intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Những ứng dụng của ngành Dược trong việc điều chế thuốc cao huyết áp

Chia sẻ: Thanh Ha | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

276
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Những ứng dụng của ngành Dược trong việc điều chế thuốc cao huyết áp" giới thiệu đến các bạn tên, công dụng của các loại thuốc như: Nhóm thuốc lợi tiểu, nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương, nhóm thuốc chẹn alpha, nhóm thuốc chẹn bet, nhóm thuốc đối kháng Calci,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Những ứng dụng của ngành Dược trong việc điều chế thuốc cao huyết áp

  1. LỜI GIỚI THIỆU          Tiểu luận Bệnh Huyết Áp được biên soạn dựa trên những thông tin có cơ sở  ,những bài luận án của các trường Đại Học đã được các giảng viên phê duyệt ; cùng  các bạn dược sinh giàu tâm huyết cùng biên soạn với phương châm: Kiến thức cơ bản  ,hệ thống ;thông tin chính xác , khoa học cung cấp những kiến thức cần thiết và bổ ích  để hiểu rõ hơn về căn bệnh này.         Xin chân thành cảm ơn các dược sinh Đoàn Thị Quỳnh Như , Nguyễn Thanh Trí,  Huỳnh Thị Thanh Hà, Văn Thị Thanh Thủy, Hà Văn Phương, Nguyễn Thị Mỹ Linh  ,Nguyễn Tấn Thiện đã dành nhiều công sức hoàn thành cuốn tiểu luận này.         Lần đầu xuất bản, chúng tôi mong  nhận được ý kiến đống góp của thầy Nghĩa  và các bạn dược sinh để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn . MỤC LỤC Phần mở đầu......................................................................................2 Đặt vấn đề...........................................................................................4 Các loại thuốc.....................................................................................6
  2. • Nhóm thuốc lợi tiểu....................................................................9 • Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương...................14 • Nhóm thuốc chẹn alpha.............................................................17 • Nhóm thuốc chẹn bet.................................................................21 • Nhóm thuốc đối kháng Calci.....................................................23 • Nhóm thuốc ức chế men chuyển................................................29 • Nhóm thuốc mới ức chế thụ thể.................................................34 • Đông Y.......................................................................................37 Lời khuyên khi sử dụng thuốc.........................................................40 LỜI NÓI ĐẦU Tăng huyết áp ngày nay vẫn đang là vấn đề thời sự. Theo ước tính của các nhà  khoa học Mỹ tỷ lệ tăng huyết áp trên thế  giới năm 2000 là 26,4% (tương đương 972   triệu người, riêng các nước đang phát triển chiếm 639 triệu) và sẽ tăng lên 29,2% vào  năm 2025 với tổng số người mắc bệnh tăng huyết áp trên toàn thế giới khoảng 1,56 tỷ  người mà 3/4 trong số đó là người thuộc nước đang phát triển [62]. Các số  liệu điều  tra thống kê tăng huyết áp Việt Nam cho thấy tỷ  lệ  tăng huyết áp năm 1960 chiếm   1,6% dân số, 1982 là 1,9%, năm 1992 tăng lên 11,79% dân số, 2002  ở  Miền Bắc là  16,3%, riêng thành phố Hà Nội có tỷ lệ 23,2%, còn năm 2004 Thành phố Hồ Chí Minh  
  3. là 20,5% [1] và năm 2007 tại Thừa thiên ­Huế là 22,77% [11].  Bên cạnh đó, tăng huyết áp còn là yếu tố  nguy cơ bệnh động mạch vành. Khi   quần thể dân số biến đổi già hơn, cùng theo đó số  người tăng huyết áp có bệnh động  mạch vành càng phổ  biến. Hơn nữa, hai bệnh này có quan hệ  đặc biệt riêng trong   bệnh sinh và điều trị. Tuy nhiên, những ứng dụng của ngành dược trong việc điều chế  và điều trị bệnh huyết áp là như thế nào? Đây là vấn đề cần thiết do yêu cầu thực tiễn   đặt ra. Cuốn tiểu luận này được biên soạn hiểu rõ hơn về ứng dụng ngành dược trong  điều trị căn bệnh huyết áp. Nội dung của tiểu luận gồm bảy phần chính: (1) Nhóm lợi  tiểu;(2) Nhóm thuốc tác động kên hệ  thần kinh trung  ương; (3) Nhóm thuốc chẹn  alpha, một số  lời khuyên khi sử  dụng thuốc;(4) Nhóm thuốc chẹn beta, một số  lời  khuyên khi sử dụng thuốc; (5) Nhóm thuốc đối kháng calci; (6)nhóm thuốc ức chế men  chuyển ;(7) nhóm thuốc mới  ức chế  thụ thể angiotensin. Cả bảy phần được đánh số  từ 1 đến 7. Phần cuối của của tiểu luận là các phụ lục. Với nội dung như  vậy , ngoài đối tượng chính là các dược sinh , cuốm tiểu   luận này cũng có ích cho nhiều đối tượng khác như sinh viên đang học môn Dược liệu,   Dược học cổ truyền và các dược sĩ đang công tác trong lĩnh vực điều chế thuốc huyết   áp . Để  cuốn tiểu luận này phể  phục vụ  sinh viên cũng như  các đối tượng nghiên   cứu khác ngày một tốt hơn, chúng tôi  mong nhận được những ý kiến đóng góp ý kiến  để có thể sửa chữa, bổ sung cuốn tiểu luận này ngày càng hoàn thiện hơn .                                                                 Đà Nẵng, tháng 03 ­2016   CÁC LOẠI THUỐC Theo phân loại bệnh tăng huyết áp mới (the JNC 7 report) ta cần lưu ý đến giai  đoạn tiền tăng huyết áp (prehypertension), thể hiện huyết áp trên 120­139 và huyết áp  dưới 80­90, giai đoạn này cần phải thay đổi lối sống (ăn nhạt, vận động thể lực). Có nhiều thuốc trị cao huyết áp đang được sử dụng ở nước ta, chia thành nhiều  nhóm với một số đặc tính như sau: 1. Nhóm thuốc lợi tiểu: Gồm có Hydroclorothiazid, Indapamid, Furosemid,  Spironolacton, Amilorid, Triamteren... Cơ chế của thuốc là làm giảm sự ứ nước trong  cơ thể, tức làm giảm sức cản của mạch ngoại vi, dẫn đến làm hạ huyết áp. Dùng đơn  độc khi bị huyết áp nhẹ, có thể phối hợp với thuốc khác khi cao huyết áp nặng thêm.  Cần lựa chọn loại phù hợp do có loại làm thải nhiều kali, loại giữ kali, tăng acid uric 
  4. trong máu, tăng cholesterol máu. 2. Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương: Gồm có Reserpin,  Methyldopa, Clonidin... Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào thần kinh gây hạ  huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng thuốc đột ngột  sẽ làm tăng vọt huyết áp. 3. Nhóm thuốc chẹn alpha: Gồm có Prazosin, Alfuzosin, Terazosin, Phentolamin...  Cơ chế của thuốc là ức chế giải phóng noradrenalin tại đầu dây thần kinh (là chất sinh  học làm tăng huyết áp), do đó làm hạ huyết áp. Có tác dụng phụ gây hạ huyết áp khi  đứng lên (hạ huyết áp tư thế đứng), đặc biệt khi dùng liều đầu tiên. 4. Nhóm thuốc chẹn beta: Gồm có Propanolol, Pindolol, Nadolol, Timolol,  Metoprolol, Atenolol, Labetolol, Acebutolol... Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể beta  ­ giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc dùng  tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt lưng, ngực hoặc nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối  với người có kèm hen suyễn, suy tim, nhịp tim chậm. 5. Nhóm thuốc đối kháng calci: Gồm có Nifedipin, Nicardipin, Amlodipin, Felodipin,  Isradipin, Verapamil, Diltiazem... Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion calci không cho đi  vào tế bào cơ trơn của các mạch máu, vì vậy gây giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp.  Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi,  không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể. 6. Nhóm thuốc ức chế men chuyển: Gồm có Captopril, Enalapril, Benazepril,  Lisinopril, Perindopril, Quinepril, Tradola­pril... Cơ chế của thuốc là ức chế một enzym  có tên là men chuyển angiotensin (angiotensin converting enzym, viết tắt ACE). Nhờ  men chuyển angiotensin xúc tác mà chất sinh học angiotensin I biến thành angiotensin  II và chính chất sau này gây co thắt mạch làm tăng huyết áp. Nếu men chuyển ACE bị  thuốc ức chế (làm cho không hoạt động) sẽ không sinh ra angiotensin II, gây ra hiện  tượng giãn mạch và làm hạ huyết áp. Thuốc hữu hiệu trong 60% trường hợp khi dùng  đơn độc (tức không kết hợp với thuốc khác). Là thuốc được chọn khi bệnh nhân bị  kèm hen suyễn (chống chỉ định với chẹn beta), đái tháo đường (lợi tiểu, chẹn beta).  Tác dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan. 7. Nhóm thuốc mới ức chế thụ thể angiotensin: Những thuốc dùng trị huyết áp  thuộc các nhóm kể trên vẫn còn nhiều nhược điểm về mặt hiệu quả cũng như các tác  dụng phụ, vì vậy việc nghiên cứu tìm những thuốc mới vẫn tiếp tục được đặt ra. Ðặc  biệt, nhóm thuốc ức chế men chuyển xuất hiện từ đầu những năm 1980 (được công  nhận là thuốc không thể thiếu trong điều trị cao huyết áp) đã thúc đẩy các nhà khoa  học tìm ra những thuốc mới tác động đến men chuyển ACE. Các nghiên cứu gần đây  nhận thấy nếu tác dụng chính vào men chuyển ACE, làm cho men này bất hoạt thì  thuốc sẽ gây nhiều tác động phụ như ho khan (là tác dụng phụ khiến nhiều người  bệnh bỏ thuốc không tiếp tục dùng). Nguyên do là vì men chuyển ACE không chỉ xúc  tác biến angiotensin I thành angiotensin II gây tăng huyết áp mà còn có vai trò trong sự  phân hủy một chất sinh học khác có tên là bradykinin. Nếu ức chế men ACE,  bradykinin không được phân hủy ở mức cần thiết, sẽ thừa và gây nhiều tác dụng,  trong đó có ho khan. Thay vì ức chế men ACE, hướng nghiên cứu mới là tìm ra các  thuốc có tác dụng ngăn không cho angiotensin II gắn vào thụ thể của nó (angiotensin II  receptors, type 1) nằm ở mạch máu, tim, thận, do đó sẽ làm hạ huyết áp. Vì thế, hiện  nay có nhóm thuốc mới trị cao huyết áp là nhóm thuốc ức chế thụ thể angiotensin II  (Angiotensin II receptors antagonists). Thuốc đầu tiên được dùng là Losartan, sau đó là  Irbesartan, Candesardan, Valsartan... Nhóm thuốc mới này có tác dụng hạ huyết áp, đưa  huyết áp về trị số bình thường, tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci,  chẹn beta, ức chế men chuyển. Ðặc biệt, tác dụng hạ áp của chúng tốt hơn nếu phối  hợp với thuốc lợi tiểu Thiazid. Lợi điểm của nhóm thuốc này là do không trực tiếp ức  chế men chuyển nên gần như không gây ho khan như nhóm ức chế men chuyển, hoặc  không gây phù như thuốc đối kháng calci. Tác dụng phụ có thể gặp là chóng mặt, hoặc  rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai  hoặc người bị dị ứng với thuốc.
  5. NHÓM THUỐC LỢI TIỂU 1.Thuốc lợi tiểu là gì?  Thuốc  lợi tiểu là nhóm các thuốc giúp loại bỏ nước dư ra khỏi cơ thể bằng cách  tăng số lượng nước tiểu. Tất cả thuốc lợi tiểu đều tác dụng lên thận, nơi giữ vai trò  quan trọng trong việc điều hòa lượng nước trong cơ thể. Thuốc lợi tiểu có tác dụng làm giảm lượng nước trong hệ thống tuần hoàn cũng  như trong không gian bào. Thuốc lợi tiểu được sử dụng khá phổ biến trong điều trị  một số bệnh tim mạch. Cụ thể loại thuốc này giúp loại bỏ chất lỏng dư thừa trong cơ  thể để tim bơm máu hiệu quả hơn và kiểm soát huyết áp. 2.Phân loại ­         Nóm Thiazide: Bendroflumethiazide, Chlorthalodone, Hydrochlorothiazide. ­         Nhóm tác dụng lên quai thận: Ethacrynic acid, Furosemide. ­         Nhóm giữ K+ : Amiloride, Spironolactone, Triamterene. Là nhóm các thuốc giúp loại bỏ  nước dư ra khỏi cơ thể  bằng cách tăng số  lượng  nước tiểu. Tát cả thuốc lợi tiểu đều tác dụng lên thận, nơi giữ vai trò quan trọng trong   việc điều hoà lượng nước cơ thể. Các loại thuốc lợi tiểu khác nhau khác biệt nhau một cách rõ ràng về  dược động  vật học và kiểu tác dụng. ­      Thuốc lợi tiểu nhóm thiazide: những thuốc này gây lợi tiểu vừa (tăng sản xuất  nước tiểu) và thích hợp cho việc dùng thời gian dài. ­      Thuốc lợi tiểu quai thận: tác dụng lên vùng thận được gọi là quai Henle. Đây là   những thuốc tác dụng nhanh – mạnh, đặc biệt khi được dùng bằng đường tiêm. Thuốc  lợi tiều quai thận đặc biệt hữu dụng đối với trường hợp cấp cứu như suy tim. ­     Thuốc lợi tiểu chứa K+ : thuốc này được dùng kèm với nhóm thiazide và nhóm   lợi tiểu quai thận, vì cả hai làm thiếu K+. ­      Thuốc   ức   chế   men   carbonic   hydrase:   thuốc   này   gây   chẹn   tác   dụng   của   carbohydrase        ( một loại men tác dụng lên số  lượng ion bicarbonate HCO3 trong   máu); thuốc này gây lợi tiểu vừa phải nhưng chỉ tác dụng trong thời gian ngắn.
  6. ­    Thuốc lợi tiểu thẩm thấu: có tác dụng lợi tiểu mạnh được dùng để  duy trì sự  sản xuất nước tiểu sau chấn thương nặng hoặc phẫu thuật lớn. 3. Cơ chế tác dụng của thuốc lợi tiểu Người bệnh có thể được chỉ định sử dụng thuốc lợi tiểu nếu ở trong trường hợp  sau: – Bị phù nề: thuốc lợi tiểu có tác dụng làm giảm sưng phù (ở chân). – Tăng huyết áp: thuốc lợi tiểu thiazid giúp hạn chế tăng huyết áp, làm giảm nguy  cơ đột quỵ và nhồi máu cơ tim. – Suy tim: thuốc lợi tiểu làm giảm sưng phù và tình trạng tích tụ chất dịch (trong  phổi) do ảnh hưởng của suy tim. – Một số bệnh về gan, thận và bệnh tăng nhãn áp.  3.1.Cơ chế tác dụng thuốc lợi tiểu Quá trình lọc bình thườ +  ng củ+a thận (được thực hiện trong các tiểu quản) loại bỏ  nước, muối (chủ yếu K  và Na ) và các chất thải khỏi máu. Hầu hết nước và muối  được hấp thụ trở lại máu, nhưng vẫn có một lượng muối và nước được bài tiết trong  nước tiêu.  Thuốc lợi tiểu can thiệp vào hoạt động bình thường này của thận. Các lo + ại thuốc  lợi tiểu thuộc nhóm thẩm tháu, quai thận và thiazide làm giảm lượng Na  và nước vào  trở lại máu, do ddos làm tăng lượng nước tiểu. Các loại thuốc lợi tiểu khác làm tăng  vận tốc máu qua thận và do đó tăng lượng nước lọc và thải vào nước tiểu.  a.Thuốc lợi tiểu thẩm thấu: Tác dụng lên phần đầu tiên của tiểu thận để giảm tải  hấp thụ nước vào máu b.Thuố­ c lợi tiểu quai thận: Tác dụng lên phần giữa của tiểu thận ngăn không cho  + Na  và Cl được tái hấp thụ c.Thuốc lợi tiểu Thiazide: Tác dụng phần cuối của tiểu thận làm giảm tái hấp thu  +  Na vào máu 3.2.Cơ chế hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu: ­ Làm tăng đào thải nước và natri dẫn đến giảm thể tích dịch lưu hành, giảm cung  lượng tim nhưng dùng lâu dài các chỉ số trở lại bình thường tuy HA vẫn giảm. Và lúc  này thì tác dụng giảm HA liên quan đến giảm ion natri trong các sợi cơ trơn thành  mạch dẫn đến giảm ion calci trong các tế bào đó và làm giãn mạch.  ­ Thuốc lợi tiểu còn duy trì tác dụng các thuốc chữa bệnh THA khác nhất là loại hoạt  động theo cơ chế liệt giao cảm dễ gây ứ đọng nước và natri nếu dùng thuốc lâu dài,  hiện tượng này sẽ làm cho các thuốc đó mất hiệu lực dần.  ­ Một số có tác dụng giãn mạch nhẹ : Indapamid do ức chế dòng Na+ vào tế bào cơ  trơn thành mạch dẫn đến giảm ion calci nội bào. Hơn nữa Indapamid còn làm giảm phì  đại thất trái 4.Ứng dụng trong điều trị bệnh cao huyết áp Việc lựa chọn liệu pháp điều trị chống cao huyết áp ban đầu thường dựa trên tuổi  và sắc tộc của bệnh nhân. Liệu pháp lợi tiểu hoặc CCB nói chung hiệu quả trong cao  huyết áp không do renin, phụ thuộc thể tích. Cao huyết áp không do renin, phụ thuộc  thể tích thường gặp nhất ở bệnh nhân già và bệnh nhân người Mỹ gốc Phi. Các chất  chẹn beta và chất ức chế ACE nói chung hiệu quả ở thể cao huyết áp phụ thuộc renin  thường gặp ở những bệnh nhân trẻ và da trắng.     Thuốc lợi tiểu thường được dùng trong cao huyết áp thứ phát sau bệnh thận vì  huyết áp tăng có thể là do tăng thể tích. Nhìn chung, các thiazid không có hiệu quả ở  những bệnh nhân có CrCl
  7. thúc đẩy suy thận ở những bệnh nhân bị hẹp động mạch thận 1 bên hoặc 2 bên và ở  những bệnh nhân bị bệnh thận từ trước.      Các thuốc lợi tiểu có thể xử trí các triệu chứng liên quan tới phù phổi hoặc suy  tim trong thời kỳ thai nghén nhưng sử dụng dài ngày các thuốc lợi tiểu có thể gây mất  nước, rối loạn điện giải, hoặc những tác dụng phụ nguy hiểm khác đối với thai nhi.  Các chất ức chế men chuyển angiotensin làm chết thai và những rối loạn khác ở bào  thai. 5.Những điều cần lưu ý      Bị bệnh tăng huyết áp: Thuốc làm tăng đào thải nước tiểu, làm giảm khối lượng  nước trong cơ thể nên gián tiếp làm hạ huyết áp. Trong một số trường hợp, thuốc lợi  tiểu có thể dùng duy nhất nhưng thường được kết hợp làm tăng thêm tác dụng của các  thuốc hạ huyết áp. Có nhiều thuốc lợi tiểu mà việc chọn lựa sẽ tuỳ theo vào sự chỉ định điều trị, vào  nồng độ thải natri mong muốn, vào thời gian tác dụng của thuốc, vào tác dụng phụ  đặc hiệu của mỗi loại thuốc và vào tình trạng chức năng thận của người bệnh. Chỉ có  thầy thuốc là người am hiểu cơ chế tác động của từng nhóm thuốc mới chọn thuốc  thích hợp. Trong điều trị tăng huyết áp thường chọn thuốc có tác dụng thải natri vừa phải và  kéo dài (như nhóm thiazid). Còn điều trị phù, sự lựa chọn thuốc sẽ tuỳ thuộc vào mức  độ cần thải muối. Muốn có tác dụng nhanh, đặc biệt trong phù phổi các nhà điều trị  thường dùng thuốc có tác động ở quai Henlé uống và cả tiêm tĩnh mạch. Trong suy  thận, người ta chỉ có thể dùng thuốc tác động ở quai chứ không dùng các nhóm thuốc  khác. Khi đã dùng thuốc, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ theo đúng liệu trình dùng  thuốc do bác sĩ chỉ định, không được tự ý ngưng, bỏ thuốc nửa chừng dù cảm thấy  khỏe hơn. Có người cho rằng dùng thuốc lợi tiểu đi tiểu nhiều là "thoát dương", giảm  kỷ, yếu thận và liệt dương nên đã không tuân thủ điều trị, bỏ thuốc nửa chừng. Điều  này không nên, chỉ có spironolacton dùng liều cao và lâu ngày có thể gây tình trạng  "yếu sinh lý" nhưng ngưng thuốc sẽ hồi phục. Vì vậy, người bệnh nên báo cho thầy  thuốc biết tác dụng ngoại ý để thầy thuốc xử trí bằng cách thay thuốc khác chứ không  nên tự ý bỏ thuốc. Giống như mọi trường hợp cần điều trị kéo dài, khi đang dùng thuốc lợi tiểu cần  tránh dùng các thuốc có tương tác bất lợi. Tức là khi đang dùng thuốc lợi tiểu không  nên tự ý dùng đồng thời các thuốc khác mà phải hỏi ý kiến của bác sĩ điều trị. Hoặc  phải kể cho bác sĩ rõ các thuốc đang dùng khi được chỉ định thuốc lợi tiểu để bác sĩ chỉ  định thuốc thích hợp. Ví dụ: thuốc lợi tiểu tác động ở quai Henlé nếu dùng đồng thời  với kháng sinh cephalosporin sẽ làm tăng độc tính của cephlosporin và bác sĩ sẽ tránh  cho dùng thuốc kiểu phối hợp này. Khi bác sĩ chỉ định kết hợp thuốc lợi tiểu "bài tiết" kali và thuốc lợi tiểu "tiết kiệm"  kali vẫn phải theo dõi tình trạng kali máu của người bệnh vì cân bằng của cơ thể vẫn  có thể nghiêng về hoặc tăng hoặc giảm kali quá mức. Trong cơ thể, chất điện giải natri và kali đồng hành khăng khít với nhau. Các thuốc  lợi tiểu thông dụng (nhóm thiazid và tác động ở quai Henlé) có tác dụng thải natri đồng  thời làm mất kali. Trong khi đó kali lại đóng vai trò rất quan trọng trong co bóp tim và  duy trì thể trạng tốt. Vì vậy, người dùng thuốc lợi tiểu nên ăn nhiều chuối, uống  nhiều nước cam để được bổ sung kali. Hoặc dùng thuốc lợi tiểu mà lại có triệu chứng  vọp bẻ (chuột rút), yếu cơ, mệt mỏi, khát nhiều, bất an, mạch nhanh phải đến bác sĩ  khám ngay. Có khi bác sĩ cho dùng thêm thuốc bù kali mới giải quyết được tình trạng  mất kali do dùng thuốc lợi tiểu.
  8. Nhóm thuốc tác động lên thần kinh trung ương ­Gồm có reserpin, methyldopa, clonidin… Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào  thần kinh gây hạ huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng  thuốc đột ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp. RESERPIN +Reserpin làm cạn kiệt dự trữ catecholamin và serotonin ở đầu tận cùng dây thần kinh   giao cảm ngoại biên và làm cạn kiệt catecholamin và serotonin ở não, tim và nhiều cơ  quan   khác. +Trên người tăng huyết áp, huyết áp giảm ở mức độ vừa phải, huyết áp tâm thu giảm  nhiều hơn huyết áp tâm trương, ở tư thế đứng giảm nhiều hơn so với tư thế nằm. Tác   dụng giảm huyết áp xuất hiện chậm vì cần có thời gian để làm giảm norepinephrin dự  trữ; sau khi ngừng thuốc cũng cần một thời gian đủ để phục hồi dự trữ norepinephrin,   lúc đó tác dụng của thuốc mới hết. +Reserpin cũng làm chậm nhịp tim, không làm thay đổi hoặc chỉ  làm giảm nhẹ  cung  lượng tim, không làm thay đổi cung lượng thận và độ lọc cầu thận.  METHYLDOPA + Methyldopa làm giảm huyết áp cả   ở  tư  thế  đứng và tư  thế  nằm. Thuốc không có   ảnh hưởng trực tiếp tới chức năng thận và tim. Cung lượng tim thường được duy trì;   không   thấy   tăng   tần   số   tim. + Methyldopa là một thuốc hạ huyết áp có cấu trúc liên quan đến các catecholamin và   tiền chất của chúng. Tác dụng chống tăng huyết áp của methyldopa có thể  do thuốc  được chuyển hóa  ở  hệ  thống thần kinh trung  ương thành alpha methyl norepinephrin,   chất này kích thích các thụ thể alpha adrenergic dẫn đến giảm trương lực giao cảm và   giảm huyết áp. Vì vậy methyldopa được coi là thuốc liệt giao cảm có tác động trung   ương. +Methyldopa làm giảm huyết áp cả ở tư thế đứng và tư thế nằm. Thuốc không có ảnh   hưởng trực tiếp tới chức năng thận và tim. Cung lượng tim thường  được duy trì;  không thấy tăng tần số tim.
  9. CLONIDIN + Clonidin là thuốc chủ  vận chọn lọc alpha2 ­ adrenergic. Khác với hoạt hóa thụ  thể  alpha1   ­  adrenergic   gây   tăng   huyết  áp   rõ   rệt,  hoạt   hóa  chọn   lọc   thụ   thể   alpha2   ­   adrenergic   do   clonidin   gây   tác   dụng   hạ   huyết   áp. +Clonidin là thuốc chủ  vận chọn lọc alpha2 ­ adrenergic. Khác với hoạt hóa thụ  thể  alpha1   ­  adrenergic   gây   tăng   huyết  áp   rõ   rệt,  hoạt   hóa  chọn   lọc   thụ   thể   alpha2   ­   adrenergic do clonidin gây tác dụng hạ huyết áp. +Tác dụng dược lý chủ yếu của clonidin bao gồm những thay đổi về huyết áp và nhịp   tim, mặc dù thuốc còn có những tác dụng quan trọng khác. Khoảng 2 giờ sau khi dùng   thuốc đã thấy tác dụng chống tăng huyết áp tối đa, và thời gian tác dụng kéo dài phụ  thuộc vào liều. Khoảng 10 giờ  sau một liều duy nhất 75 microgam, tác dụng chống   tăng huyết áp tối đa vẫn còn 70 ­ 75%. Khoảng 24 đến 48 giờ sau đó, thường huyết áp   không bị ảnh hưởng. +Tác dụng hạ  huyết áp là do hoạt hóa thụ  thể  alpha2 ­ adrenergic  ở những trung tâm   kiểm soát tim mạch của hệ  thần kinh trung  ương; sự  hoạt hóa này làm giảm luồng  hoạt động của thần kinh giao cảm từ não, do đó giảm tiết noradrenalin ở các dây thần  kinh giao cảm. +Mặt khác, những thụ thể  noradrenergic gắn với imidazolin có ở  não và ở  những mô   ngoại biên cũng có thể làm trung gian cho tác dụng hạ huyết áp của clonidin. +Clonidin làm giảm tiết  ở  những sợi giao cảm trước hạch trong dây thần kinh tạng   cũng như ở những sợi giao cảm sau hạch của những dây thần kinh tim. +Ngoài ra, tác dụng chống tăng huyết áp của clonidin còn có thể  được trung gian hóa  nhờ hoạt hóa những thụ thể alpha2 trước si ­ náp, làm giảm tiết noradrenalin từ những   đầu tận dây thần kinh ngoại biên. Clonidin làm giảm nồng độ noradrenalin trong huyết  tương và cũng làm giảm nồng độ renin và aldosteron ở một số người bệnh tăng huyết   áp. +Có thể  phối hợp clonidin với phần lớn những thuốc chống tăng huyết áp và với   thuốc lợi tiểu.
  10. Thuốc chẹn alpha Một trong những nguyên nhân dẫn đến cao huyết áp đó là do tuyến tủy thượng  thận bài tiết quá nhiều noradrenalin­một loại hormone có tác dụng làm co mạch toàn   thân,nên làm tăng cả huyết áp tối đa lẫn tối thiểu.Việc noradrenalin được bài tiết quá  nhiều sẽ  dẫn đến huyết áp tăng rất cao và theo từng cơn (có thể  lên tới 200mmHg).   Dựa vào điều này,ngành dược đã điều chế  ra "Nhóm thuốc chẹn  alpha"  để   ức chế  giải phóng ra noradrenalin dùng để hạ huyết áp. Tổng quan:   Các   chất   chẹn   alpha   toàn   thân   bao   gồm   doxazosin,   phenoxybenzamin,   phentolamin,   prazosin,   terazosin   và   tolazolin.   Trên   lâm   sàng,   doxazosin,   terazosin.  Phenoxybenzamin và tolazolin ít khi được sử  dụng. Phentolamin được dùng để  chẩn  đoán u tế bào ưa crôm, để điều trị cao huyết áp do u tế bào ưa crôm, và để ngǎn ngừa   hoại tử  mô sau khi noradrenalin hoặc dopamin thoát mạch. Phentolamin cũng được   dùng điều trị cơn cao huyết áp do liệu pháp ức chế monoamin oxidase (MAOI).   Hình ảnh:                                                                                             Phentolamine                                                                                    
  11.                                                            Doxazosin Cơ chế tác dụng: Noradrenalin   khi   được   giải   phóng   ra   sẽ tác   dụng   lên   các   receptor   của   hệ  adregenic.Các receptor này được chia thành 2 loại alpha và beta,trong đó  α có tính chất  kích thích, làm co thắt các cơ trơn.Các receptor alpha được chia thành hai loại:  • Loại  receptor alpha 1: là receptor sau xinap, làm co mạch tăng huyết áp,giải  phóng noradrenalin.  • Loại  receptor alpha 2: là receptor trước xinap, có tác dụng điều hòa, khi kích  thích sẽ  làm giảm giải phóng norad renalin ra khe xinap, đồng thời làm giảm  tiết renin, gây hạ huyết áp. Một   số   loại   thuốc   chẹn   α   không   đặc   hiệu   như   :   phentolamin và phenoxybenzamin,.. tuy phong bế các receptor alpha,giúp hạ huyết áp nhưng những loại thuốc này gây ức chế trên cả receptor alpha 1 và αlpha 2.Các receptor alpha 2 với chức năng điều hòa ngược sẽ  hạn chế  giải phóng noradrenalin.  Các thuốc này cũng có tác dụng gây  ức chế  những receptor alpha 2 và do đó gây giải  phóng noradrenalin liên tục quá thừa, gây nên nhịp tim nhanh, đánh trống ngực và tăng  hoạt tính của renin trong huyết tương từ phức hợp cạnh cầu thận,làm giảm hiệu quả  hạ huyết áp.  Không   như  Phentolamin  hay   phenoxybenzamin,các   thuốc   như  dosazoxin, prazosin và terazosin  không làm  ức chế  các  receptor alpha 2  mà chúng gây  ức chế  chọn lọc các receptor alpha 1 ở động mạch nhỏ và tĩnh mạch, dẫn đến giảm sức cản   thành mạch ngoại vi và giảm lượng máu từ  tĩnh mạch về  tim.. Các thuốc phong bế  đặc hiệu receptor alpha 1 thì tránh được hiện tượng quá thừa chất dẫn truyền thần   kinh trên, do đó gây phản xạ  kích thích tim ít hơn và ít làm tăng hơn hoạt tính renin   trong huyết tương, so với các thuốc phong bế   α  không đặc hiệu.Doxazosin cũng tác   động lên hệ thần kinh trung ương, giảm bớt dòng giao cảm.  Các đặc điểm phân biệt:  Phentolamin  tác động tương tự  phenoxybenzamin, nhưng  phentolamin  thường  được dùng ngoài đường tiêu hóa và có thời gian tác dụng ngắn hơn . phentolamin  và  phenoxybenzamin chống cao huyết áp kém do gây nhịp tim nhanh, giải phóng renin và   giảm hiệu lực phong bế thụ thể. Trong prazosin, terazosin và doxazosin thì doxazosin có tác dụng kéo dài nhất.  Có thể  dùng doxazosin với liều 1 lần/ngày, khiến thuốc hữu dụng trong điều trị  một  bệnh mạn tính như  cao huyết áp. Vì tác dụng có lợi trên phì đại tuyến tiền liệt lành   tính (BPH), đây là những thuốc lý tưởng dùng cho nam giới bị cả cao huyết áp và BPH.   Số liệu sơ bộ  từ  nghiên cứu đối chứng đầu tiên so sánh terazosin với finasterid (một  chất  ức chế  5­alpha­reductase) đã cho thấy  terazosin  là  ưu việt trong điều trị  BPH.   Finasterid  có lẽ  tốt hơn  ở  nam giới bị  phì đại tuyến tiền liệt vì thuốc thực sự  làm  tuyến tiền liệt co nhỏ  lại, hoặc  ở  người không thể  dung nạp được các chất chẹn  alpha. Một số chú ý khi sử dụng thuốc Liều lượng: • Doxazosin: viên 2mg; liều 1­16mg. • Prazosin: viên 1/5mg; liều 1­20mg.
  12. • Alfuzosine: viên 2,5mg/5mg; liều 10mg/ngày. Tác dụng phụ: Chóng mặt,choáng váng,mệt mỏi khi đứng lên đột ngột hoặc đứng dậy vào   buổi sáng (do hạ huyết áp thế đứng),nhịp tim nhanh. NHÓM THUỐC CHẸN BETA GIỚI THIỆU       Ức chế beta là chọn lựa hàng đầu để  kiểm soát triệu chứng  ở bệnh nhân có bệnh  mạch vành  ổn định mạn tính, được khuyên dùng của các hiệp hội Tim mạch Mỹ  và   Châu Âu. Thông qua bài viết này, em xin trình bày về  vấn đề  sử  dụng thuốc  ức chế  beta trong điều trị huyết áp cao CƠ CHẾ TÁC DỤNG:      Tác dụng sinh lý của catecholamine thông qua hoạt hóa thụ  thể  alpha và beta giao  cảm đặc hiệu. Có ít nhất là 3 loại thụ thể beta giao cảm khác nhau      ­ Thụ thể beta 1: chủ yếu ở cơ tim. Hoạt hóa thụ thể này làm tăng tần số tim, sức  co bóp cơ tim, dẫn truyền nhĩ thất và giảm thời kỳ trơ của nút nhĩ thất.      ­ Thụ thể beta 2: cũng có ở cơ tim nhưng chủ yếu hiện diện ở phế quản và cơ trơn  mạch máu ngoại biên. Hoạt hóa thụ thể này gây nên giãn mạch và giãn phế quản.      ­ Thụ thể beta 3: tìm thấy ở mô mỡ và tim. Hoạt hóa những thụ thể này có thể gây  ra sự sinh nhiệt do catecholamine và có thể giảm sức cơ bóp cơ tim      Thuốc  ức chế  beta hoạt động bằng cách  ức chế  cạnh tranh với catecholamine do   gắn vào các thụ thể này. Một vài thuốc có tính chọn lọc hơn trên thụ thể beta 1. Những tác dụng lên tim mạch của  ức chế beta:  tác dụng điều trị  của thuốc  ức chế  beta  ở bệnh nhân có Cơn đau thắt ngực  ổn định qua trung gian giảm nhu cầu oxy cơ  tim. Nhu cầu oxy cơ tim liên quan trực tiếp với tần số tim, sức co bóp cơ  tim và sức  
  13. căng thành thất trái, thuốc ức chế beta làm giảm các yếu tố này.      Giảm tần số  tim được quyết định bởi mức độ  hoạt hóa hệ  giao cảm (chẳng hạn  như  gắng sức hoặc stress) và những đặc tính của thuốc ức chế beta. Những thuốc có  hoạt tính giao cảm nội tại có thể tăng đáng kể  tần số tim lúc nghĩ. Tuy nhiên nó vẫn   có hiệu quả trong điều trị cơn đau thắt ngựcbởi làm giảm tần số tim khi gắng sức.      Tác dụng ức chế co bóp cơ  tim của thuốc  ức chế beta có ảnh hưởng đến tiêu thụ  oxy cơ tim  ở bệnh nhân đau thắt ngực. Trước đây thuốc  ức chế  beta không dùng cho   bệnh nhân suy chức năng thất trái do quan ngại tác dụng làm giảm co bóp cơ  tim sẽ  làm xấu hơn tình trạng suy tim(ST). Tuy nhiên, nhiều những thử nghiệm lâm sàng lớn  cho thấy kéo dài thời gian sống cho những bệnh nhân ST. Thuốc ức chế beta phải khởi   trị ở liều thấp và tình trạng quá tải dịch phải được điều chỉnh trước khi khởi trị.      Thuốc ức chế beta cũng ảnh hưởng tưới máu mạch vành dù có những tác dụng đối   nghịch nhau. Thuốc  ức chế beta  ức chế khả năng giãn mạch vành qua trung gian giao   cảm, gia tăng kháng lực vành và giảm dòng chảy vành. Tuy nhiên, tác dụng này có thể  được che lấp bởi giảm tần số tim (khi giảm tần số tim sẽ gia tăng dòng chảy mạch   vành do kéo dài thời gian tâm trương) và giảm nhu cầu oxy cơ tim.Thuốc  ức chế beta  không chọn lọc có làm dễ  co thắt mạch vành  ở  bệnh nhân đau thắt ngực biến thể  (variant angina) hay còn gọi là cơn đau thắt ngựcPrinzmetal. KẾT LUẬN       Ức chế  beta có hiệu quả  cao trong giảm những triệu chứng cơn đau thắt ngựcvà   giảm tiến triển thành NMCT ở bệnh nhân ổn định. Cần quan tâm các đặc điểm dược   động học của thuốc ức chế beta trong điều trị các rối loạn tim mạch. Các BS nội khoa  cần   quen   dùng   với   một   hoặc   hai   thuốc   trong   mỗi   nhóm   (ví   dụ   atenolol   hoặc  metoprolol, propranolol và pindolol) chú ý đặc tính chọn lọc tim hoặc hoạt tính giao  cảm nội tại. Lựa chọn thuốc dựa vào bối cảnh lâm sàng để  chọn thuốc  ức chế  beta  phù  hợp cho từng đối tượng. Khuyến cáo cho tất cả  bệnh nhân có Cơn  đau thắt  ngựcnên điều trị  với  ức chế beta là liệu pháp chống đau thắt ngực đầu tiên dùng các  thuốc chọn lọc tim chẳng hạn như atenlol hoặc metoprolol        NHÓM THUỐC CHẸN KÊNH CALCI I.VERAPAMIL Verapamil là một thuốc chẹn kênh calci, ngăn cản dòng Ca2+ đi qua kênh, chậm vào tế  bào thần kinh dẫn truyền và tế bào cơ tim (tác dụng chống loạn nhịp) và vào tế bào cơ  trơn thành mạch (tác dụng giãn mạch).
  14. Trong suy mạch vành, verapamil làm giảm tiêu thụ  oxygen của cơ tim trực tiếp bằng   can thiệp vào quá trình chuyển hóa tiêu thụ oxygen của cơ tim và gián tiếp bằng giảm   hậu gánh; verapamil làm tăng lưu lượng máu động mạch vành và ngăn cản co thắt   động mạch vành. Verapamil làm hạ huyết áp bằng cách làm giãn mạch ngoại vi, giảm sức cản ngoại vi   và như vậy làm giảm hậu gánh. Verapamil có tác dụng chống loạn nhịp tim mạnh, đặc biệt đối với loạn nhịp tim trên   thất. Thuốc kéo dài dẫn truyền xung động trong nút nhĩ thất và do đó, tùy theo loại  loạn nhịp nhanh, phục hồi nhịp xoang và/hoặc làm chậm tần số  thất (thuốc chống   loạn nhịp nhóm IV). Chỉ định Ðau thắt ngực các dạng: Cơn  đau do gắng sức, cơn  đau không  ổn  định, cơn  đau   Prinzmetal. Chữa cơn tim nhanh kịch phát trên thất, và phòng tái diễn. Nhịp thất nhanh trong cuồng động nhĩ hoặc rung nhĩ. Tăng huyết áp vô căn. Chống chỉ định Rối loạn dẫn truyền nặng: blốc nhĩ thất độ 2 và 3 (trừ khi người bệnh có đặt máy tạo   nhịp); blốc xoang nhĩ; hội chứng suy nút xoang (hội chứng tim chậm ­ tim nhanh). Suy tim mất bù. Nhịp nhanh thất. Hạ huyết áp (huyết áp tâm thu 
  15. II. DILTIAZEM: Diltiazem ức chế dòng calci đi qua các kênh calci phụ thuộc điện áp ở màng tế bào cơ  tim và cơ  trơn mạch máu. Do làm giảm nồng độ  calci trong những tế  bào này thuốc   làm giãn động mạch vành và mạch ngoại vi. Thuốc làm chậm nhịp tim, giảm co bóp  cơ  tim và làm chậm dẫn truyền nút nhĩ thất. Thuốc được sử  dụng trong điều trị  đau  thắt ngực và tăng huyết áp. Thuốc được hấp thu tốt. Khả dụng sinh học khoảng 40% khi chuyển hóa qua gan lần   đầu, có thể tăng khi dùng thuốc dài ngày và khi tăng liều. Khoảng 70 ­ 80% thuốc liên  kết với protein. Phân bố: Diltiazem ưa mỡ và có thể tích phân bố cao khoảng từ 3 ­ 8 lít/kg. Diltiazem   chuyển  hóa   chủ   yếu  ở  gan.  Hai   chất   chuyển  hóa  chính   là  N   ­  monodesmethyl  và  desacetyl diltiazem, đều có tác dụng dược lý khoảng 25 ­ 50% so với tác dụng của   diltiazem hydroclorid. Thuốc được chuyển hóa chậm ở những người bị suy gan, những  chất chuyển hóa thường ở dạng liên hợp glucuronid và sulfat. Thải trừ: Diltiazem được thải trừ dưới dạng các sản phẩm chuyển hóa (khoảng 35%)   dạng không biến đổi qua thận khoảng 2 ­ 4%; số  còn lại, khoảng 60% thải trừ  qua   phân. Nửa đời thải trừ  của diltiazem trung bình khoảng 6 ­ 8 giờ  nhưng có thể  dao  động từ  2 ­ 11 giờ. Mặc dù nửa đời thải trừ  của thuốc không thay đổi khi dùng nhắc  lại, vẫn có một lượng nhỏ diltiazem cũng như chất chuyển hóa desacetyl được tích lũy  trong huyết tương. Ở  người cao tuổi, nồng độ  trong huyết tương cao hơn  ở  người trẻ, nhưng không có   những thay đổi lớn về mặt dược động học của diltiazem. Nồng độ  trong huyết tương  có xu hướng cao hơn  ở những người bệnh xơ gan do giảm chuyển hóa oxy hóa. Với  người bệnh suy thận, không cần phải điều chỉnh liều vì những chất ức chế dòng calci  thường có lợi cho người bệnh suy thận cấp. Chỉ định Ðiều trị và dự phòng cơn đau thắt ngực, kể cả đau thắt ngực Prinzmetal. Ðiều trị tăng huyết áp nhẹ và vừa. Chống chỉ định Rối loạn hoạt động nút xoang, blốc nhĩ thất độ 2 và độ 3. Mẫn cảm với diltiazem. Suy thất trái kèm theo sung huyết phổi.
  16. Nhịp tim chậm dưới 50 phút. Thận trọng khi dùng cho phụ nữ đang mang thai. III. NIFEDIPIN Nifedipin là thuốc chẹn kênh calci thuộc nhóm dihydropyridin, có tác dụng chống cơn  đau thắt ngực, chống tăng huyết áp và điều trị bệnh Raynaud. Chỉ định Dự phòng đau thắt ngực, đặc biệt khi có yếu tố co mạch như trong đau thắt ngực kiểu  Prinzmetal. Tăng huyết áp. Hội chứng Raynaud. Chống chỉ định Sốc do tim. Hẹp động mạch chủ nặng. Nhồi máu cơ tim trong vòng 1 tháng. Cơn đau cấp trong đau thắt ngực  ổn định mạn, nhất là trong đau thắt ngực không ổn   định. Rối loạn chuyển hóa porphyrin. IV. AMLODIPIN Amlodipin là dẫn chất của dihydropyridin có tác dụng chẹn calci qua màng tế  bào.  Amlodipin ngăn chặn kênh calci loại L phụ  thuộc điện thế, tác động trên các mạch  máu ở tim và cơ. Amlodipin có tác dụng chống tăng huyết áp bằng cách trực tiếp làm giãn cơ trơn quanh  động mạch ngoại biên và ít có tác dụng hơn trên kênh calci cơ tim. Vì vậy thuốc không   làm dẫn truyền nhĩ thất  ở  tim kém đi và cũng không  ảnh hưởng xấu đến lực co cơ.   Amlodipin cũng có tác dụng tốt là giảm sức cản mạch máu thận, do đó làm tăng lưu   lượng máu  ở  thận và cải thiện chức năng thận. Vì vậy thuốc cũng có thể  dùng để  điều trị người bệnh suy tim còn bù. Amlodipin   không   có   ảnh   hưởng   xấu   đến   nồng   độ   lipid   trong   huyết   tương   hoặc  chuyển hóa glucose, do đó có thể  dùng amlodipin để  điều trị  tăng huyết áp  ở  người  
  17. bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên, chưa có những thử  nghiệm lâm sàng dài ngày để  chứng tỏ  răng amlodipin có tác dụng giảm tử vong.  Ở nhiều nước, điều trị  chuẩn để  bảo vệ người bệnh tăng huyết áp khỏi tai biến mạch máu não và tử vong vẫn là thuốc   chẹn beta và thuốc lợi tiểu, các thuốc này được chọn đầu tiên để  điều trị. Tuy vậy,  amlodipin có thể  dùng phối hợp với thuốc chẹn beta cùng với thiazid hoặc thuốc lợi   tiểu quai và cùng với thuốc  ức chế  enzym chuyển đổi angiotensin. Amlodipin có tác   dụng tốt cả khi đứng, nằm cũng như ngồi và trong khi làm việc. Vì amlodipin tác dụng  chậm, nên ít có nguy cơ hạ huyết áp cấp hoặc nhịp nhanh phản xạ. Tác dụng chống đau thắt ngực: Amlodipin làm giãn các tiểu động mạch ngoại biên, do   đó làm giảm toàn bộ lực cản ở mạch ngoại biên (hậu gánh giảm). Vì tần số tim không  bị tác động, hậu gánh giảm làm công của tim giảm, cùng với giảm nhu cầu cung cấp   oxy và năng lượng cho cơ  tim. Ðiều này làm giảm nguy cơ  đau thắt ngực. Ngoài ra,  amlodipin cũng gây giãn động mạch vành cả  trong khu vực thiếu máu cục bộ  và khu   vực được cung cấp máu bình thường. Sự  giãn mạch này làm tăng cung cấp oxy cho  người bệnh đau thắt ngực thể co thắt (đau thắt ngực kiểu Prinzmetal). Ðiều này làm  giảm nhu cầu nitroglycerin và bằng cách này, nguy cơ kháng nitroglycerin có thể giảm.   Thời gian tác dụng chống đau thắt ngực kéo dài 24 giờ. Người bệnh đau thắt ngực có   thể dùng amlodipin phối hợp với thuốc chẹn beta và bao giờ cũng dùng cùng với nitrat   (điều trị cơ bản đau thắt ngực). Chỉ định Ðiều trị  tăng huyết áp (ở  người bệnh có những biến chứng chuyển hóa như  đái tháo  đường) và điều trị dự phòng ở người bệnh đau thắt ngực ổn định. Chống chỉ định Không dùng cho những người suy tim chưa được điều trị ổn định. Quá mẫn với dihydropyridin. Thận trọng Với người giảm chức năng gan, hẹp động mạch chủ, suy tim sau nhồi máu cơ tim cấp. Thời kỳ mang thai Các thuốc chẹn kênh calci có thể ức chế cơn co tử cung sớm.
  18. Nhóm thuốc ức chế men chuyển  Gồm có Captopril, Enalapril, Benazepril, Lisinopril, Perindopril, Quinepril,Tradola­pril... Cơ chế của thuốc là ức chế một enzym có tên là men chuyển angiotensin(angiotensin  converting enzym, viết tắt là ACE) 6.1.Nhóm thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensin Thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensin­converting (thuốc ƯCMC) lần đầu tiên  được sử dụng vào năm 1977 không chỉ là hòn đá tảng điều trị suy tim mà còn nhanh  chóng đóng vai trò quan trọng trong điều trị tăng huyết áp và bảo vệ tim mạch. 6.1.1Cơ chế tác dụng của men chuyển là ức chế sự chuyển đổi từ angiotensin I sang  angiotensin II hoạt hoá (gây ra sự co mạch mạnh và làm tăng sản phẩm aldosterone giữ muối  và nước). Men chuyển dạng này không chỉ chuyển angiotensin­I sang angiotensin II mà còn  làm bất hoạt bradikinin. Vì thế, thuốc ƯCMC làm giảm hoạt động của hệ thần kinh giao  cảm gây giãn mạch làm giảm huyết áp. Ngoài hiệu quả giãn mạch, tác dụng hạ áp của  ƯCMC còn thông qua các hoạt tính sau: ­ Giảm tiết aldosterone, do đó tăng bài tiết natri. ­ Tăng hoạt 11b­hydroxysteroid dehydrogenase, do đó bài tiết natri. ­ Giảm tăng hoạt tính giao cảm khi giãn mạch, do đó ƯCMC dù làm giãn mạch nhưng tần số  tim không tăng. ­ Giảm tiết endothelin (chất co mạch từ nội mạc). ­ Cải thiện chức năng nội mạc, chống tái cấu trúc và chết tế bào theo chương trình.
  19. Các buồng tim ở bệnh nhân suy tim bị giãn rộng. Các hoạt tính nêu trên giúp ƯCMC có hiệu quả giảm độ cứng của động mạch, đặc biệt là  động mạch chủ do đó tăng tính giãn (compliance) của động mạch... Nhờ đó giúp giảm phì đại  cơ tim và phì đại thành mạch. Ngoài hiệu quả trên mạch máu, ƯCMC còn giảm sợi hoá cơ  tim, giảm phì đại thất trái, tăng lưu lượng máu động mạch vành và có tác dụng bảo vệ thận  trên bệnh nhân đái tháo đường và bệnh nhân có protein niệu do bệnh thận.  6.1.2. Chỉ định điều trị tăng huyết áp của nhóm thuốc ƯCMC theo khuyến cáo JNC7 cho  thấy, thuốc có thể sử dụng đơn trị liệu hoặc phối hợp với các thuốc khác như: lợi tiểu, chẹn  kênh canxi, chẹn alpha giao cảm... Thuốc ƯCMC được xem như thuốc lựa chọn đầu tiên  điều trị tăng huyết áp nguyên phát, đặc biệt tăng huyết áp có đái tháo đường. Ngoài ra ƯCMC  còn là thuốc được lựa chọn hàng đầu trong trường hợp tăng huyết áp có suy tim, sau nhồi  máu cơ tim, nguy cơ động mạch vành cao, đái tháo đường týp II, bệnh thận mạn và sau đột  qụy. 6.1.3. Các đặc tính không mong muốn của ƯCMC bao gồm: ­ Tăng kali máu qua đặc tính giảm tiết aldosterone của thuốc. Nguy cơ cao hơn ở bệnh nhân  có bệnh thận hoặc phối hợp ƯCMC với lợi tiểu giữ kali. ­ Giúp giảm đường huyết qua đặc tính tăng nhạy cảm với insulin của thuốc. ­ Tương tác với erythropoietin, ƯCMC có thể ngăn cản một phần hoạt tính của erythropoietin  gây thiếu máu. ­ Suy giảm chức năng thận: xảy ra ở bệnh nhân hẹp động mạch thận hai bên hoặc hẹp động  mạch thận trên bệnh nhân có một thận độc nhất. Trên bệnh nhân suy thận chỉ khi creatinin  máu tăng trên 35% khi sử dụng ƯCMC điều trị tăng huyết áp mới cần ngừng ƯCMC. ­ Ho: Đặc điểm của nó là ho khan từng cơn thường vào buổi đêm kèm cảm giác ngứa ở cổ  họng. Đây là tác dụng không mong muốn thường gặp nhất của thuốc ƯCMC có tần suất thay  đổi từ 5 ­ 12,3%. Khi gặp trường hợp này, giảm liều ƯCMC hoặc thay bằng nhóm thuốc  chẹn thụ thể angiotensin (AT1) hoặc ngừng hẳn ƯCMC sẽ hết ho sau vài tuần lễ. ­ Dị ứng kiểu phù mạch hoặc số phản vệ rất hiếm nhưng cũng có thể xảy ra cần ngừng  thuốc và xử trí cấp cứu. ­ Rối loạn vị giác thường ít gây hậu quả và không cần ngừng ƯCMC. ­ Giảm bạch cầu chỉ xảy ra ở bệnh nhân suy thận sử dụng ƯCMC, đặc biệt thường gặp ở  bệnh nhân có giảm miễn dịch hoặc dùng kèm thuốc giảm miễn dịch. ­ Không được dùng ƯCMC trên phụ nữ có thai do nguy cơ tử vong, dị tật thai nhi. 6.2. Việc kết hợp giữa thuốc ức chế men chuyển với thuốc lợi tiểu hay chẹn  kênh Canxi 6.2.1. Thuốc ƯCMC kết hợp với thuốc Lợi tiểu Bảng lợi ích của việc kết hợp thuốc ƯCMC và Lợi tiểu Cải thiện kiểm soát huyết áp ♦  Đối trọng việc kích hoạt thứ cấp hệ thống renin­angiotensin do lợi tiểu gây ra ♦  Giảm nguy cơ rối loạn điện giải (VD: siêu hạ hoặc hạ kali máu, hạ magie máu) ♦  Giảm tác dụng phụ trên chuyển hóa do lợi tiểu gây ra. ♦  Đáp ứng tốt hơn trên nhóm bệnh nhân Phi­ Mỹ. ♦  Hiệp đồng tác dụng chống protein niệu, đặc biệt là khi có sự hiện diện của lượng  Natri lớn Kết quả trên tim mạch
  20. Kết hợp thuốc giúp bảo vệ chống lại các biến cố mạch máu lớn, và việc giảm huyết  áp tốt hơn so với đơn trị liệu phần nào lý giải điều này. Theo nghiên cứu Advance, tác   dụng của thuốc kết hợp  ƯCMC và lợi tiểu là tương tự nhau giữa biến cố mạch máu  lớn và biến cố mạch máu nhỏ, giảm tỉ lệ tử vong do tim mạch, giảm tử vong do mọi   nguyên nhân so với placebo. Kết quả trên thận Enalapril+lợi tiểu giảm protenin niệu tốt hơn nifedipine trên cả nhóm có microalbumin  niệu hoặc macroalbumin niệu. Nghiên cứu Advance cho thấy ƯCMC+lợi tiểu giảm rõ   rệt sự xuất hiện microalbumin niệu, giảm tiến triển bệnh thận(2). 6.2.2. Thuốc ƯCMC kết hợp với Chẹn kênh canxi: Bảng lợi ích của việc kết hợp thuốc ƯCMC và chẹn kênh canxi(2) ♦  Hiệp đồng kiểm soát huyết áp ♦   Ảnh hưởng thuận lợi về  mặt chuyển hóa(có thể  giúp làm giảm tỷ  lệ  đái  tháo đường mới mắc trong một số nghiên cứu) ♦   ƯCMChạn chế  sự gia tăng phản xạ của hoạt tính giao cảm do chẹn kênh   canxi gây ra ♦  Giảm hiện tượng phù ngoại vi ♦  Tác dụng lợi tiểu và bài tiết natri khi kết hợp thuốc nhiều tương đương với   trị  liệu bằng thuốc lợi tiểu do đó có thể  kiểu soát huyết áp mà không cần   dùng thêm lợi tiểu khi cần. ♦  Hiệp đồng trong việc giảm đạm niệu ♦  Tăng tổng hợp NO và giảm sinh cytokine ♦  Tăng tính đàn hồi động mạch giúp giảm xơ vữa động mạch Kết quả trên tim mạch Nghiên cứu Facet cho thấy kết hợp ƯCMC+chẹn kênh canxi làm giảm các biến cố  mạch máu chính (đột quỵ, nhồi máu cơ tim cấp, đau thắt ngực phải nhập viện) tốt  hơn so với đơn trị liệu. Nghiên cứu Hot chứng tỏ kết hợp làm giảm tử vong tim mạch,  giảm đột quỵ ngay cả trên bệnh nhân có đái tháo đường. Một nghiên cứu trên bệnh  nhân châu Âu kết hợp enalapril+nitrendipine cho kết quả, dạng kết hợp làm giảm tử  vong do mọi nguyên nhân, tử vong do tim mạch, biến cố tim mạch tốt hơn… và nhiều  nghiên cứu khác. Mới đây nhất là Accomplish cho thấy kết quả trên tim mạch của  dạng kết hợp ƯCMC+Chẹn kênh canxi tốt hơn ƯCMC+lợi tiểu. Kết quả trên thận Kết hợp ƯCMC+chẹn kênh canxi làm giảm protein niệu tốt hơn, giảm microalbumin  niệu, giảm sự xuất hiện microalbumin niệu đã được chứng minh qua nhiều nghiên  cứu như Shield, Amandha, Benedict… Vấn đề bảo vệ thận do cả hai nhóm điều trị  hay chỉ do một nhóm vẫn còn đang tranh cãi, nhưng tác dụng chống protein niệu hiệu  quả nhất được giải thích do ƯCMC một mình nó hoặc kết hợp với sự bổ trợ của việc  hạ áp đạt được do dạng kết hợp. Dù trong trường hợp nào thì doạng kết hợp ƯCMC  và chẹn kênh canxi vẫn giúp làm giảm sự suy giảm độ lọc cầu thận.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2