốc lá). Như vậy, nghiên cứu cắt ngang thường ít được sử dụng cho các bệnh nghiêm trọng như ung thư, bệnh nhiễm trùng, tai nạn. Những bệnh thích hợp cho nghiên cứu cắt ngang bao gồm rối loạn có tính chất định lượng và ít gây tử vong (béo phì, suy dinh dưỡng, bất dung nạp đường huyết, tăng huyết áp thể nhẹ hay trung bình). Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở Bavaria, cộng hoà liên bang Ðức nhằm đánh giá tác động của bú sữa mẹ (trong thời kì nhũ nhi) lên nguy cơ béo phì (vào cuối tuổi nhà trẻ) bằng cách sử dụng các số liệu chiều cao, cân nặng và bộ câu hỏi về dinh dưỡng của 9357 trẻ từ 5-6 tuổi được khám sức khoẻ trước khi nhập học 5. Ở trẻ không được bú mẹ, tỉ lệ béo phì là 4,5% trong khi đó ở trẻ được bú mẹ tỉ lệ béo phì là 2,8%. Tác giả kết luận rằng bú sữa mẹ làm giảm nguy cơ béo phì ở cuối tuổi nhà trẻ. Mặc dù đây là nghiên cứu cắt ngang nhưng có tính 85
- Trường Đại Học Võ Trường Toản Khoa Y giá trị tốt do thoả mãn được hai giả định của nghiên cứu cắt ngang (a) đứa trẻ bị béo phì không bị tăng nguy cơ tử vong và (b) việc trẻ bị béo phì không ảnh hưởng gì đến việc bú sữa mẹ ở giai đoạn nhũ nhi. Tóm lại nghiên cứu cắt ngang có ưu điểm là đơn giản và ít tốn kém. Tuy nhiên nó chỉ có thể áp dụng được cho các bệnh tật có tính chất định lượng, phổ biến, ít gây tử vong và các yếu tố nguy cơ ít biến động. Nghiên cứu can thiệp Trong nghiên cứu can thiệp nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo lường kết quả của việc tác động. Thông thường có hai nhóm được so sánh,nhóm được can thiệp (thí dụ như được điều trị với một loại thuốc) và nhóm không được can thiệp (nhóm sử dụng giả dược). Nghiên cứu can thiệp được chia thành nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu bán thực nghiệm Trong nghiên cứu thực nghiệm, các cá nhân được chia ngẫu nhiên thành (ít nhất) hai nhóm. Một nhóm được nhận can thiệp (nhóm thử nghiệm) và một nhóm không được nhận can thiệp (nhóm chứng). Kết cuộc của can thiệp được tính từ việc so sánh kết quả ở hai nhóm. Nghiên cứu thực nghiệm có 3 đặc tính: - Thao tác - Có nhóm chứng - Chia nhóm ngẫu nhiên: sức mạnh của nghiên cứu thực nghiệm chính là việc chia nhóm ngẫu nhiên giúp loại bỏ yếu tố gây nhiễu. Nghiên cứu bán thực nghiệm là nghiên cứu có sự thao tác của nhà nghiên cứu nhưng thiếu một trong hai đặc tính còn lại của nghiên cứu thực nghiệm (thí dụ như không có nhóm chứng hay không được chia nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu thực nghiệm có thể được chia làm 3 loại: 1- Thử nghiệm lâm sàng: là nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân. Loại 86
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng - PGS.TS. Lê Thị Hợp
45 p | 472 | 59
-
Bài giảng Nhân học y tế ứng dụng và phương pháp nghiên cứu định tính
9 p | 340 | 55
-
Bài giảng Sinh học đại cương: Chương III - Di truyền học người
37 p | 213 | 43
-
Bác sĩ lâm sàng - Phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản: Phần 1
56 p | 137 | 27
-
Bài giảng Bệnh học - PGS.TS. Hứa Thị Ngọc Hà
100 p | 115 | 14
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2021)
68 p | 22 | 9
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
53 p | 17 | 8
-
Bài giảng Dược lý 3: Phương pháp nghiên cứu dược lâm sàng - Mai Thị Thanh Thường
43 p | 12 | 6
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
66 p | 17 | 6
-
Bài giảng Dịch tễ học: Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học - BS. Nguyễn Văn Thịnh
35 p | 46 | 6
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2018)
71 p | 10 | 5
-
Bài giảng Nghiên cứu khoa học: Phương pháp nghiên cứu y học - CĐ Y tế Hà Nội
52 p | 9 | 5
-
Lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học sức khoẻ: Phần 1
102 p | 11 | 5
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu dịch tễ
50 p | 14 | 5
-
Bài giảng Dược lý 3: Các phương pháp nghiên cứu dược lý ở mức độ phân tử - Mai Thị Thanh Thường
54 p | 7 | 2
-
Bài giảng Dược lý 3: Phương pháp nghiên cứu tiền lâm sàng trên gan - Mai Thị Thanh Thường
62 p | 8 | 2
-
Bài giảng Vai trò nghiên cứu điều dưỡng và thực hành dựa vào bằng chứng - ThS. Huỳnh Thị Kim Thi
28 p | 12 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn