Bài giảng Tài chính tiền tệ - ĐH Lâm Nghiệp
lượt xem 9
download
Bài giảng Tài chính tiền tệ bao gồm 8 chương, với các nội dung chính như sau: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và tiền tệ; Ngân sách Nhà nước; Ngân hàng trung ương; Tài chính trung gian; Tài chính doanh nghiệp; Tài chính hộ gia đình; Tài chính quốc tế; Thị trường tài chính. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Tài chính tiền tệ - ĐH Lâm Nghiệp
- THS. ĐÀO LAN PHƯƠNG, THS. ĐỖ THỊ THÚY HẰNG, THS. HOÀNG THỊ HẢO, THS. LƯU THỊ THẢO TµI CHÝNH TIÒN TÖ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017
- THS. ĐÀO LAN PHƯƠNG, THS. ĐỖ THỊ THÚY HẰNG, THS. HOÀNG THỊ HẢO, THS. LƯU THỊ THẢO BÀI GIẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017 1
- 2
- LỜI NÓI ĐẦU Lý thuyết tài chính tiền tệ là môn học cơ sở ngành của khối ngành kinh tế. Nội dung cơ bản của môn học là cung cấp cho sinh viên và những người quan tâm những kiến thức cơ bản về tài chính và tiền tệ như bản chất, chức năng của tài chính; bản chất, chức năng của tiền tệ và hoạt động tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế như hoạt động của Ngân sách nhà nước, hoạt động của Ngân hàng trung ương, hoạt động tài chính của doanh nghiệp, các hộ gia đình, các tổ chức tài chính trung gian, các quan hệ tài chính quốc tế và vai trò của chúng trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính, sự vận dụng các chức năng của tài chính và tiền tệ để quản lý nền kinh tế vĩ mô... Đây là những vấn đề lý luận giúp sinh viên và bạn đọc có cái nhìn tổng quát hơn về tài chính và tiền tệ trong nền kinh tế để gắn kết được giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là cơ sở để sinh viên tiếp cận dễ dàng các môn học chuyên ngành trong tương lai. Bài giảng Tài chính tiền tệ bao gồm 8 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và tiền tệ; Chương 2: Ngân sách Nhà nước; Chương 3: Ngân hàng trung ương; Chương 4: Tài chính trung gian; Chương 5: Tài chính doanh nghiệp; Chương 6: Tài chính hộ gia đình; Chương 7: Tài chính quốc tế; Chương 8: Thị trường tài chính. Trong đó, Thạc sỹ Đào Lan Phương biên soạn các chương 4, 6; Thạc sỹ Hoàng Thị Hảo biên soạn các chương 5, 7; Thạc sỹ Lưu Thị Thảo biên soạn các chương 2, 8; Thạc sỹ Đỗ Thị Thúy Hằng biên soạn các chương 1, 3. Vì nhiều lý do nên cuốn bài giảng này còn cần bổ sung để hoàn chỉnh hơn trong tương lai. Do đó, tập thể tác giả rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp chân thành của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các đồng nghiệp và bạn đọc để bài giảng ngày càng có chất lượng cao hơn. Nhóm tác giả 3
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Giải thích 1 BCNSNN Bội chi ngân sách nhà nước 2 BHKD Bảo hiểm kinh doanh 3 BHXH Bảo hiểm xã hội 4 BHYT Bảo hiểm y tế 5 CBCNVC Cán bộ công nhân viên chức 6 CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 7 DNNN Doanh nghiệp nhà nước 8 GDP Thu nhập quốc dân 9 HCSN Hành chính sự nghiệp 10 KTQT Kinh tế quốc tế 11 LHQ Liên hợp quốc 12 NHNN Ngân hàng nhà nước 13 NHNNVN Ngân hàng nhà nước Việt Nam 14 NHTM Ngân hàng thương mại 15 NHTƯ Ngân hàng trung ương 16 NSNN Ngân sách nhà nước 17 SXKD Sản xuất kinh doanh 18 TCQT Tài chính quốc tế 19 TTTC Thị trường tài chính 4
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ 1.1. Lý luận cơ bản về tiền tệ 1.1.1. Sự ra đời và phát triển các hình thái tiền tệ 1.1.1.1. Sự ra đời của tiền tệ Trong kinh tế chính trị học, Các Mác đã khẳng định nguồn gốc của tiền bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của các quan hệ trao đổi. Quá trình ra đời của tiền tệ gắn liền với 4 hình thái giá trị: * Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên: Trao đổi xuất hiện từ khi công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Hình thức trao đổi lúc này là trao đổi trực tiếp vật lấy vật và hoàn toàn mang tính chất ngẫu nhiên. Phương thức trao đổi được thể hiện bằng phương trình: 1 rìu = 20 kg thóc Trong hình thái giá trị này,trao đổi còn chưa trở thành nhu cầu thường xuyên của con người. Số lượng hàng hóa tham gia trao đổi ít, hình thức trao đổi còn mang tính chất trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định. * Hình thái mở rộng: Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất xuất hiện, việc trao đổi trở nên thường xuyên hơn, lúc này có nhiều hàng hóa tham gia trao đổi hơn. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái mở rộng. Phương trình trao đổi trong giai đoạn này: 1 cái rìu = 20kg thóc = 10 m vải = 1 con cừu… Ở hình thái này, tỷ lệ trao đổi được cố định hơn trước. Tuy vậy, việc trao đổi vẫn mang tính chất trao đổi trực tiếp. Mỗi hàng hóa là vật ngang giá riêng biệt của một hàng hóa khác nên những người trao đổi khó đạt được mục đích ngay. * Hình thái chung: Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện (thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp), năng suất lao động tăng lên, trao đổi trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến. Trong quá trình trao đổi xuất hiện nhu cầu tìm một loại hàng hóa được 5
- nhiều người ưa thích nhất được tách ra để trao đổi nhiều lần với các hàng hóa khác hình thành vật ngang giá chung. Phương trình trao đổi: 20 kg thóc = 1 cái rìu 10 m vải = 1 con cừu = … = Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, khi có một hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần với các hàng hóa khác, thì lúc đó tiền tệ đã xuất hiện và vật ngang giá chung đó chính là tiền của vùng, khu vực đó. Tuy nhiên, C.Mác lại cho rằng, hàng hóa làm tiền tệ phải có giá trị cao, là vật ngang giá chung cho cả thế giới hàng hóa. * Hình thái tiền tệ: Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Có nhiều hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng nhưng cuối cùng nó được cố định ở vàng. Khi đó, hình thái giá trị chung chuyển thành hình thái tiền tệ. Phương trình trao đổi: 20 kg thóc = 0,2 gr vàng 1 con cừu = 1 cái rìu = … = Vàng là vật ngang giá chung cho cả thế giới hàng hóa. Lúc này, thế giới hàng hóa tách ra thành 2 cực: một cực là hàng hóa thông thường, một cực là hàng hóa tiền tệ, đóng vai trò trung gian trong trao đổi với các hàng hóa còn lại. 1.1.1.2. Các loại tiền tệ * Tiền bằng hàng hóa thông thường: Những hàng hóa được sử dụng làm tiền thường phải đáp ứng các điều kiện: - Những hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần với hàng hóa khác. - Hàng hóa đó là quý hiếm, gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên chở và phù hợp với tập quán trao đổi từng địa phương. 6
- - Hàng hóa tiền tệ: da thú, vòng đá, muối, vải… * Tiền vàng: Vàng là loại hàng hóa được nhiều người ưu thích.Vì vậy, việc dùng vàng làm tiền tệ dễ được chấp nhận trên phạm vi rộng. Những đặc tính của vàng rất thuận lợi trong việc thực hiện chức năng tiền tệ. Mặt khác, giá trị của vàng ổn định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng bởi sự tăng năng suất lao động xã hội làm cho tiền vàng có giá trị ổn định. Tuy nhiên, tiền vàng cũng tồn tại những nhược điểm làm cho việc sử dụng trở nên bất tiện dẫn đến tiền vàng bị loại bỏ khỏi lưu thông. * Tiền đúc bằng kim loại kém giá: - Tiền được đúc bằng các thứ kim loại thường: đồng, chì, kẽm, nhôm… - Lưu thông chủ yếu trong các triều đại phong kiến, do nhà vua giữ độc quyền phát hành. - Tiền kim loại kém giá có nhiều ưu điểm: Có thể phát hành khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế, các đồng tiền có thể được đúc với các mệnh giá khác nhau, phù hợp với các giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ… Tuy nhiên, tiền đúc bằng kim loại kém giá cũng tồn tại một số nhược điểm như giá trị nội tại rất nhỏ, dễ hỏng, dễ làm giả… * Tiền giấy: Xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc hoặc vàng do các ngân hàng phát hành, được sử dụng trong thanh toán như vàng hay bạc. Tiền giấy xuất hiện giúp cho việc giao dịch với những khoản tiền lớn cũng như vận chuyển chúng trở nên dễ dàng và dần dần thay thế cho các loại hóa tệ, các giấy chứng nhận dần được chuẩn hóa thành các tờ tiền giấy có in mệnh giá và có khả năng đổi ra vàng một cách tự do theo hàm lượng vàng quy định cho nó. Mặc dù tiền giấy có nhiều ưu điểm, tuy nhiên cũng tồn tại một số nhược điểm: không bền, có thể bị làm giả, dễ rơi vào tình trạng bất ổn… * Tiền chuyển khoản: Hình thức tiền tệ này được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán của ngân hàng và khách hàng. Đây là đồng tiền phi vật chất và là loại tiền mang dấu hiệu giá trị như tiền giấy. Sử dụng tiền chuyển khoản, chủ sở hữu phải sử dụng các lệnh thanh toán để ra lệnh cho ngân hàng nơi mình mở tài khoản thanh toán hộ thông qua các công cụ thanh toán: giấy tờ thanh toán (séc, uỷ 7
- nhiệm chi…); thẻ thanh toán; thanh toán qua mạng máy tính… Ngày nay, tiền chuyển khoản chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 80%) trong tổng phương tiện thanh toán. 1.1.2. Các quan niệm và chức năng của tiền tệ 1.1.2.1. Quan niệm về tiền tệ Tiền tệ xuất hiện là kết quả lâu dài và tất nhiên của trao đổi hàng hóa. Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với các hàng hóa khác. Nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Vậy, bản chất của tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các hàng hóa khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Tuỳ theo cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, các nhà kinh tế học đã đưa ra những định nghĩa về tiền theo quan niệm riêng của mình. Theo quan điểm của C. Mác: Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương tiện thực hiện quan hệ trao đổi. Theo quan điểm của các nhà Kinh tế học hiện đại: Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế. 1.1.2.2. Chức năng của tiền tệ * Theo quan điểm của C. Mác, tiền tệ có 5 chức năng: (1) Chức năng thước đo giá trị: Thước đo giá trị là chức năng đầu tiên và là chức năng quan trọng nhất của tiền. Thực hiện chức năng này, giá trị của tiền được sử dụng làm phương tiện – thước đo, để so sánh với giá trị của tất cả các hàng hóa. Để thực hiện được chức năng thước đo giá trị tiền phải hội tụ đủ những điều kiện sau đây: - Thứ nhất, tiền phải có đầy đủ giá trị:Tất cả các hàng hóa đều phải có giá trị nội tại, vì vậy để đo được những lượng giá trị này thì “thước đo” – tiền, phải có giá trị. Nếu thước đo không có giá trị bản thân, thì không thể so sánh được với giá trị của các hàng hóa. - Thứ hai, tiền phải có tiêu chuẩn giá cả: Tiêu chuẩn giá cả là một trọng lượng vàng (hoặc kim loại tiền khác) được luật pháp quy định cho tiền đơn vị và tên gọi của nó. Ví dụ: Tiền đơn vị của hợp chủng quốc Hoa kỳ (USD) gọi là Đôla, 8
- ký hiệu là USD. Năm 1973 tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền này là: 1 USD = 0,736662 gr vàng ròng. (2) Chức năng phương tiện lưu thông: Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền đóng vai trò môi giới trung gian trong trao đổi. Quá trình thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, hay quá trình trao đổi hàng hóa diễn ra dưới sự thay đổi hình thái sau đây: H–T–H Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tiền có những đặc thù khác với thực hiện chức năng thước đo giá trị, đó là: - Thứ nhất, phải sử dụng “tiền mặt”. - Thứ hai, có thể sử dụng tiền dấu hiệu. - Thứ ba, lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định. (3) Chức năng phương tiện dự trữ giá trị: Thực hiện chức năng “dự trữ giá trị”, tiền và các phương tiện chuyển tải giá trị nói chung, phải đảm bảo đầy đủ những yêu cầu sau đây: - Thứ nhất, giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện chuyển tải giá trị hiện thực chứ không phải là một lượng tiền “tưởng tượng”. - Thứ hai, những phương tiện dự trữ giá trị được xã hội thừa nhận. - Thứ ba, các phương tiện dự trữ giá trị đều mang tính thời gian. (4) Chức năng phương tiện thanh toán: Các hàng hóa được thực hiện giá trị bằng hình thức mua – bán chịu, người bán sẽ được thanh toán khi thời hạn nợ đã hết. Tiền xuất hiện lúc này với tư cách thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, đồng thời cũng là phương tiện kết thúc quan hệ trao đổi. Thực hiện chức năngphương tiện thanh toán tiền còn được sử dụng để nộp thuế, trả lương, trả tiền công, các khoản đóng góp chi dịch vụ… (5) Chức năng phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới: Thực hiện các quan hệ trao đổi giữa các nước, tiền thực hiện chức năng phương tiện trao đổi quốc tế. Tuy nhiên, theo mức độ “mạnh”, “yếu” của mỗi đồng tiền, mà chúng tham gia vào quá trình trao đổi quốc tế ở mức độ khác nhau. Ngày nay, quan hệ trao đổi quốc tế gần như được mở rộng đến khắp các nước và các khu vực trên hành tinh. Để thực hiện được các quan hệ trao đổi này, các nước chỉ có thể sử dụng đồng tiền chung, đó là “tiền thế giới”. Tiền thế giới là phương tiện chi trả, thanh toán và dự trữ giá trị, được các 9
- đối tượng tham gia trao đổi ở mọi quốc gia thừa nhận. Để thực hiện chức năng “tiền thế giới”, buộc phải sử dụng tiền vàng.Các đồng tiền quốc gia đều không thực hiện được chức năng này. * Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền tệ có 3 chức năng: (1) Chức năng đơn vị định giá: Thực hiện chức năng này, tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để đo giá trị của các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của các hàng hóa, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, nhờ đó mà việc trao đổi hàng hóa được diễn ra thuận lợi hơn. Nếu giá trị hàng hóa không có đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hóa sẽ được định giá bằng tất cả các hàng hóa còn lại, tuy nhiên số lượng giá các mặt hàng trong nền kinh tế ngày nay rất nhiều đến mức người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng hàng hóa. Khi giá của các hàng hóa, dịch vụ được biểu hiện bằng tiền, không những thuận tiện cho người bán hàng hóa mà việc đọc bảng giá cung đơn giản hơn nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các giao dịch. Trong thời đại ngày nay, mặc dù các phương tiện được sử dụng là tiền không còn giá trị như các hàng hóa khác nhưng nó được mọi người chấp nhận trong lưu thông, do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị các hàng hóa. Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào, việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá trị đều mang tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước. (2) Chức năng phương tiện trao đổi: Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong việc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và mua với một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người tham gia trao đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm kiếm như vậy quá cao. Vì vậy, việc sử dụng tiền làm môi giới trong quá trình này, tức là người ta trước hết sẽ đổi hàng hóa của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hóa mình cần. Rõ ràng việc thực hiện lần lượt các giao dịch bán và mua với hai người sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc thực hiện đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định: được chấp nhận rộng rãi, dễ nhận biết, có thể chia nhỏ được, dễ vận chuyển, không bị hư hỏng nhanh chóng, được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng, có tính đồng nhất. 10
- (3) Phương tiện dự trữ về mặt giá trị: Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một phương tiện để cho việc cất giữ sức mua trong những trường hợp này hoặc có thể người ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải. Việc cất giữ như vậy có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện ngoài tiền khác như: cổ phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa... một số loại tài sản như vậy đem lại một mức lãi cao hơn cho người giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao về giá so với việc giữ tiền mặt. Tuy nhiên, người ta vẫn giữ tiền với mục đích dự trữ giá trị bởi vì tiền có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng ra các tài sản khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí giao dịch cao khi người ta muốn chuyển đổi nó sang tiền. Những điều đó cho thấy, tiền là một phương tiện dự trữ giá trị bên cạnh các loại tài sản khác. 1.1.3. Lưu thông tiền tệ và lạm phát 1.1.3.1. Các khối tiền tệ * Khối lượng tiền trong lưu thông: - Khối lượng tiền trong lưu thông là tổng các phương tiện, được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, tại một thị trường nhất định và trong một thời gian nhất định. - Khối lượng tiền trong lưu thông được ký hiệu là Ms, bao gồm các bộ phận sau đây: M1: Được gọi là khối tiền tệ giao dịch, gồm những phương tiện có “tính lỏng” cao nhất trong lưu thông. M1 lại được phân loại theo thứ tự sau: + Tiền mặt (tiền vàng, giấy bạc ngân hàng, tiền đúc lẻ). + Tiền gửi không kỳ hạn. M2: Được gọi là khối tiền tệ giao dịch mở rộng.Gồm cả những phương tiện “tính lỏng” thấp hơn. Thành phần M2 có các bộ phận: + M1. + Tiền gửi có kỳ hạn. M3:Khối tiền tệ tài sản, có “tính lỏng” thấp nhất. Thành phần M3 bao gồm: + M2. + Thương phiếu. + Tín phiếu. 11
- + Trái khoán và cổ phiếu… Như vậy: Ms = M3 + Các phương tiện có khả năng thanh toán khác. Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hơn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là: - Số lượng các phương tiện được phát hành từ ngân hàng. - Các phương tiện được phát hành từ doanh nghiệp. - Các phương tiện được phát hành từ chính phủ. Nếu tài sản tích lũy của dân cư và doanh nghiệp đưa vào đầu tư lớn, thì số lượng các phương tiện lưu thông sẽ tăng lên. Nếu tài sản này bị lưu giữ, thì không những các phương tiện lưu thông bị giảm thấp, mà còn làm cho nền kinh tế bị trì trệ. * Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền do tổng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ quyết định. Khối lượng tiền này được ký hiệu Mn (Necessary Money). Mn phụ thuộc vào hai yếu tố: - Tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thông trong kỳ. Yếu tố này chính là tổng mức chu chuyển hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế quốc dân. - Tốc độ lưu thông bình quân của tiền trong kỳ: P Q Mn V Trong đó: P: Mức giá cả hàng hóa. Q: Tổng khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông. V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ. Trên thực tế cung và cầu tiền thường xuyên không cân bằng. Nghĩa là giữa Ms và Mn luôn luôn có khoảng cách. Khoảng cách này được thể hiện bằng những tỷ số sau: Tỷ số (1): Ms 1 Mn Đây là tỷ số giả định. Theo tỷ số này, nghĩa là tiền trong lưu thông tương đương với số lượng tiền cần thiết. Nếu có tỷ số này trong lưu thông tiền – hàng 12
- là cân đối. Đây là tỷ số lý thuyết trong quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. Tỷ số (2): Ms 1 Mn Nếu xuất hiện tỷ số này, nghĩa là tiền trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng tiền cần thiết. Đây là hiện tượng thiểu phát.Hàng hóa chậm tiêu thụ vì thiếu phương tiện lưu thông. Hoặc hàng hóa sẽ bị giảm giá trên diện rộng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh. Tỷ số (3): Ms 1 Mn Tỷ số này cho thấy tiền trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết. Nếu có tỷ số này, thì dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện. Tuy nhiên tùy theo mức độ, lạm phát sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thực tế chưa thể xác định được các tỷ số trên một cách chính xác. Nhưng tỷ lệ này, có thể được kiểm chứng thông qua “tín hiệu thị trường”, như các chỉ số giá hàng tiêu dùng, tỷ giá hối đoái, giá vàng…Điều chỉnh để Ms xích lại gần Mn là công việc của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. 1.1.3.2. Cung cầu tiền tệ * Cung tiền cho lưu thông: Khối lượng tiền cho lưu thông được cung ứng từ các tác nhân sau: (1) Ngân hàng trung ương cung tiền: Ngân hàng trung ương giữ độc quyền phát hành và lưu thông giấy bạc ngân hàng, ngân phiếu thanh toán và các phương tiện lưu thông – thanh toán khác, thông qua các nghiệp vụ sau: - Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, các chứng từ có giá…của các ngân hàng thương mại và của các tổ chức tín dụng; - Tái cầm cố các phương tiện nêu trên; - NHTƯ ứng tiền cho Ngân sách nhà nước. 13
- (2) Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cung tiền: Những tác nhân này về nguyên tắc không có quyền cung ứng tiền vào lưu thông.Nhưng trong thực tiễn, chúng lại góp phần tích cực làm gia tăng khối lượng tiền hiện có. Những nghiệp vụ làm tăng khối lượng tiền lưu thông của các NHTM các tổ chức tín dụng là: - Một là, tổng nghiệp vụ “Có” lớn hơn tổng nghiệp vụ “Nợ”. Nguồn vốn của các NHTM là một lượng có hạn. Nhưng trong thực tiễn, khi thực hiện nghiệp vụ chúng lại sử dụng số vốn lớn hơn nguồn vốn thực có, như: + Cho khách hàng vay quá nguồn vốn huy động được. + Cho khách hàng chi vượt quá số dư tiền gửi. + Xử lý chứng từ thanh toán đòi tiền khách hàng,bằng cách ghi “Có” trước, ghi “Nợ” sau. + Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ. Những nghiệp vụ trên được coi là nghiệp vụ tạo tiền của các NHTM. Tùy theo quy chế quản lý tài chính của mỗi quốc gia và chính sách tiền tệ của NHTƯ, nghiệp vụ trên có thể bị ngăn cấm hoặc giới hạn phạm vi. Nhưng trên thực tế nghiệp vụ này vẫn được thực hiện và một số lượng tiền mới lại được tăng thêm trong lưu thông.Các nghiệp vụ trên tuy được thực hiện bằng hình thức ghi sổ và tiền tồn tại dưới dạng“bút tệ”, nhưng chúng vẫn phát huy chức năng thực sự của tiền. Đồng thời sau đó chúng có thể chuyển hóa thành những phương tiện chuyển tải giá trị khác nhau. - Hai là, các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện có giá trị thanh toán khác, được các NHTM phát hành theo quy chế quản lý tài chính. Những phương tiện này có thể thay tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Chúng đã góp phần làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. (3) Các tác nhân và các tổ chức phi ngân hàng cung tiền: Mỗi tác nhân có thể phát hành vào lưu thông những phương tiện lưu thông và thanh toán đặc thù, được quy chế tài chính cho phép. - Chính phủ:Phát hành công trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị (cấp tỉnh hoặc cấp bang) trái phiếu công trình, trái phiếu kho bạc… - Các tác nhân mở tài khoản trong hệ thống NHTM như: các doanh nghiệp, các tổ chức không kinh doanh, các thể nhân…Các tác nhân này, tùy theo 14
- mục tiêu hoạt động, quy chế tài chính có thể cho phép chúng phát hành: cổ phiếu, trái khoán, séc các loại… Các phương tiện nêu trên làm cho thành phần của tiền trong lưu thông thêm phong phú. Tuy nhiên “tính lỏng” của chúng kém hơn các thành phần khác của tiền. Vì vậy, những tác nhân và thể nhân sở hữu chúng luôn luôn tìm cách chuyển hóa chúng về M1, để từ đó lại chuyển hóa thành những phương tiện khác phù hợp. Sự chuyển hóa này là thường xuyên. Nhưng tại thời điểm chuyển hóa, nó chỉ làm thay đổi các thành phần của tiền, chứ không làm thay đổi tổng khối lượng tiền. Nghiệp vụ cung ứng tiền cho lưu thông rất đa dạng. Có nhiều tác nhân tham gia vào quá trình này, trong đó NHTƯ giữ vai trò quan trọng nhất vì: + NHTƯ quyết định khối lượng tiền đưa vào lưu thông và khối lượng giấy bạc ngân hàng trong lưu thông qua lãi suất tái chiết khấu. + NHTƯ quyết định quy mô đầu tư tín dụng của các NHTM bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng tiền đang lưu thông. + NHTƯ quyết định việc điều chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng và do đó tác động đến điều hòa tiền trong nền kinh tế. * Nhu cầu tiền trong lưu thông: Tổng nhu cầu tiền của nền kinh tế trong một thời kỳ, được xác định bằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn). - Nhu cầu tiền của các tác nhân và thể nhân được chia thành các loại sau đây: (1) Nhu cầu tiền cho giao dịch: Hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra thường xuyên.Mọi giao dịch đều cần phải sử dụng tiền, như: trả công lao động (trả lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ, mua vật phẩm tiêu dùng…các khoản chi này hợp thành tổng cầu tiền cho giao dịch. (2) Nhu cầu tiền cho tích lũy: Ngoài các khoản chi thường xuyên cho giao dịch, các tác nhân còn phải tích lũy một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến… Giá trị của các khoản này chưa đến “độ sử dụng”, chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới dạng tiền nhàn rỗi. Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền dành cho nhu cầu tích lũy với các mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích 15
- của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì đòi hỏi các tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng nhiều. (3) Nhu cầu tiền cho dự phòng: Dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác nhân, được chia làm ba loại. + Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội mua mà không dự báo trước được. Khoản tiền này thường phát sinh khi các tác nhân chuẩn bị có những hoạt động ở xa trụ sở. Khoản dự phòng này với một tác nhân tuy không lớn, nhưng tổng hợp cả nền kinh tế, thì lại là một số lượng không nhỏ. + Dự phòng chi thường xuyên. Đây là những khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng một khoản tiền tối thiểu. Số lượng tiền dự phòng này phụ thuộc vào mức thu nhập của các tác nhân. + Dự phòng chi cho rủi ro. Rủi ro thường gặp với các tác nhân, như: hỏng phương tiện giao thông, các công cụ lao động gặp sự cố bất chợt cần sửa chữa, bệnh tật, tai nạn…Không có tác nhân nào để riêng tiền cho khoản chi này. Nhưng thực tế khoản chi này lại thường xuyên phát sinh ở một số ít trong số đông các tác nhân. (4) Nhu cầu tiền để cất trữ: Sự phân hóa thu nhập giữa các thể nhân trong nền kinh tế thị trường là một quy luật. Một số ít các thể nhân, do các nguyên nhân khác nhau đã giàu lên nhanh. Họ có một số lượng “tiền thừa”. Đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có mục tiêu đầu tư. Trường hợp này các thể nhân thường đưa số “tiền thừa” vào cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng vàng. Nhu cầu cất trữ của các thể nhân trong nền kinh tế thị trường tuy không lớn nhưng là hiện thực. Cất trữ đã làm giảm khối lượng các phương tiện lưu thông. - Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiền trong lưu thông: + Giá trị giao dịch: Số lượng, số lần và giá trị giao dịch quyết định đến mức cầu tiền, tức là lượng tiền cần giữ lại của các tác nhân. Nếu giá cả hàng hóa trong kỳ tăng lên hay giảm xuống, thì nhu cầu tiền cho giao dịch cũng thay đổi tương ứng. + Sự không đồng bộ về thời gian giữa thu và chi: Nếu thu nhập và chi tiêu của các tác nhân phát sinh đều đặn, thì nhu cầu tiền giữ lại cho giao dịch là ít nhất. Nếu có cách quãng về thời gian giữa thu và chi, thì số tiền phải giữ lại nhiều hơn để đảm bảo các khoản chi thường xuyên. Sự “lệnh pha” về thời gian thu chi càng lớn thì nhu cầu tiền dược giữ lại càng 16
- nhiều và ngược lại. + Lãi suất tiền gửi: Lãi suất tiền gửi tác động trực tiếp đến tổng cầu tiền. Giữ lại tiền chờ cơ hội mua hoặc thanh toán là mất đi một khoản thu nhập tính theo lãi suất tiền gửi hoặc đầu tư và thời gian. Lãi suất thay đổi sẽ tác động đến tư duy kinh tế của các tác nhân gửi tiền. Những tác nhân này sẽ so sánh giữa lợi ích của việc giữ tiền và lợi tức mất đi. Họ sẽ hành động theo hướng lợi ích vượt trội. Nhìn chung lợi tức giảm thì nhu cầu giữ tiền sẽ tăng và ngược lại. + Tập quán dân tộc và địa phương: Tập quán dân tộc và địa phương được phản ánh khá đậm nét trong nhu cầu tiền. Những nơi kinh tế thuận lợi, kiếm tiền không khó thì tiền được giữ lại ít. Ngược lại, những vùng có cuộc sống khó khăn, thì tiền được giữ lại nhiều hơn. Những điều kiện ấy đã hình thành tập quán thanh toán của vùng, miền và dân tộc.Tập quán này sẽ thay đổi theo đời sống kinh tế, nhưng rất chậm chạp. + Thu nhập thực tế: Do nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch phụ thuộc vào tổng giá trị các giao dịch mà các chủ thể kinh tế dự định tiến hành, mà tổng giá trị các giao dịch này lại phụ thuộc vào thu nhập thực tế nên có thể nói, thu nhập thực tế là nhân tố đầu tiên tác động đến bộ phận cầu tiền này.Thu nhập thực tế tăng sẽ làm cho cầu tiền tăng lên và ngược lại. * Cân đối cung cầu tiền: Cung và cầu tiền thường không khớp nhau.Trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng mất cân đối cung cầu tiền là hiện tượng phổ biến. Trong đó cung thường lớn hơn cầu tiền. Mất cân đôi cung cầu có thể xảy ra ở một dạng khác là: cung nhỏ hơn cầu tiền.Hiện tượng này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kình tế - xã hội.Tuy nhiên, đây là hiện tượng ít xuất hiện trong lịch sử lưu thông giấy bạc ngân hàng. Mất cân đối cung cầu tiền dù ở dạng nào cũng cần phải có những giải pháp để lập lại thế cân đối. Đặc biệt là hiện tượng cung lớn hơn cầu ở mức độ cao (lạm phát) có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Những giải pháp thường được áp dụng là: - Hạn chế số lượng tiền gia tăng trong lưu thông bằng cách: + Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc các NHTM. 17
- + Nâng lãi suất tái chiết khấu. - Nâng lãi suất tiền gửi, để thu hút tiền vào ngân hàng. - Các NHTM bán các công cụ lưu thông – tín dụng, để thu hút giấy bạc ngân hàng như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kho bạc, cổ phiếu trái khoán công ty… - Gia tăng cung cấp hàng hóa – dịch vụ. Những giải pháp trên nếu được áp dụng đúng thời điểm, phù hợp và đồng bộ, sẽ có hiệu quả thiết thực đến việc lập lại thế cân đối cung cầu tiền trên thị trường. 1.1.3.3. Lạm phát * Khái niệm Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giấy bạc lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết, làm cho chúng bị mất giá dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hóa trong lưu thông không ngừng tăng lên. Lạm phát là một hiện tượng kinh tế động, gắn liền với sự biến đổi số lượng tiền và chỉ số giá cả. Các chỉ số này thường xuyên tăng lên và được đo bằng chính chỉ số giá cả. Nếu giá cả tăng lên so với thời gian trước, sau đó giữ nguyên, có thể ở mức cao trong một thời gian dài, có thể coi đó là hiện tượng “lạm phát ỳ”. Còn nếu giá cả lại giảm xuống liên tục, đó là hiện tượng giảm phát. Nền kinh tế của một số quốc gia đã chứng kiến “lạm phát ỳ” và giảm phát. Nhưng tần xuất của hai hiện tượng này rất thấp, chủ yếu vẫn là lạm phát và đây là hiện tượng phổ biến trong điều kiện lưu thông tiền giấy. * Nguyên nhân của lạm phát Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát.Dưới góc độ tiền tệ, những nguyên nhân cơ bản đó là: (1) Lạm phát do nhu cầu tiền tăng – cầu kéo Các hiện tượng kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn đến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương ứng đã dẫn đến lạm phát. Đó là lạm phát do nhu cầu, hay còn gọi là lạm phát cầu – kéo. Lạm phát nhu cầu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, chủ yếu là: - Tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách lại do những nguyên nhân buộc chính phủ phát hành để chi, trong trường hợp dự trữ của Nhà nước có hạn, nguồn thu không tăng tương ứng như: 18
- + Chi cho y tế, giáo dục, quốc phòng… + Khắc phục các hậu quả thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh…Cần phải có một khoản tiền lớn. + Chính phủ giảm thuế do một nguyên nhân nào đó, làm nguồn thu bị giảm. + Chi mua ngoại tệ trong trường hợp cán cân vãng lai bị chênh lệch thiếu, hoặc nhập hàng hóa khẩn cấp cho nhu cầu quốc gia. + Tăng trợ cấp và phúc lợi xã hội… Những nhu cầu phát sinh nêu trên, buộc chính phủ phải chi là bất khả kháng.Dù là nguyên nhân nội sinh hay ngoại sinh, chúng đều tác động đến sự ổn định kinh tế - xã hội. Những khoản chi này dẫn đến thâm hụt ngân sách kéo dài, mà chưa có những giải pháp khắc phục, buộc chính phủ phải phát hành bù đắp do đó dẫn đến lạm phát. - Tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa. Do tổng cung của một số hàng hóa chủ yếu, hoặc đại bộ phận các hàng hóa trên thị trường không thay đổi (hoặc giảm thấp), trong khi đó nhu cầu về những hàng hóa này lại tăng lên (hoặc không đổi) làm cho giá cả sẽ tăng lên. Hiện tượng này cũng dẫn đến lạm phát. Mặc dù giá cả tăng lên, nhưng dân cư không thể ngừng tiêu dùng, họ bắt buộc phải tăng cung tiền, để đảm bảo nhu cầu hàng hóa – dịch vụ như trước, hoặc những hàng hóa mới theo sở thích. Đối với dân cư để đảm bảo cho nhu cầu tăng lên, chỉ có cách duy nhất là huy động dự trữ hiện có để đưa ra tiêu dùng. Còn đối với chính phủ thì ngoài sử dụng ngân sách dự phòng là phát hành thêm tiền. Như vậy, nhu cầu về hàng hóa, đã dẫn đến tăng cầu tiền, do đó buộc phải tăng cung tiền. Vì vậy, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. (2) Lạm phát do chi phí tăng Chi phí tăng lên dẫn đến mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát gọi là lạm phát chi phí đẩy. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát chi phí đẩy: - Tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội. - Đầu tư cơ bản kém hiệu quả. Đầu tư này bao gồm hai nguồn quan trọng nhất là từ NSNN và tín dụng. Những khoản đầu tư này rất lớn, nhưng nếu bị thất thoát, lãng phí hoặc công trình không phát huy tác dụng, cũng có thể chưa phát huy tác dụng, đã dẫn đến một bộ phận tiền tạm thời “thừa”. Đây là một nguyên 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ - Chương 2: Lãi suất
43 p | 961 | 83
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ - Chương 3: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ
46 p | 559 | 66
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ - Chương 5: Cung và cầu tiền tệ
28 p | 287 | 62
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ - Chương 1: Tổng quan về tiền tệ
28 p | 483 | 39
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ (phần 1) - ThS. Nguyễn Lê Hồng Vỹ
90 p | 133 | 25
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ - Chương 2: Lý luận cơ bản về tiền tệ
11 p | 169 | 24
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ (phần 2) - ThS. Nguyễn Lê Hồng Vỹ
91 p | 137 | 23
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 6 - ĐH Trà Vinh
108 p | 160 | 12
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Tài chính - Tiền tệ
62 p | 144 | 10
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 1 - Lê Thu Huyền
31 p | 10 | 3
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 3 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
38 p | 3 | 1
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 6 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
74 p | 5 | 1
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 7 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
24 p | 1 | 1
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 8 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
27 p | 4 | 1
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 1 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
46 p | 3 | 0
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 2 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
46 p | 2 | 0
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 4 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
31 p | 2 | 0
-
Bài giảng Tài chính tiền tệ: Chương 5 - TS. Trần Thị Mộng Tuyết
37 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn