
Bài tập môn Kinh tế du lịch: Nhu cầu du lịch, động cơ đi du lịch của con người, các lý do ngăn cản con người đi du lịch và các lý do khiến con người không quay trở lại một điểm đến du lịch lần thứ 2,3
lượt xem 12
download

Bài nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ nhu cầu và động cơ đi du lịch của con người, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân ngăn cản con người đi du lịch và các lý do khiến du khách không muốn quay trở lại điểm du lịch một lần nữa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài tập môn Kinh tế du lịch: Nhu cầu du lịch, động cơ đi du lịch của con người, các lý do ngăn cản con người đi du lịch và các lý do khiến con người không quay trở lại một điểm đến du lịch lần thứ 2,3
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP MÔN KINH TẾ DU LỊCH ĐỀ BÀI: NHU CẦU DU LỊCH, ĐỘNG CƠ ĐI DU LỊCH CỦA CON NGƯỜI, CÁC LÝ DO NGĂN CẢN CON NGƯỜI ĐI DU LỊCH VÀ CÁC LÝ DO KHIẾN CON NGƯỜI KHÔNG QUAY TRỞ LẠI MỘT ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH LẦN THỨ 2,3… Lớp tín chỉ : Kinh tế Du lịch POHEDLKS216(221)POHE_01 GVHD : TS. HOÀNG THỊ LAN HƯƠNG Nhóm :2 Thành viên nhóm : Phạm Ánh Xuân Hứa Nhã Uyên Lưu Phương Dung Dương Tú Anh Nguyễn Thị Hồng Ngọc Quách Vũ Ngân Hà Nguyễn Thị Kim Oanh Bùi Nguyễn Khánh Linh Nguyễn Thị Bích Loan Đỗ Đức Anh 1
- HÀ NỘI, NĂM 2022 - 2
- ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, du lịch đang là một trong những ngành có tốc độ phát triển vượt bậc và nhanh chóng nhất. Cụ thể, du lịch mang lại nguồn tài chính khổng lồ cho nhiều quốc gia trên thế giới, đi đôi với việc tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng, thúc đẩy hòa bình và giao lưu văn hóa, từ đó tạo ra những giá trị vô hình nhưng bền chặt. Cùng với sự cải thiện về mức sống, nhu cầu và động cơ đi du lịch của con người cũng đã tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, nhu cầu và động cơ du lịch thường dễ dao động, thay đổi và khó quản lý trong quá trình con người đưa ra quyết định. Điều đó vô hình chung sẽ tạo ra những rào cản khiến con người từ bỏ ý định đi du lịch. Vì vậy, hiểu sâu sắc nhu cầu và các yếu tố ngăn cản con người đi du lịch có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác du lịch của mỗi quốc gia, giúp nhà quản lý đưa ra những chiến lược phù hợp nhằm thu hút khách du lịch. Có thể nói, bài nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ nhu cầu và động cơ đi du lịch của con người, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân ngăn cản con 3
- người đi du lịch và các lý do khiến du khách không muốn quay trở lại điểm du lịch một lần nữa. 1. Nhu cầu Du lịch của con người 1.1. Nguyên nhân cần nghiên cứu nhu cầu du lịch của con người Chúng ta đang sống trong thời đại với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội. Khi trình độ kinh tế, xã hội và dân trí của con người ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người không chỉ dừng ở mức ăn mặc, đi lại thông thường mà còn cả những nhu cầu vui chơi, giải trí, thưởng thức những cái đẹp, thư giãn tinh thần, nâng cao hiểu biết xã hội. Du lịch chính là một hoạt động giúp cho con người có thể thỏa mãn được những “cái cần” đã nói ở trên. Thực vậy, khi nghiên cứu số lượng người đi du lịch của các quốc gia trên thế giới, Tổ chức Du lịch Thế giới đã đưa ra những số liệu về số khách du lịch đến các Châu lục năm 2019 như sau: Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, số lượng khách du lịch quốc tế toàn cầu năm 2019 đã vượt mốc 1,4 tỷ lượt khách, tăng khoảng 80 triệu lượt so với năm trước. Trong đó: Châu Âu thu hút 744 triệu lượt khách. 4
- Châu Á và Thái Bình Dương đón 362 triệu lượt khách quốc tế, chiếm 25% tổng lượng khách quốc tế toàn cầu. Châu Mỹ tiếp đón 219 triệu lượt khách quốc tế, chiếm 15% so với toàn thế giới. Năm 2019, có 65 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Trung Đông ( không bao gồm Iran và Israel). Năm 2019, Châu Phi đón 70 triệu lượt khách ghé thăm, chiếm 5% so với toàn thế giới. Về chi tiêu cho du lịch Tại Mỹ vào những năm cuối của thế kỷ 20 người dân chi khoảng 51 tỷ USD/năm cho du lịch, dự báo vào những năm đầu thế kỷ 21 họ sẽ chi lên tới 90 tỷ USD/năm cho du lịch. Hơn cả dự đoán, vào năm 2018, Mỹ đứng thứ hai thế giới về tổng chi tiêu du lịch ra nước ngoài với 144,2 tỷ USD (sau Trung Quốc). Các nước thuộc EU vào những năm cuối của thế kỷ XX hàng năm chi khoảng 130 tỷ USD, thì vào đầu thế kỷ XXI họ đã chi lên tới 240 tỷ USD. Từ thực tế có thể nói rằng: Du lịch ngày nay đã trở thành nhu cầu đại chúng. Sở dĩ như vậy là do những nguyên nhân cơ bản sau: Đi du lịch đã trở thành phổ biến với mọi người. Xu hướng dân số theo kế hoạch hóa gia đình, do vậy tạo điều kiện cho người ta có thể đi du lịch dễ dàng hơn. Cơ cấu về độ tuổi thay đổi (tỷ trọng dân ở độ tuổi thứ 3 - người về hưu ngày càng gia tăng tại các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới - họ chính là những người có nhiều thời gian rảnh rỗi và khả năng tài chính dành cho các chuyến hành trình du lịch). Khả năng thanh toán của người dân trên thế giới ngày càng được nâng cao. Phí tổn du lịch giảm dần ( nhất là chi phí dành cho đi lại). Mức độ giáo dục cao hơn, trình độ hiểu biết về mọi mặt của người dân được nâng cao, vì vậy càng muốn đi du lịch để mở mang hiểu biết của mình. Cơ cấu nghề nghiệp đa dạng. Đô thị hóa ngày càng cao dẫn đến ô nhiễm môi trường, hội chứng nhà kính, bệnh căng thẳng thần kinh (stress). Do vậy con người cần phải đi du lịch để tiếp cận với thiên nhiên, muốn giải tỏa căng thẳng. Các chương trình bảo hiểm, phúc lợi lao động do Chính phủ tài trợ ; phát triển thể loại du lịch trả góp. Thời gian nhàn rỗi nhiều ( tăng thời gian nghỉ phép năm. nghỉ cuối tuần). 5
- Ví dụ: Ở Việt Nam, từ khi áp dụng nghỉ thứ 7, chủ nhật đã tăng khả năng du lịch cuối tuần của người dân. Đi du lịch vì mục đích tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh. Phụ nữ có điều kiện đi du lịch ( chính sách và các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch cũng như quan niệm về vị trí của người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội đã thay đổi ở nhiều nước). Du lịch là tiêu chuẩn của cuộc sống. Mối quan hệ thân thiện - hòa bình giữa các quốc gia. Nhu cầu du lịch là một hợp phần quan trọng của ngành công nghiệp du lịch bởi nhờ có nhu cầu các hoạt động du lịch mới được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, nhu cầu du lịch thường dễ dao động, thay đổi và khó quản lý. Vì vậy, việc hiểu nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của đối tượng phục vụ có ý nghĩa quan trọng trong khai thác du lịch của mỗi quốc gia. 1.2. Nhu cầu du lịch của con người Nếu xét trên tổng thể các nhu cầu của con người, về thực chất nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Vì vậy, để có thể hiểu một cách tổng quát và đầy đủ về nhu cầu du lịch, trước hết chúng ta cần hiểu rõ thế nào là “nhu cầu” nói chung của con người. Theo các chuyên gia, nhu cầu là cái tất yếu, tự nhiên, nó là thuộc tính tâm lý của con người, là sự đòi hỏi tất yếu của con người để tồn tại và phát triển. Nếu được thỏa mãn sẽ mang đến cho con người những xúc cảm dương tính, trong trường hợp ngược lại sẽ mang đến những xúc cảm âm tính. Căn cứ và việc nghiên cứu những nhu cầu về du lịch của con người, các chuyên gia đã nêu lên khái niệm của nhu cầu du lịch. Theo họ, nhu cầu du lịch là sự mong muốn của con người đi đến một nơi khác với nơi ở thường xuyên của mình để có được những xúc cảm mới, trải nghiệm mới, hiểu biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội, phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dễ chịu về tinh thần. 1.2.1. Lý thuyết Maslow về nhu cầu của con người Nhà bác học nổi tiếng người Anh, Tiến sĩ Abraham Maslow năm 1943 đã đưa ra mô hình khái quát các nhu cầu của con người được xếp theo 5 cấp bậc như sau: 6
- 1.2.1.1. Nhu cầu sinh lý Nhu cầu cơ bản nhất nằm ở đáy của kim tự tháp. Đây là những nhu cầu về sinh lý và cũng gần như là nhu cầu nguyên thủy – những đòi hỏi về thể chất cho sự sống còn của con người. Nếu những yêu cầu này không được đáp ứng, cơ thể con người không thể duy trì cuộc sống. Những nhu cầu nằm trong danh sách này bao gồm: thức ăn, nước uống, ngủ, nghỉ ngơi. Các nhu cầu sinh lý được cho là quan trọng bậc nhất đối với mọi cá nhân vì vậy chúng phải được đáp ứng trước tiên. 1.2.1.2. Nhu cầu an toàn Khi nhu cầu về thể chất của một người được thỏa mãn, nhu cầu về sự an toàn của họ được ưu tiên. Những nhu cầu đảm bảo an toàn gồm: an ninh, an toàn cho bản thân, được bảo vệ trước những mối đe dọa về tinh thần hay vật chất. Con người mong muốn được bảo vệ trước những mối nguy hiểm, đe dọa về tinh thần hay vật chất. Chính điều này mà pháp luật được ra đời, đội ngũ cảnh sát, công an xuất hiện và thực hiện vai trò bảo vệ an toàn, an ninh, trật tự xã hội. 1.2.1.3. Nhu cầu mối quan hệ xã hội Theo tháp nhu cầu Maslow, sau khi các nhu cầu về sinh lý và an toàn được hoàn thành, con người sẽ tập trung vào việc tìm kiếm niềm vui cho cuộc sống. Nhóm nhu cầu xã hội bao gồm: nhu cầu yêu và được yêu, được chấp nhận và thuộc về một cộng đồng nào đó. Nhu cầu này thể hiện 7
- qua quá trình giao tiếp như việc kết giao bạn bè, tìm người yêu, tham gia hoạt động xã hội, câu lạc bộ,… Ở cấp độ này, những nhu cầu thuộc về tình cảm chình là yếu tố tác động và chi phối hành vi của con người. Maslow cho rằng việc yêu thương người khác và được người khác yêu thương là điều tối quan trọng đối với con người. Nếu không có tình yêu có thể dẫn đến những thứ như cô đơn, lo lắng và trầm cảm. 1.2.1.4. Nhu cầu được kính trọng Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng và được xếp vào loại nhu cầu bậc cao con người. Giống như mong muốn nhận được sự yêu thương, chúng ta cũng cần có nhu cầu nhận được sự tôn trọng và công nhận năng lực. Nhu cầu này được Maslow phân thành 2 loại: Loại 1: Nhu cầu thấp hơn tương ứng với nhu cầu được người khác tôn trọng (ví dụ: uy tín, sự chú ý, địa vị và danh tiếng). Loại 2: Nhu cầu cao hơn tương ứng nhu cầu tôn trọng chính bản thân (ví dụ: đạo đức, nhân phẩm, tự do, độc lập, sức mạnh). Một người thiếu lòng tự trọng rất dễ dẫn đến mặc cảm, thường thấy lo lắng trước những điều khó khăn của cuộc sống. 1.2.1.5. Nhu cầu hoàn thiện bản thân Đây chính là mức độ nhu cầu cao nhất mà Maslow đề cập đến: khẳng định bản thân. Khi tất cả những bậc nhu cầu ở dưới đã được đáp ứng, con người tiến tới một tầm cao mới, đó là hoàn thành tất cả những gì có thể với khả năng tốt nhất của một người. Maslow cho rằng nhu cầu này không xuất phát từ việc thiếu một cái gì đó như 4 nhu cầu trên mà nó xuất phát từ mong muốn phát triển của con người. Con người ta có xu hướng muốn thỏa mãn những nhu cầu ở thứ bậc cao hơn khi đã thỏa mãn được những nhu cầu ở thứ bậc thấp hơn. Điều đó có nghĩa là, càng những nhu cầu ở thứ bậc cao hơn, ngày càng có tầm quan trọng hơn đối với đời sống của mỗi con người. Song, điều đó không có nghĩa những nhu cầu bậc thấp không quan trọng. 1.2.2. Phân loại nhu cầu du lịch Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt , thứ cấp và tổng hợp của con người: đặc biệt là do nó khác những nhu cầu hàng ngày của con người, khi đi du lịch con người thường chi tiêu nhiều hơn, đòi hỏi được phục vụ với chất lượng cao hơn cho việc thỏa mãn những nhu cầu của mình; thứ cấp vì con người ta chỉ có thể nghĩ tới du lịch khi đã thỏa mãn 8
- những nhu cầu thiết yếu, cần thiết hàng ngày; tổng hợp vì trong một chuyến hành trình du lịch thường con người đòi hỏi phải thỏa mãn nhiều nhu cầu khác nhau, và để thỏa mãn chúng cần dịch vụ của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ việc nghiên cứu những nhu cầu nói chung và những mục đích, động cơ đi du lịch nói riêng của con người, các chuyên gia đã phân loại nhu cầu du lịch theo 3 nhóm cơ bản: Nhóm I: Nhu cầu thiết yếu: gồm đi lại, lưu trú, ăn uống Nhóm II: Nhu cầu đặc trưng: gồm nghỉ ngơi, giải trí, tham quan, tìm hiểu,... Nhóm III: Nhu cầu bổ sung: gồm thẩm mỹ, làm đẹp, thông tin, giặt là,... 1.2.2.1. Nhu cầu thiết yếu Nhu cầu vận chuyển: Nhu cầu của khách du lịch phát sinh do tính cố định của tài nguyên du lịch; sự dịch chuyển của khách du lịch từ nơi ở thường xuyên đến một nơi khác để tiêu dùng sản phẩm du lịch và quay trở về nơi ở thường xuyên của họ. Ở tại điểm du lịch cũng có phát sinh nhu cầu đi lại vì lịch trình thường đến nhiều nơi xung quanh tài nguyên du lịch chính. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mong muốn thỏa mãn nhu cầu đi lại của khách du lịch như: khoảng cách chuyến đi, mục đích chuyến đi, khả năng thanh toán, thói quen tiêu dùng,... Nhu cầu lưu trú và ăn uống: Đây là nhu cầu tất yếu phải có trong thời gian thực hiện chuyến đi. Mức độ thể hiện nhu cầu lưu trú và ăn uống của khách tùy vào các yếu tố như: khẩu vị ăn uống, giá cả, mục đích chuyến đi,... 1.2.2.2. Nhu cầu đặc trưng Nhu cầu cảm thụ cái đẹp và giải trí: Đây là mong muốn của con người được cảm nhận về chương trình du lịch, tài nguyên du lịch và về các dịch vụ tham quan giải trí mà họ đang tham gia. Nhu cầu này của khách du lịch phụ thuộc vào các yếu tố sau: sở thích cá nhân của khách, mục đích chuyến đi, khả năng thanh toán, thị hiếu thẩm mỹ,... Nhu cầu giao tiếp: Có thể nói, nhu cầu giao tiếp của con người vẫn luôn cần được thỏa mãn. Khách du lịch luôn muốn mở rộng giao tiếp, trao đổi thông tin để mở rộng mối quan hệ của mình và tự hoàn thiện mình. Nhu cầu này càng được tăng lên khi họ đi du lịch, thông qua ngôn ngữ, hình ảnh họ mới tiếp nhận ở điểm đến. Nhu cầu tìm hiểu: Khi tham gia vào một chương trình du lịch, du khách thường có nhu cầu tìm hiểu, khám phá những điều mới lạ ở điểm đến để tích lũy thêm kiến thức và trải nghiệm cho bản thân. 9
- 1.2.2.3. Nhu cầu bổ sung Ngoài nhu cầu thiết yếu và đặc trưng, còn có rất nhiều nhu cầu mà du khách muốn được đáp ứng trong chuyến đi của mình như: Nhu cầu thẩm mỹ, làm đẹp cho bản thân Nhu cầu về thông tin liên lạc Nhu cầu về y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe Nhu cầu rèn luyện thể thao Trên thực tế, khó có thể xếp hạng, phân thứ bậc các loại nhu cầu phát sinh trong khách du lịch. Sự thật hiển nhiên là các nhu cầu vận chuyển, ở trọ, ăn uống là các nhu cầu thiết yếu và quan trọng không thể thiếu được đối với mọi khách du lịch. Nhưng, thường trong một chuyến di, ta thường kết hợp nhằm đạt được nhiều mục đích khác nhau và do vậy, các nhu cầu cần được đồng thời thỏa mãn để tạo ấn tượng, thích thú cho du khách. Thỏa mãn nhu cầu ở nhóm I làm tiền đề cho việc thỏa mãn các nhu cầu ở nhóm tiếp theo. Nhu cầu ở nhóm II chính là nguyên nhân quan trọng nhất, có tính chất quyết định thúc đẩy con người đi du lịch (thỏa mãn được nhu cầu này chính là đạt mục đích của chuyến du lịch). Thỏa mãn nhu cầu ở nhóm III là làm dễ dàng hơn và thuận tiện hơn trong sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày của con người khi đi du lịch. 2. Động cơ đi du lịch của con người 2.1. Khái niệm: Động cơ là gì? Động cơ du lịch ? 2.1.1. Khái niệm động cơ Có thể nhận thấy “động cơ” và sự hài lòng là hai khái niệm được nghiên cứu phổ biến trong lĩnh vực du lịch, mối liên hệ giữa hai khái niệm này bắt nguồn từ tác động của hành vi cá nhân trong du lịch. Một nghiên cứu của Devesa đã chỉ ra động cơ là một yếu tố quyết định trong các tiêu chí đánh giá chuyến thăm và là hệ quả trực tiếp của sự hài lòng của du khách khi tham quan một điểm đến. Theo Uysal thì “ Động cơ là những lý do cơ bản cho một hành vi đi du lịch nói riêng và đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu quá trình ra quyết định của khách du lịch, cũng như đánh giá sự hài lòng theo sau sự kỳ vọng của du lịch”. Còn tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu có những quan điểm như sau: Theo Từ điển Tiếng Việt Việt Nam, “động cơ” có 2 nghĩa. Một là, một thiết bị dùng để biến đổi một dạng năng lượng nào đó thành cơ năng. Hai là, những gì thôi thúc con người có những ứng xử nhất định một cách vô thức hay hữu ý và thường gắn liền với những nhu cầu. 10
- Trong cuốn Giáo trình Tâm lý học kinh doanh du lịch của Trần Thị Thu Hà cho rằng: “Động cơ là sự kích thích đã được ý thức, nó chi phối hoạt động để thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cá nhân. Nói cách khác, động cơ là cái thúc đẩy hành động gắn liền với việc thỏa mãn nhu cầu.” 2.1.2. Khái niệm động cơ du lịch Trong cuốn Giáo trình Tổng quan du lịch của TS. Trần Thị Mai và cộng sự có định nghĩa: “Động cơ du lịch phản ánh những nhu cầu, mong muốn của du khách và lý do của hành động đi du lịch. Động cơ chính là nhu cầu mạnh nhất của con người trong một thời điểm nhất định và nhu cầu này quyết định hành động của con người.” Một phần quan trọng của động cơ du lịch là sự hòa hợp của hành vi giữa du khách và người dân địa phương tại điểm đến và phù hợp với nơi các cuộc gặp gỡ giữa hai bên được mô tả như: Du khách - những người đang di chuyển để thưởng thức bản thân tương tác với người dân bản xứ, những người thường cố định và những người có chức năng phục vụ cho những du khách từ xa đến “động cơ” du lịch là lý do tại sao một khách du lịch đưa ra quyết định lựa chọn một điểm đến nào đó mà bỏ qua những điểm đến khác và sự điều chỉnh, chi phối hành vi du lịch. Qua nhiều bài nghiên cứu đã được đề cập có thể rút ra rằng: “Động cơ du lịch là một sự kích thích có ý thức được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hình thức thể hiện nguyện vọng, quan tâm, hứng thú về các hoạt động du lịch. Những hoạt động đó có thể thỏa mãn nhu cầu du lịch của họ”. 2.2. Mối liên kết giữa nhu cầu và động cơ Theo như quan điểm về động cơ được tổng kết ở trên có thể thấy việc hình thành động cơ du lịch bắt nguồn từ nhu cầu du lịch. Tuy nhiên, hiện nay thì quan điểm này vẫn chưa có được sự thống nhất. Một số nhà nghiên cứu thì cho rằng giữa nhu cầu và động cơ không có mối liên hệ với nhau, một số khác thì cho rằng động cơ mới là yếu tố quyết định nhu cầu, … Tuy nhiên theo quan điểm để áp dụng trong bài tập PBL thì động cơ và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau, biện chứng thúc đẩy nhau phát triển. Nếu có động cơ thực hiện một hoạt động nào đó mà không có nhu cầu làm thì động cơ sẽ chết tại chỗ, không đưa vào thực tiễn và ngược lại. Do đó động cơ và nhu cầu có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng đến hoạt động du lịch của con người theo như mối liên kết thể hiện dưới sơ đồ 11
- 2.3. Các loại động cơ du lịch Du khách đi du lịch với những động cơ khác nhau thì sẽ có những hành vi, nhu cầu tiêu dùng khác nhau, hơn nữa họ sẽ đòi hỏi những dịch vụ, cách giao tiếp và phục vụ khác nhau. Kết quả của việc phân tích động cơ du lịch sẽ hỗ trợ các nhà kinh doanh đưa ra những biện pháp nhằm khai thác và phục vụ tốt hơn. Trong phạm vi bài tập, chúng tôi lựa chọn quan điểm chia động cơ du lịch thành hai nhóm động cơ đó là động cơ kéo và động cơ đẩy để nghiên cứu. Theo đó, động cơ đẩy là động cơ từ nội tại cá nhân du khách và họ tham gia du lịch bởi các yếu tố nội bộ. Trong khi đó động cơ kéo là động cơ xuất phát từ lực kéo bên ngoài. Mỗi nhóm động cơ được ảnh hưởng bởi các nhân tố khác nhau. Nội dung tiếp theo sẽ trình bày những nhân tố ảnh hưởng theo từng nhóm động cơ đã được không ít nhà nghiên cứu trình bày trong những bài nghiên cứu và tạp chí. Từ những tài liệu tham khảo và những bài nghiên cứu về những nhân tố kéo và đẩy trong du lịch, có thể rút ra những nhân tố sau đây phù hợp với đề tài. 2.3.1. Động cơ đẩy (mục đích chuyến đi) Căn cứ vào việc thống kê và nghiên cứu những mục đích chính của các chuyến hành trình du lịch, các chuyên gia về du lịch đã phân loại thành các nhóm động cơ đi du lịch gắn với mục đích cụ thể như: 2.3.1.1. Nhóm I: Động cơ nghỉ ngơi (Pleasure) Đi du lịch với mục đích nghỉ ngơi, giải trí , phục hồi tâm sinh lý, tiếp cận gần gũi với thiên nhiên, thay đổi môi trường sống. Thông thường chúng ta thường quan niệm rằng: du lịch là đồng nghĩa với tham quan, thưởng thức những danh thắng, những địa điểm nổi 12
- tiếng, những vùng đất xa xôi hay tiếp xúc và tìm hiểu những người dân bản địa cùng phong tục tập quán của họ. Với sự phát triển ngày nay, du lịch không chỉ đơn thuần như vậy mà còn kết hợp với nhiều hình thức khác, trong đó có nghỉ ngơi, thư giãn hay giải trí. Việc đi du lịch nghỉ dưỡng được xem như loại hình giúp con người phục hồi sức khỏe và lấy lại được tinh thần sau những ngày làm việc mệt mỏi, những căng thẳng thường xảy ra trong công việc, cuộc sống. Việc mở ra các trung tâm chăm sóc sắc đẹp, phục hồi sức khỏe, tắm suối nước nóng, tắm khoáng, tắm bùn... đã và đang thu hút được sự quan tâm của du khách cho mục đích nghỉ dưỡng. Các trung tâm này có thể nằm trong khách sạn, resort hoặc nằm độc lập trong khu vực có các điểm du lịch. Đi du lịch với mục đích thể thao Đi du lịch thể thao còn được chia nhỏ thành 2 loại: du lịch thể thao chủ động và du lịch thể thao bị động. Khi du lịch thể thao chủ động, du khách trực tiếp tham gia các hoạt động thể thao, bao gồm cả các hoạt động thể thao mạo hiểm như: trượt tuyết, lướt ván, săn bắn, leo núi,... Du lịch thể thao bị động là những chuyến đi xem các cuộc thi đấu thể thao, có thể trở thành những cổ động viên cho những trận đấu đó. Đi du lịch với mục đích văn hóa, giáo dục Thông qua hoạt động du lịch như khám phá và tìm hiểu tập quán phong tục, nghệ thuật văn hoá, di tích lịch sử, tôn giáo tín ngưỡng con người được thỏa mãn ham muốn tìm hiểu kiến thức, hiểu biết nhiều hơn về các nền văn hóa khác, được tận mắt thấy được người dân của một quốc gia khác về cách sống, phong tục tập quán, các loại hình nghệ thuật, món ăn. 2.3.1.2. Nhóm II: Động cơ nghề nghiệp (Professional) Đi du lịch với mục đích tìm hiểu cơ hội kinh doanh tích hợp giải trí Đi du lịch với thăm viếng ngoại giao Đi du lịch với mục đích công tác Du lịch hiện nay không chỉ để đáp ứng nhu cầu tham quan, khám phá, nghỉ dưỡng mà còn để đi công việc, công tác, tìm kiếm đối tác, phát triển thị trường. Đó là loại hình du lịch MICE, du lịch kết hợp công việc, hội nghị, hội thảo (M - Meetings - Hội họp, I - Incentives - Khen thưởng, C - Conventions/Conferences - Hội thảo/Hội nghị, E - Events/Exhibitions - Sự kiện). Loại hình này được nhiều nước đẩy mạnh phát triển vì trị giá của loại hình này lớn hơn rất nhiều so với du lịch cá nhân. Du lịch MICE 13
- được xem là sản phẩm du lịch đơn lẻ kết hợp với việc tổ chức và hạ tầng cơ sở nhất định. Phần lớn khách hàng tham gia du lịch MICE là doanh nhân, thậm chí doanh nhân cao cấp, những nhà khoa học, các công chức nhà nước, các tổ chức xã hội, đa số khách MICE cũng là những nhân vật có thành tích, có vị trí trong các tổ chức nhà nước được cử đi hay mời đến tham dự nên có yêu cầu cao, khó tính và kỹ lưỡng. 2.3.1.3. Nhóm III: Các động cơ khác (Other Tourist Motivies) Đi du lịch với mục đích thăm viếng người thân. Du lịch kết hợp với thăm bạn bè, người thân sống ở những thành phố gần điểm du lịch là một trong những hình thức phổ biến của du khách khi đi du lịch nhất. Qua loại hình kết hợp này, du khách vừa có thể đi du lịch, vừa có thể thăm người thân. Bên cạnh đó, nhiều gia đình có người thân, bạn bè, con cái ở đất nước khác, muốn thỏa mãn cùng lúc hai nhu cầu: vừa thăm người thân, vừa du lịch nhưng khi lần đầu họ đến vùng đất xa xôi, họ thường kỳ vọng sẽ được người nhà dẫn đi tham quan, tìm hiểu khắp nơi. Nhưng phần lớn, mọi gia đình ở đây đều tất bật với chuyện mưu sinh hằng ngày, họ nghỉ ngơi vào các dịp nhất định, còn những người già lại ngại đi chơi xa vì lái xe nguy hiểm. Vì vậy, khi du khách đến vào thời điểm không phải kỳ nghỉ thường sẽ ở nhà hoặc chỉ đi loanh quanh. Nên nếu lựa chọn loại hình này, và khi người thân bạn thì khách du lịch nên chọn tour để dễ dàng, thuận tiện cho mọi hoạt động ở những nơi xa lạ này. Ngoài việc sắp xếp, tư vấn lộ trình sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất, thì các công ty sẽ hỗ trợ du khách về khâu xin visa thuận lợi. Khi đi theo tour, khi kết thúc lịch trình tham quan, du khách có thể tách ra và ở lại nhà người thân cho đến hết hạn visa. Đi du lịch với mục đích chữa bệnh. Việc kết hợp chăm sóc sức khỏe bằng phương pháp du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh đã được thực hiện qua các thời kỳ từ Hy Lạp, La Mã cổ đại, các triều đại phong kiến Trung Hoa, cho đến Việt Nam, đối tượng ở đây là vua chúa, quan lại, tầng lớp quý tộc. Do đó việc cho ra đời loại hình hình du lịch chữa bệnh cũng là học từ người xưa. Và cho đến nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa cùng với việc tăng tuổi thọ, mức thu nhập, bên cạnh nhu cầu du lịch vui chơi giải trí, mong muốn đi du lịch để chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh trở thành nhu cầu thiết yếu của đại đa số người. Vì loại hình du lịch này đáp ứng cả hai mục đích cùng một lúc: chữa bệnh và du lịch nên được rất nhiều người ưa chuộng, nhất là du khách phương Tây. Và một số động cơ cá nhân khác như: Đi du lịch với mục đích nghỉ tuần trăng mật. 14
- Đi du lịch là do bắt chước, coi du lịch là “mốt”. Đi du lịch là do sự “chơi trội” để tập trung sự chú ý của những người xung quanh. 15
- 2.3.2. Động cơ kéo (sức hấp dẫn của điểm đến) 2.3.2.1. Mức độ hấp dẫn của điểm đến Mức độ hấp dẫn của điểm đến được hiểu là tại điểm đến đó có những tài nguyên du lịch thế nào. Tài nguyên theo nghĩa rộng được hiểu bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin trên trái đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình. Tài nguyên được phân loại thành tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố tự nhiên và tài nguyên văn hóa gắn liền với các nhân tố con người và xã hội. Tài nguyên du lịch có một số vai trò cơ bản như sau: Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành sản phẩm du lịch, chất lượng của sản phẩm và hiệu quả của hoạt động du lịch. Tài nguyên du lịch là cơ sở để phát triển các loại hình du lịch. Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng của tổ chức lãnh thổ du lịch. Tài nguyên du lịch còn ảnh hưởng đến quy mô, thứ bậc của khách sạn và quyết định tính mùa vụ đi du lịch của khách du lịch. Tài nguyên du lịch được phân loại thành: Tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm: Địa hình, khí hậu, thủy văn, hệ động thực vật, một số hệ sinh thái đặc biệt... Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cố, kiến trúc; giá trị vẫn hỏa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có một số đặc điểm: Phong phú, da dạng, có nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đảo, hấp dẫn đối với du khách. Tạo nên tính phong phú của các sản phẩm du lịch. Có tính độc quyền. Tạo nên tính đặc thù riêng của một vùng đất nào đó, tính đặc thù càng cao thì sức hấp dẫn càng lớn. Có tính mùa vụ, đặc điểm này bị chi phối bởi nhiều điều kiện địa hinh, vị trí địa lý. Thời gian khai thác khác nhau, ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch. Không thể di chuyển về vị trí địa lý. Khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch, tạo nên sức hút cơ sở hạ tầng và dòng khách đến nơi có tài nguyên. 16
- Dễ bị tổn thất do các yếu tố khách quan và chủ quan (tác động của mưa,bão, lũ, lụt, độ ẩm không khí hoặc sự tàn phá của con người...). Có tính biển hóa, thay đổi trong quá trình phát triển chung của xã hội. Đặc điểm này thể hiện rõ đối với tài nguyên văn hóa vô hình. Có thể là kết quả của lao động sáng tạo, được hình thành và phát triển theo trình độ khoa học công nghệ, phát triển kinh tế của một quốc gia, một vùng nào đó. Có thể khai thác được nhiều lần, hiệu quả thu hút được từ khai thác tài nguyên du lịch là rất lớn. Trong một chuyển đi, khách du lịch thường quan tâm tới nhiều yếu tố như: dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, mua sắm, tham quan..Trong các yếu tố đó, vấn đề được khách du lịch đặc biệt quan tâm là tại điểm đến du lịch đó có cái gì để cho họ tham quan, thưởng thức và hoạt động theo đúng ý thích của họ. Cần Hiểu rằng, sức hấp dẫn của điểm đến du lịch rất quan trọng đối với quyết định đi du lịch của khách du lịch. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên trên cùng địa bàn có ý nghĩa đặc biệt với sự phát triển du lịch. Vì vậy sức hấp dẫn du lịch của một địa phương phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài nguyên du lịch của địa phương đó. Ngoài ra tính hấp dẫn của điểm du lịch còn phụ thuộc vào các nhân tố chính trị, kinh tế và xã hội tại điểm du lịch như : vấn đề an ninh, an toàn cho khách, nhận thức cộng đồng dân cư về phục vụ khách, các cơ chế, chính sách đối với khách du lịch và các doanh nghiệp du lịch...v.v. Tính hấp dẫn du lịch là lực hút giữa điểm đến du lịch và điểm cấp khách (nơi có khách du lịch tiềm năng) đây là yếu tố quan trọng nhất. Lực hút (sức thu hút) này bao gồm: sự phù hợp của tài nguyên cho các hoạt động du lịch; cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch; sức chứa; sự phát triển các loại dịch vụ phục vụ khách tại điểm đến du lịch; sự đa dạng, độc đáo của tài nguyên để tổ chức các loại hình du lịch...v.v. Tất cả những giá trị đó sẽ tạo nên sức thu hút đối với khách du lịch và các nhà kinh doanh du lịch tại các điểm đến du lịch. Để đánh giá tính hấp dẫn của các điểm đến du lịch, người ta thường sử dụng hai phương pháp cơ bản, đó là đánh giá theo các chỉ tiêu định lượng và theo các chỉ tiêu định tính. Theo định lượng. Có thể đánh giá sự hấp dẫn của điểm đến du lịch đó dựa vào các chỉ tiêu cơ bán như: Số lượng khách đến tham quan du lịch tại điểm đến (trong đó bao gồm khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa và khách tham quan). Số ngày khách du lịch lưu lại tại điểm đến. Mức chi tiêu của khách du lịch tại điểm đến. Mức chi tiêu của một ngày/khách tại điểm đến. Số lượng các loại dịch vụ có tại điểm đến. 17
- Số lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch tại điểm đến, bao gồm: 18
- Số lượng các cơ sở lưu trú. Số lượng các nhà hàng và quán Bar. Số lượng các cơ sở giải trí (rạp biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, các công viên chuyên đề...). Số lượng các điểm tham quan. Số lượng các cơ sở thể thao. Số lượng các cơ sở bán hàng. Doanh thu từ hoạt động du lịch (bao gồm doanh thu trực tiếp và doanh thu gián tiếp từ hoạt động du lịch). Khách du lịch đến ngày càng đông, doanh thu ngày càng lớn, mức chi tiêu của du khách cao và khách lưu lại điểm du lịch dài thi có nghĩa là điểm du lịch đó hấp dẫn. 2.3.2.2. Khả năng tiếp cận điểm đến Đối với khách du lịch, để một sản phẩm du lịch tổng thể hoàn chỉnh có thể nhận được sự tán thưởng chắc chắn chắn không thể thiếu trải nghiệm tích cực từ khi họ bắt đầu rời khỏi nhà. Vì vậy, khả năng tiếp cận điểm đến cũng là một yếu tố tác động đến động cơ đi du lịch của người tiêu dùng. Khả năng tiếp cận điểm đến du lịch được định nghĩa cụ thể là mức độ dễ dàng tiếp cận một điểm đến du lịch. Khả năng tiếp cận bao gồm các yếu tố: cơ sở hạ tầng, phương tiện vận chuyển, hoạt động vận hành, quy định của chính phủ. Yếu tố đầu tiên được bàn đến là yếu tố cơ sở hạ tầng và phương tiện vận chuyển. Khi đưa ra quyết định thực hiện hành vi vi tiêu dùng dịch vụ du lịch, người tiêu dùng trước tiên sẽ thực hiện khảo sát cơ sở hạ tầng của điểm đến. Điểm đến phải có các cơ sở vật chất tiện nghi như khu thương mại, sân bay, cảng biển, ga tàu, bến đỗ, … thuận tiện cho các mục đích tham quan, thư giãn. Hành khách thường có xu hướng chọn những địa điểm du lịch mà họ có thể dễ dàng tìm được các phương tiện giao thông công cộng để di chuyển với năng suất và tần suất hoạt động ổn định . Giữa 2 điểm đến, một điểm đến chỉ có một tuyến đường duy nhất để tiếp cận và một địa điểm có đủ đường hàng không, đường bộ để lựa chọn, thì chắc chắn điểm đến thứ hai sẽ được yêu thích hơn. Ngoài ra khách du lịch cũng sẽ quan tâm đến những hoạt động diễn ra xoay quanh điểm đến du lịch như các chi phí cho đi lại, dịch vụ, hay lịch hoạt động của những tour du lịch, tần suất hoạt động của các dịch vụ du lịch. Và mỗi một hành khách khi chuẩn bị cho chuyến du lịch của mình đều sẽ tìm hiểu trước về quy định của chính phủ về các quy định vận hành hoạt động giao thông vận tải để tránh vi phạm những quy định đó, làm giảm trải nghiệm của chuyến du lịch. 19
- 2.3.2.3. Chất lượng dịch vụ điểm đến Chất lượng dịch vụ du lịch luôn là vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển của ngành du lịch nói chung và hoạt động kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch nói riêng. Dựa trên các kết quả khảo sát và phân tích các nhóm nhân tố liên quan chất lượng dịch vụ du lịch cho thấy khách tham quan thể hiện sự quan tâm đến chất lượng lượng dịch vụ du lịch thông qua năm nhóm nhân tố, bao gồm: nhân viên phục vụ, cảnh quan môi trường, cơ sở vật chất du lịch, chương trình hoạt động giải trí, và phương tiện vận chuyển. Trước mỗi chuyến hành trình, du khách thường có xu hướng tìm hiểu trước những đánh giá của người đã từng sử dụng dịch vụ tại điểm đến. Tiêu chí đầu tiên để nhận định về một địa điểm du lịch lý tưởng là cơ sở vật chất du lịch và đội ngũ nhân viên tại điểm đến. Một địa điểm có đầy đủ yếu tố giải trí, môi trường và cơ sở vật chất nhưng lại không đáp ứng nhu cầu về thái độ của nhân viên phục vụ cũng sẽ là một điểm tác động đến động cơ thực hiện hoạt động du lịch đó. 3. Các lý do ngăn cản con người đi du lịch 3.1. Lý do chủ quan 3.1.1. Thời gian rảnh rỗi ít Muốn thực hiện một cuộc hành trình du lịch đòi hỏi con người phải có thời gian. Do vậy, thời gian rỗi của nhân dân là điều kiện tất yếu cần thiết phải có để con người tham gia vào hoạt động du lịch. 3.1.2. Mức sống về vật chất và trình độ văn hóa người dân chưa cao 3.1.2.1.Mức sống về vật chất thấp Thu nhập của nhân dân là chỉ tiêu quan trọng và là điều kiện vật chất để họ có thể tham gia du lịch. Khi đi du lịch và lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên, khách du lịch luôn là người tiêu dùng của nhiều loại dịch vụ, hàng hóa. Con người để có thể đi du lịch và tiêu dùng phải có phương tiện vật chất đầy đủ. Đó là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu đi du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Vì đi du lịch họ phải trả ngoài các khoản tiền cho các nhu cầu giống như các nhu cầu thường ngày, còn phải trả thêm cho các khoản khác như tiền tàu xe, tiền thuê nhà ở, tiền tham quan,...và xu hướng của con người khi đi du lịch là chi tiêu rộng rãi hơn. 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Bình luận về các điều kiện chi ngân sách nhà nước (qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng)
16 p |
1025 |
337
-
Báo cáo thực tập tốt nghiệp: "Giới thiệu về công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại - dịch vụ M.T.L"
44 p |
2688 |
277
-
BÀI TẬP LỚN Môn: Quản lý dự án - Đề tài: Quản lý dự án xây dựng Website học trực tuyến cho trung tâm tin học Sao Mai
57 p |
894 |
145
-
Thuyết trình môn phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh - ĐH Kinh Tế
45 p |
534 |
112
-
Bài Tiểu Luận " công tác quản trị và lãnh đạo tại tập đoàn kinh tế Vinashin "
24 p |
358 |
97
-
Báo cáo: Xử lý số liệu
25 p |
344 |
73
-
Tiểu luận: Dự toán kinh tế
22 p |
179 |
34
-
BÁO CÁO: BÀI TẬP THU HOẠCH SỐ 1 MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH
22 p |
150 |
32
-
Đề tài: “Bài tập lớn môn Luật Hôn nhân gia đình”
16 p |
208 |
29
-
Đề tài: Chi tiêu cho việc đi lại bằng xe máy trong một tháng
25 p |
118 |
21
-
Bài tập nhóm Quản lý học: Nghiên cứu về các công cụ tạo động lực
11 p |
238 |
20
-
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Triết lý kinh doanh của tập đoàn Vingroup
13 p |
140 |
18
-
Bài tập môn Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - Thẩm định dự án đầu tư
8 p |
112 |
14
-
Bài tập báo cáo môn webdatabase
23 p |
83 |
13
-
Bài tập lớn môn Kinh tế nông nghiệp: Sản xuất enzim bromelin từ phế phẩm dứa tại thành phố Tam Điệp
14 p |
133 |
11
-
Để tài: ABC là một trang báo điện tử mới thành lập nên chưa được nhiều người biết đến, lượng độc giả còn hạn chế. Vấn đề đặt ra là phải tăng lượng độc giả thường xuyên để duy trì và phát triển tờ báo.
10 p |
59 |
8
-
Bài tập thực hành môn Kinh tế lượng: Nhận diện gian lận kế toán tại các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) bằng mô hình m-score beneish
19 p |
31 |
5


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
