intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

1.119
lượt xem
66
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận với đề tài "Cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam" trình bày 3 nội dung chính: Khái quát chung về y tế, thực trạng cung ứng dịch vụ y tế ở nước ta hiện nay, nguyên nhân của việc cung ứng dịch vụ y tế ở nước ta, những định hướng và biện pháp khắc phục những khó khăn của ngành y tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam

  1. Trang 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Sự  chuyển đổi nền kinh tế đã đem lại những thành tựu đáng kể trong mọi mặt  đời sống kinh tế ­ xã hội của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, hệ  thống y tế  Việt   Nam đã có nhiều đổi mới và tiến bộ, phục vụ nhu cầu phòng bệnh và khám chữa bệnh  của đại đa số nhân dân, từng bước khống chế và thanh toán các dịch bệnh, kể cả các   dịch bệnh nguy hiểm. Hầu hết các chỉ tiêu sức khỏe cơ bản đã đạt và vượt so với mục   tiêu quốc gia trong giai đoạn. Những thành công trong lĩnh vực y tế và giáo dục đã góp  phần làm tăng nhanh chỉ số phát triển con người của quốc gia, thành tựu của Việt Nam   trong lĩnh vực y tế được đánh giá tốt hơn hẳn những nước khác có mức độ  phát triển   tương tự. Chuyển sang một nền kinh tế  thị  trường từ  một hệ  thống y tế bao cấp, y t ế  Việt Nam đang gặp phải những thách thức rất lớn. Đáp ứng nhu cầu dịch vụ chăm sóc  sức khỏe của nhân dân luôn là một vấn đề lớn của tất cả các nước đang phát triển và  cả các nước phát triển. "Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ  nhân dân" đã xác định: "Thách thức của ngành Y tế là phải đáp ứng được nhu cầu chăm   sóc sức khoẻ ngày càng cao. Đảm bảo công bằng về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân  và giữ được bản chất nhân đạo của chế độ trong điều kiện nền kinh tế thị trường vừa   là một vấn đề cấp bách, vừa là một chính sách lâu dài". Bệnh viện là cơ sở chiếm phần lớn nguồn ngân sách của toàn ngành Y tế, chất   lượng dịch vụ  bệnh viện  ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của người dân. Bệnh  viện là bộ  mặt của ngành Y tế, chính vì vậy luôn giành được sự  quan tâm lớn của   Chính phủ, Bộ Y tế và người dân. Trong những năm gần đây, hệ thống bệnh viện đã   được củng cố và phát triển thông qua việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào   tạo cán bộ. Kể  từ  khi Việt Nam chính thức trở  thành thành viên chính thức của Tổ  chức Thương mại quốc tế  (WTO) năm 2006, chúng ta đang từng bước thực hiện đầy  đủ các văn bản của WTO như Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp   Trang 2
  3. định về  các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở  hữu trí tuệ  (TRIPS),  Thỏa thuận về các rào cản kĩ thuật đối với thương mại (TBT, SPS). Như  vậy, Trong   lĩnh vực dịch vụ  y tế, kể  cả  dịch vụ  khám bệnh, chữa bệnh, chúng ta phải áp dụng  GATS, TBT để: "Thực hiện các biện pháp được tổ  chức (công hay tư) nhằm phòng   chống dịch bệnh, nâng cao sức khỏe và tuổi thọ của toàn thể nhân dân" . Mặt khác, Việt Nam đã ký Hiệp định khung về  thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau   về người hành nghề điều dưỡng giữa các nước ASEAN vào tháng 8 năm 2006 và cam  kết thực hiện vào tháng 7 năm 2009. Việt Nam cũng đang chuẩn bị  ký 2 Hiệp định  khung về thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về người hành nghề  y và nha khoa giữa các  nước ASEAN. Trang 3
  4. NỘI DUNG CHÍNH I. KHÁI QUÁT CHUNG 1. Khái niệm  Y tế là các hoạt động phòng, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ  con người như:  các hoạt động khám và điều trị  các bệnh; các hoạt động phòng bệnh, điều dưỡng,  chăm sóc sức khoẻ và thẩm mỹ của con người. Mục tiêu của ngành y tế được xác định   là tập trung vào bảo vệ sức khoẻ người dân thông qua các hoạt động phòng chống và  kiểm soát hữu hiệu các bệnh không truyền nhiễm cũng như  các bệnh truyền nhiễm   đồng thời đảm bảo sự công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ  y tế chất lượng cao   (đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, người nghèo). Đối tượng chăm sóc của y tế la con người ­ trung tâm của quá trình phát triển ở  mỗi quốc gia. Vì vậy y tế có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế ­ xă hội của đất   nước. 2. Vai trò của y tế 2.1. Vai trò của y tế với sự phát triển kinh tế Thứ nhất, con người sử dụng công cụ lao động tác động tới đối tượng lao động   nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu của mình. Để đạt được năng suất  lao động cao, bản thân người lao động phải luôn học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm nâng  cao tri thức, kỹ năng kỹ ảo ở mọi lĩnh vực. Muốn thực hiện được điều đó, trước tiên  con người phải có sức khoẻ  cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Hệ thống y tế với hai   Trang 4
  5. dịch vụ chủ  yếu là phòng và chữa bệnh cho con người giữ vai trò quyết định tới chất  lượng sức khoẻ của mọi thành viên và xă hội. Một hệ thống y tế tốt sẽ đảm bảo cho   người dân có sức khoẻ  tốt, trí tuệ  minh mẫnvà qua đó góp phần thúc đẩy phát triển  kinh tế. Bởi chính con người tạo ra của cải vật chất làm phát triển nền kinh tế của đất  nước. Một khi con người có sức khoẻ, có trí tuệ thì sẽ tạo ra nhiều của cải cho xã hội   hơn, làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển hơn. Do đó y tế  với mục tiêu chính là   chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của mọi người dân giữ  vai trò quan trọng gián tiếp đến  sự phát triển kinh tế của quốc gia. Thứ hai, y tế có vai trò rất quan trọng trong việc phòng và chống bệnh dịch, làm  giảm sự  thiệt hại cho nền kinh tế. Phòng bệnh là một trong hai hoạt động chính của  sự nhgiệp y tế. Nhờ thực hiện tốt công tác phòng bệnh mà nhiều quốc gia đã tiêt kiệm  được một chi phí lớn do ngăn chặn được nhiều dịch bệnh bùng nổ. Như ta đã biết gần   đây trên thế  giới và cả   ở  Việt nam liên tục xảy ra những bệnh dịch nguy hiểm, gây  thiệt hai lớn cho nền kinh tế như dịch bệnh Sars, bệnh cúm. Những căn bệnh này khi   đă mắc phải thường đi h ̣ ỏi chi phí chữa trị  rất tốn kém , thậm chí gây ra tử  vong dẫn   đến thiệt hại lớn về người và của. Nhưng sau đó ngành y tế của các quốc gia đã tiến   hành nghiên cứu, tích cực thực hiên “phòng bệnh hơn chữa bệnh” đã làm giảm đán kể  những thiệt hại về kinh tế và con người, để  tập trung nguồn lực dành cho phát triển   kinh tế. Rõ ràng, nhờ sử dụng tối đa nguồn nhânlực con người và nguồn lực tài chính   để thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, gần đây, ở Việt nam tuy phải đương đầu   với hai đại dịch lớn là Sars và cúm gà nhưng ngành y tế  cũng như  toàn dân đã hết nỗ  lực trong công tác phòng dịch nên thiệt hại về  kinh tế  và con người mà ta phải gánh  chịu đã được hạn chế tối đa. 2.2. Vai trò của y tế với xă hội Trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế đời sống con người ngày  càng được cải thiện cả  về  vật chất lẫn tinh thần. Nhưng trong khi phát triển kinh tế  con người đã tác động tới môi trường tự nhiên làm thay đổi môi trường sống của chính   chúng ta, kết quả là ngày càng nhiều bệnh dịch mới và nguy hiểm xuất hiện không chỉ  ở  phạm vi khu vực quốc gia mà còn trên toàn thế  giới. Y tế  có vai trò toàn cầu trong   Trang 5
  6. phồng chống các bệnh dịch này, nên các cơ quan y tế của các quốc gia cần phải có sự  hợp tác, giúp đỡ  lẫn nhau trong việc chữa bệnh, phòng bệnh. Tổ  chức y tế  thế  giới  (WTO) giữ vị trí quan trọng trong công tác này. Như vậy, ở một góc độ nào đó thì y tế  cũng góp phần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia trên thế giới Với việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em tốt, Y tế tạo ra nguồn lực   cơ bản cho phát triển xă hội trong tương lai. Trẻ em hôm nay và thế giớ ngày mai. Với   những chính sách y tế cung cấp nên tuổi thọ con người ngày càng được nâng cao, con  người có điều kiện để phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Ngày nay khi xem tới sự phát triển nói chung của một quốc gia, người ta không  chỉ xem xét tới sự phát triển kinh tế như tổng sản phẩm quốc nội… mà còn quan tâm   nhiều tới các chi tiêu phát triển con người như  chỉ tiêu HDI, chỉ  số  Gini. Điều này là   hoàn toàn đúng đắn bởi với một quốc gia chỉ phát triển kinh tế mà không chú ý đến con  người xă hội thì sự phát triển của quốc gia đó không thể coi là sự phát triển bền vững.  Đến một lúc nào đó, quốc gia đó sẽ  phải đối mặt với những khủng hoảng xã hội   nghiêm trọng. Hiện nay tuổi thọ trung bình của người dân các quốc gia ngày càng được  cải thiện. đạt dược kết quả đó công đầu tiên phải kể đến là ngành y tế thông qua hoạt  động phòng bệnh và chữa bệnh. Cùng với một số  lĩnh vực khác như: giáo dục và văn hoá y tế  luôn là sự  quan  tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội nói chung sẽ được đảm bảo. Nhờ  đó người dẫn sẽ có được cuộc sống lành mạnh, có cảm giác an toàn và tin tưởng vào   chế độ xã hội 3. Đặc điểm 3.1. Tính công cộng  Dịch vụ y tế là một loại hình dịch vụ khá đặc biệt, về bản chất dịch vụ y tế bao   gồm các hoạt động được thực hiện bởi nhân viên y tế như: khám, chữa bệnh, phục vụ  bệnh nhân và gia đình. Thực tế, người bệnh ít khi đánh giá chính xác chất lượng dịch  vụ y tế mặc dù họ có thể cảm nhận qua tiếp xúc với nhân viên y tế, trang thiết bị kỹ  thuật, cơ  sở  vật chất. Một người bệnh  được phẫu thuật khó lòng biết được chất  lượng của ca mổ như thế nào? Trang 6
  7. Chất lượng dịch vụ y tế bao gồm 2 thành phần: chất lượng kỹ thuât, chất lượng  chức năng. Chất lượng kỹ thuật là sự  chính xác trong kỹ thuật chuẩn đoán và điều trị  bệnh. Chất lượng chức năng bao gồm các đặc tính như: cơ sở vật chất bệnh viện, giao   tiếp với nhân viên y tế, cách thức tổ  chức quy trình khám chữa bệnh mà người bệnh   phải thực hiện, cách thức bệnh viện chăm sóc người bệnh… Với đặc điểm như vậy, trong khi nhu cầu của người bệnh và xã hội ngày càng   phát triển nhưng nếu không có dịch vụ y tế thì việc tính mạng của con người bị đe dọa  và bị cướp đi bởi bệnh tất là điều sớm hay muộn mà thôi. Trước tình hình đó, vấn đề  chăm sóc sức khỏe cho con người được đặt lên hàng đầu. Chăm sóc sức khỏe là một ngành dịch vụ.Trong đó, người cung ứng và người sử  dụng quan hệ với nhau thông qua giá của dịch vụ. Tuy nhiên, không giống các loại hình  dịch vụ khác, chăm sóc sức khỏe có một số đặc điểm riêng. Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở các mức  độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên người ta thường   gặp khó khăn trong chi trả các chi phí không lường trước được. Dịch vụ y tế là loại hàng hóa mà người sử dụng (người bệnh) thường không thể  hoàn toàn tự  mình lựa chọn loại hình dịch vụ  theo ý muốn mà bị  phụ  thuộc rất nhiều  vào bên cung  ứng. Cụ  thể: khi người bệnh có nhu cầu khám chữa bệnh việc điều trị  bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu, hoàn toàn do thầy thuốc quyết định, như vậy,  người bệnh chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị. Mặt khác do dịch vụ y tế là loại hàng hóa   gắn liền với tính mạng con người nên mặc dầu không có tiền nhưng vẫn phải khám   chữa bệnh. Đặc điểm đặc biệt này không giống với các loại hàng hóa khác, với các   loại hàng hóa khác người mua có rất nhiều phương pháp để lựa chọn thậm chí có thể  không mua nếu chưa có khả năng tài chính. Trong cơ chế thị trường để có lợi nhuận tối đa, nhà sản xuất sẽ căn cứ vào nhu   cầu và giá cả thị trường để quyết định sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản  xuất cho ai? Thông qua cơ chế thị trường, các nguồn lực của nền kinh tế tự động phân   bổ một cách tối ưu. Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của   Trang 7
  8. mình, thị trường phải có môi trường cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đầy đủ, và không  bị ảnh hưởng bởi các tác động ngoại lai. Thị  trường y tế  không phải là thị  trường tự  do, trong thị  trường tự  do giá của  một mặt hàng được xác định dựa trên sự  thỏa thuận giữa người mua và người bán.   Trong thị  trường dịch vụ  y tế  không có sự  thỏa thuận này, giá của dịch vụ  y tế  do   người bán quyết định. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ có điều kiện, tức là có sự hạn chế nhất định   đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ y tế. Cụ thể, muốn cung   ứng dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện  nhất định về cơ sở vật chất. Nói một cách khác, trong thị trường y tế không có sự cạnh  tranh hoàn hảo. Bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. như trên đã   trình bày. Trên thực tế, bệnh nhân hiểu biết rất ít về bệnh tật, và các chỉ định điều trị,  do vậy hầu như  người bệnh hoàn toàn phải dựa vào các quyết định của thầy thuốc   trong việc lựa chọn các dịch vụ y tế (cầu do cung quyết định), nếu vấn đề  này không  dược kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tình trạng làm dụng dịch vụ từ phiá cung ứng, đẩy chi   phí y tế lên cao… Đặc điểm của dịch vụ y tế là “hàng hóa công cộng”, vì nó mang tính không cạnh  tranh, mọi người ai cũng có thể  đến các cơ  sở  y tế  để  khám chữa bệnh không phân   biệt bất kỳ ai. Nó cũng không mang tính loại trừ vì tất cả mọi người đều được hưởng  dịch vụ mà không phải mất tiền (như dịch vụ tiêm phòng). Ví dụ  các dịch vụ y tế dự phòng, giáo dục sức khỏe, có lợi cho mọi người dân  trong khi họ  không phải trả  tiền để  mua các loại dịch vụ  này. Chính điều này không  tạo ra được động co lợi nhuận cho nhà sản xuất không khuyến khích được việc cung  ứng các dịch vụ này. Do vậy, để đảm bảo đủ cung, đáp ứng đủ cho cầu cần có sự can   thiệp của nhà nước trong cung ứng các dịch vụ y tế mang tính công cộng. 3.2. Tính nhân đạo Ngành y tế  sử dụng các phương tiện khoa học kỹ  thuật để  can thiệp vào việc   bảo vệ, cứu chữa con người.  ở  các nước có nền kinh tế  phát triển thì sự  can thiệp  Trang 8
  9. bằng các phương tiện kỹ  thuât vào con người ngày càng nhiều hơn. Nếu ngành y tế  không mang tính nhân đạo, không có tinh thần trách nhiệm cao thì dễ gây tử vong cho  con người. Hồ  Chủ  Tịch dă nhắc nhở  cán bộ  ngành y tế  nước ta là “lương y như  từ  mẫu” đối với người bệnh. Đây không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế đối với người  bệnh mà còn là truyền thống, nhân cách của người thầy thuốc Việt Nam. 3.3. Tính công bằng và hiệu quả Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ không có nghĩa là ngang bằng công bằng có  nghĩa là ai cũng có nhu cầu nhiều hớn, còn ngang bằng có nghĩa là mọi người có nhu   cầu ít hay nhiều hơn, có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn nhưng lại ít khả  năng  chi trả. Như  vậy, nói đến công bằng trong y tế  tức là phải có sự   ưu tiên cho vùng   nghèo, người nghèo, người có công với cách mạng, cho các đối tượng thiệt thòi. Quan   điểm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ  nói lên quyền của người nghèo, người có  công với nước phải được chăm sóc, không phải là lòng thương hại, không phải là sự  ban ơn. Công bằng thường đi đôi với đạo đức trong y tế, đòi hỏi trách nhiệm cao của  cán bộ y tế đối với người bệnh, ứng xử với người nghèo cũng như với người giàu. Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, người dân được tạo điều kiện  để  tiếp cận, sử dụng các dịch vụ  y tế  cơ  bản ngay tại cơ sở và coi đó là quyền của   người dân về chăm sóc sức khoẻ. Ngành y tế và các cơ quan chức năng đa nghiên cứu  và xây dựng các chỉ  tiêu trong chắm sóc sức khoẻ  cần đạt được trên các mặt khám   chữa bênh, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em… và phấn đấu thực  hiện nhằm đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong việc cung cấp các sản phẩm dịch  vụ y tế. Công tác y tế  là công tác nhân đạo, việc đảm bảo sức khỏe cho tất cả  mọi   người là trách nhiệm của ngành y và quyền lợi cả mỗi công dân, là quyền được Hiến  pháp Nhà nước ta công nhận, mọi công dân đều được hưởng dịch vụ  y tế  khi có nhu  cầu. Công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân là một dạng công bằng xã hội   nhưng nó khác ở chỗ sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người là bất kể ai cũng có  nhu cầu được chăm sóc một cách tốt nhất. Trang 9
  10. Thuốc và dịch vụ y tê là một loại hàng hóa đặc biệt. Có nhiều loại dịch vụ y tế  là hàng hóa dịch vụ công cộng cộng. Do đó sẽ không có một tổ chức y tế cá nhân nào   có thể  đứng ra cung cấp một cách thường xuyên cho cộng đồng vì khả  năng thu hồi  vốn chậm và không có lợi nhuận. Vì vậy chỉ có nhà nước đại diện cho lợi ích chung cả  cả cộng đồng mới có thể đảm bảo sự công bằng trong việc cung cấp các dịch vụ  này  cho cộng đồng. Đảm bảo công bằng còn góp phần giữ được bản chất nhân đạo của y  tế nước ta, định hướng xây dựng nền y tế xã hội chủ nghĩa. Công bằng trong việc cung cấp các dịch vụ  không phải là cào bằng cho tất cả  mọi người, mà công bằng có nghĩa là phải căn cứ  vào tình trạng bệnh lý của từng   người bệnh mà có mức độ chăm sóc thích hợp, đồng thời tạo cơ hội cho mọi người có   khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế. Do có những đặc điểm của dịch vụ y tế khác với hàng hóa dịch vụ thông thường   khác , vì vậy Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả của các  dịch vụ y tế do các cơ sở y tế cung cấp cho cộng đồng. Hiệu quả của dịch vụ y tế ở đây là nhìn từ góc độ kinh tế, nghĩa là các dịch vụ y   tế phải đảm bảo sao cho chi phí của người dân bỏ ra là tối thiểu mà hiệu quả là tối đa. 4. Khu vực cung cấp dịch vụ y tế 4.1. Khu vực công cộng Khu vực công cộng cung cấp dịch vụ  y tế  chính là nhà nước. Nhà nươc cung  cấp các dịch vụ y tế mà thị trường không thể đáp ứng được hoặc nếu có thì cũng rất ít.  Các dịch vụ được khu vực này cung cấp bằng cách: ­ Xây dựng các bệnh viện phục vụ  người dân. Mọi người đều có thể  đến đó   khám, chữa bệnh và được tư vấn miễn phí về các dịch vụ cần thiết. ­ Tiêm phòng vacxin miễn phí. ­ Cấp phát thuốc miễn phí. ­ Tổ chức, vận động cán bộ, bác sĩ đến những vùng sâu, vùng xa để khám chữa  bệnh. Trang 10
  11. ­ Thường xuyên mở  những lớp tập huấn nâng cao trình độ  chuyên môn cho cá  bác sĩ. ­ Mở những cuộc trao đổi giữa các y, bác sĩ. 4.2. Khu vực tư nhân Khu vực này cung cấp dịch vụ  y tế bằng cách tự  mình mở  các phòng khám để  phục vụ cho mọi người. Tất cả mọi người đếm đây đều được thỏa mãn nhu cầu của  mình. Do đặc điểm của khu vực này là vì mục tiêu lợi nhuận nên giá cả  của những   hàng hóa này cũng mắc hơn so với khu vực công. Nhưng dịch vụ ở đây được cung ứng  một cách nhanh gọn. Người đến đây khám chữa bệnh đều có ấn tượng khá tốt. Về  mặt nhận thức không nên phân biệt về  công hay tư  trong hệ  thống y tế.   Công hay tư chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước về nâng  cao sức khỏe nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, đa sở hữu trong hệ thống khám chữa  bệnh nói chung, hệ thống bệnh viện nói riêng là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng  phân tầng xã hội và thực hiện các cam kết quốc tế với tư cách là một thành viên của   WTO. II. THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ Y TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Tích cực * Về hệ thống bệnh viện: Hệ  thống bệnh viện Việt Nam gồm chủ  yếu là các bệnh viện công (chiếm   93,3%). Các bệnh viện tư bao gồm cả bệnh viện bán công và bệnh viện có vốn đầu tư  nước ngoài mới chỉ chiếm 3,7% bệnh viện và 2,2% giường bệnh trong cả nước. Ngoài  ra còn có 22 bệnh viện đã được cấp phép đang tiến hành xây dựng. Số lượng các cơ sở  y tế ngoài công lập nhiều nhưng quy mô còn nhỏ. Tỷ lệ bệnh viện tư và giường bệnh  tư  của Việt Nam là rất thấp so với các nước trong khu vực như  Thái Lan (30% và  22,5%), Indonesia (42% và 32%), Malaysia (62,4% và 164,4%), Philippin (67% và 50%). Song song với bệnh viện thuộc Bộ  Y tế, còn có bệnh viện do các bộ, ngành  khác quản lý như Quân đội, Công an, Bưu điện, Giao thông, Gang thép, May mặc... Các  bệnh viện này thường là bệnh viện đa khoa và điều dưỡng phục hồi chức năng, chủ  Trang 11
  12. yếu phục vụ  cho cán bộ  công nhân viên của bộ, ngành đó. Quy mô của bệnh viện  thường ở mức trung bình và nhỏ. * Về y tế dự phòng: Đã chốt giữ thành công, qua nhiều năm không để phát sinh những dịch bệnh lớn.   Một số, vụ việc đã xảy ra, nhìn chung đã bao vây, dập tắt kịp thời. Kể cả những loại   dịch bệnh hiểm nghèo như cúm A/H5N1, và cúm A/H1N1… Các chương trình phòng chống bệnh xã hội (sốt rét, phong, lao, uốn ván, bại   liệt…). Có tiến bộ. Các HIV/AIDS, các chỉ  tiêu nhiễm mới, chuyển bệnh AIDS. Tử  vong so với các năm trước đều đã giảm. * Về khám chữa bệnh: Hệ thống Y tế đã đáp  ứng phục vụ  hơn 200 triệu lượt người khám chữa bệnh   hàng năm, (bình quân 2,5 lượt/1 người dân/ năm); hơn 70 triệu người điều trị  nội trú,  (bình quân 8 ngày/ 1 bệnh nhân). Đã chú trọng phát triển nhiều công nghệ  kỹ  thuật cao, ngang tầm khu vực và   quốc tế như: chẩn đoán hình ảnh hiện đại, chẩn đoán phát hiện bệnh sớm, điều trị can  thiệp tim mạch, sọ não, cấy ghép tạng, mổ nội soi, cột sống, thụ tinh ống nghiệm… Gần đây, tại Hà Nội cũng như  TPHCM, nhiều bệnh viện như  Việt Đức, Nhi  trung ương, Bạch Mai, Chợ Rẫy, ĐH Y dược, Từ Dũ... còn giảng dạy cho nhiều khóa  các bác sĩ nước ngoài trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi, hiếm muộn... Kết hợp Y Dược cổ  truyền trên diện rộng, từ  trung  ương  đến địa phương.   Đồng thời ngành Y tế cũng triển khai những chính sách như tổ chức các đợt khám chữa   bệnh miến phí cho nhân dân vùng khó khăn, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng  chính sách, hộ đói nghèo… Ví dụ  như  các chương trình cấp phát thuốc miến phí, chương trình “hiến máu   nhân đạo” nhằm giúp đỡ  những bệnh nhân khó khăn, chương trình “trái tim cho em”  nhằm giúp đỡ những trẻ em nghèo bị tim bẩm sinh mà chưa có điều kiện chưa trị… * Về xây dựng mạng lưới:  Trang 12
  13. Trong những năm gần đây, mặc dù chưa tương xứng với nhu cầu thực tế nhưng   hệ  thống bệnh viện đã được nâng cấp và đầu tư  tương đối đồng đều  ở  tất cả  các  tuyến, về  cơ  sở  hạ  tầng và thiết bị  kỹ  thuật. Nhiều bệnh viện được cải tạo và xây  dựng mới bằng cả  nguồn trong nước và nguồn từ  nước ngoài vào khoảng 1.472 tỷ  đồng/năm, cho cả tuyến trung ương và địa phương . Hệ thống sấy, hấp tiệt trùng, giặt  là được củng cố. Hệ thống xử lý nước thải, chất thải bệnh viện đã được chú ý đầu tư. Nhiều bệnh viện đã phục hồi hệ thống cấp thoát nước và xây dựng các lò đốt   chất thải rắn, góp phần đảm bảo vệ  sinh môi trường và chống nhiễm khuẩn trong   bệnh viện. Ngoài ra, để  đáp  ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của người dân,   nhiều loại thiết bị  kỹ  thuật chuyên ngành hiện đại như: Máy chụp cộng hưởng từ  (MRI), chụp cắt lớp điện toán (CT ­ Scanner), chụp mạch máu, máy tán sỏi ngoài cơ  thể, siêu âm, các thiết bị hồi sức, phẫu thuật, xạ trị mổ nội soi... đã được đầu tư, tạo   điều kiện để các bệnh viện đảm bảo hoạt động và phát triển kỹ thuật . Chúng ta đã sớm hình thành và duy trì khá tốt mạng lưới y tế  rộng khắp cả  nước. Xã có trạm y tế, mỗi thôn, bản có 1­2 nhân viên y tế. Bổ  khuyết cho một số  vùng liên xã diện tích rộng, dân đông, có phòng khám Đa khoa khu vực, (hiện có gần  800 phòng, trung bình mỗi huyện có thêm 1­2 phòng). Tất cả  các huyện đều có bệnh   viện Đa khoa, các tỉnh, thành phố bên cạnh bệnh viện Đa khoa, một số nơi đã có thêm  nhiều ít các bệnh viện chuyên khoa, trước hết là Bệnh viện Y học cổ  truyền, Sản –   Nhi, Ung bướu… Cùng với y tế công lập, những năm gần đây đã phát triểm thêm nhiều cơ sở  Y   tế  ngoài công lập (hiện có 90 bệnh viện tư/ 5600 giường, hàng ngàn phòng khám kết   hợp chữa bệnh, cá hoạt động y tế phi lợi nhuận, thiện nguyện trong và ngoại nước). Nhằm hạn chế chênh lệch số lượng và trình độ thầy thuốc giữa các vùng miền,   đẫ  thực hiện đào tạo  ưu tiên vùng khó khăn (theo địa chỉ, cử  tuyển), đồng thời luân  chuyển đội ngũ chuyên môn cao về cơ sở (đã và đang thực hiện đề án 1816, sắp tới sẽ  xây dựng thành chế đọ trách nhiệm đầy đủ hơn). Trang 13
  14. ­ Biểu hiện chung nhất của thành tựu ngành y tế  chăm sóc bảo vệ  sức khỏe  nhân dân là: +Tuổi thọ trung bình của dân số đạt 72,8 tuổi. +Tỉ  lệ  chết sơ  sinh dưới 1 tuổi (IRM) 15 phần nghìn (so sánh khu vực, ví dụ  Philippine có mức GDP đầu người gấp 4 lần nước ta, song tuổi thọ đạt thấp hơn: 71  tuổi nữ và 65 tuổi nam, IRM cao hơn: 25 phần nghìn. * Công tác dược và trang thiết bị y tế: Coi trọng nhập khẩu những mặt hàng chất lượng cao, đồng thời tích cực phát  triển sản xuất trong nước. Về  Dược, đến nay sản xuất trong nước đã đáp  ứng được 50%. Một só loại  thuốc, vaccine có thương hiệu xuất khẩu. Về trang thiết bị, sản xuất trong nước đã có nhiều cố gắng, đến nay đã tạo lập  được hơn 600 loại thương phẩm lưu hành… 2. Hạn chế * Hệ thống bệnh viện: Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, hệ thống bệnh viện, cơ sở vật chất y tế  ở  nước ta đã  ở  trong tình trạng quá tải từ  hơn một thập niên qua. Thật ra phải nói là   “khủng hoảng” thì mới đúng, vì  ở  bất cứ  tỉnh, thành hay địa phương nào, công suất  giường bệnh tại các bệnh viện đều trên 100%. Tình trạng hai hay ba bệnh nhân cùng   nằm một giường, hay phải nằm dưới sàn, ghế bố, phổ biến đến nỗi các bác sĩ xem đó   là chuyện bình thường! Trên bình diện vĩ mô, nguyên nhân chính của tình trạng này là  do cơ  sở vật chất của ngành y tế  không tăng trong một thập niên qua. Thật vậy, theo   thống kê của Bộ Y tế, năm 1997 cả nước có khoảng 198.000 giường bệnh, nhưng đến  năm 2005, con số này giảm xuống còn 197.000. Trong khi đó, dân số tiếp tục gia tăng,   và hệ  quả  là số  giường bệnh tính trên 10.000 dân giảm từ  26,6 năm 1997 xuống còn  23,7 năm 2005. Tình trạng quá tải bệnh nhân sẽ làm chất lượng khám chữa, chăm sóc  người bệnh tại bệnh viện bị   ảnh hưởng. Ngoài ra môi trường bệnh viện cũng dễ  bị  nhiễm khuẩn hơn. Đáng lưu ý, tình trạng quá tải cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều  Trang 14
  15. tiêu cực trong ngành y như: vòi vĩnh, hạch sách người bệnh và nguy cơ  mất an ninh   trong bệnh viện… Theo khảo sát thì chất lượng y tế ở nước ta hầu hết không đáp ứng nhu cầu của   người dân. Nhưng nói đến chất lượng ở đây là nói đến khía cạnh gì? Trong y tế, cụm   từ  “chất lượng” đề  cập đến các khía cạnh chăm sóc sức khỏe liên quan đến: thực   phẩm cho bệnh nhân; môi trường bệnh viện (bàn ghế, tủ, giường, độ  sạch sẽ, ánh   sáng); dịch vụ chuyên môn (y khoa, điều dưỡng, thiết bị); tiện nghi phòng (riêng tư, giờ  thăm bệnh, tiện nghi); phục vụ  cá nhân (riêng biệt, thông tin, chú ý đến nhu cầu cá  nhân); và sự đáp ứng của hệ thống cấp cứu khi có sự cố. Các khía cạnh này có thể phát  triển thành những “chỉ  tiêu” cụ  thể  để  đo lường chất lượng bệnh viện. Ngoài những   chỉ  tiêu định tính, còn có một chỉ  tiêu quan trọng nhất: đó là tỷ  lệ  tử  vong trong vòng   hay sau khi xuất viện 30 ngày… Chính vì lý do trên mà nhiều bệnh nhân đã chấp nhân chịu mức chi phí cao để ra  nước ngoài hay dịch vụ  khám chữa bệnh tư  để  điều trị. Về  điều này, tiến sĩ Dương   Đức Hùng, Viện tim mạch quốc gia (Hà Nội) cho rằng, với điều kiện hiện nay, dù biết  mười mươi mất một khoản tiền lớn nhưng các bệnh viện trong nước cũng không thể  lôi kéo được những người muốn chạy ra nước ngoài, khi mà 3 bệnh nhân một giường,  100 bệnh nhân chung nhau một toilet... * Hoạt động chuyên môn:  Bên cạnh đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao, lòng nhiệt tình, tâm huyết  với nghề thì cũng có không ít các y, bác sĩ trình độ chuyên môn còn hạn chế. Hàng năm,   ở  nước ta vẫn tồn tại những trường hợp bác sĩ để  quên dụng cụ  mổ  như: gạc, dao,  kẹp, forcep…trong người bệnh nhân và cũng không ít trường hợp bác sĩ kê nhầm đơn   thuốc cho bệnh nhân để lại những hậu quả khó lường. Và gần đây nhất là các vụ việc liên quan đến phòng khám Maria. Xung quanh vụ  việc này có rất nhiều mâu thuẫn mà thực sự  chưa được giải quyết một cách triệt để  gây ra tâm lý hoang mang cho người dân. Các y, bác sĩ làm việc trong khi chưa có  chứng nhận hành nghề và được cấp phép hoạt động và chúng ta đã vô tình giao mạng  sống của mình cho những họ, những người ngoại quốc và không ai có thể khẳng định   Trang 15
  16. được trình độ  chuyên môn của họ  là như  thế  nào? Hay như  trong thời gian vừa rồi,   khoảng nửa đầu năm 2012, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều các ca sản phụ  tử  vong mà  vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính đáng nhằm củng cố niềm tin của nhân dân. Ngoài ra, còn rất nhiều các trường hợp liên quan đến khả năng, trình độ chuyên   môn của y, bác sĩ. “sai một ly, đi một dặm”, nhiều khi tính mạng của bệnh nhân phụ  thuộc rất nhiều tay nghề và khả năng của đội ngũ của y, bác sĩ. * Thái độ phục vụ nhân dân: Hầu hết những ai đã từng đến bệnh viện đầy có thể  cảm nhân được thái độ  phục vụ của đội ngũ các y, bác sĩ đối với bệnh nhân như thế nào? Một bệnh nhân đến bệnh viện và đã chia sẻ: “Tháng 2 vừa qua tôi có đi nuôi mẹ  ở  bệnh viện Thống Nhất trước là bệnh viện Thánh Tâm, quốc lộ  1. Vô đó thấy rất   bức xúc. Thái độ  của y bác sĩ tại đây rất thờ   ơ  trước sinh mạng của con người. Họ  không có lương tâm. Khi đưa người cần cấp cứu vì tai nạn giao thông vào, mặt mày   bệnh nhân máu me mà những người trong phòng trực cấp cứu vẫn ngồi ngoài bàn thờ  ơ  như  không có chuyện gì, vì họ  chờ  tiền. Không có tiền đóng là họ  không cấp cứu,  nằm đó chờ chết thôi. Người ta bị tai nạn đáng lý không chết, nhưng vô bệnh viện gặp  bác sĩ không có lương tâm thì phải chết thôi. Không ai hướng dẫn cho mình biết phải  đem nạn nhân đang cần cấp cứu đó vào phòng nào”. Qua đây chúng ta có thể hiểu thái   độ của y, bác sĩ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý chung của bệnh nhân dẫu biết rằng  các bác sĩ cũng phải chịu đựng áp lực công việc vô cùng lớn. Một bác sĩ mà một buổi   sáng phải khám 100 bệnh nhân thì không thể  nào đảm bảo được chất lượng về  giao  tiếp cũng như  tâm lý tiếp xúc. Mỗi bệnh nhân chỉ  được khám từ  2 tới 5 phút thôi.  Trong điều kiện như vậy rất khó để thỏa mãn tâm lý tiếp xúc với người bệnh. Thật ra  một người bệnh cần ít nhất nửa tiếng để  thể  hiện hết các nỗi lo của mình. Với thực   tế  tại Việt Nam hiện nay, chắc chắn ai cũng có bức xúc. Chính sự  bức xúc tạo ra  những sự  mâu thuẫn, nhưng bác sĩ không có cách nào làm khác hơn. Tâm lý tiếp xúc  không được thoải mái sẽ   ảnh hưởng tới bệnh. Có bệnh mà phải bị  ngồi chờ  sẽ  cảm   thấy mệt mỏi, gây ra bệnh nặng hơn.  Trang 16
  17. Do vậy, với những người có điều kiện họ đa chọn cho mình giải pháp tốt hơn là   đến các dịch vụ khám chữa bệnh tư, hoặc ra nước ngoài nơi mà có điều kiện cung cấp   dịch vụ một cách tốt hơn. Ta có thể nhận thấy thái độ  và y đức của nhân viên y tế   ảnh hưởng rất nhiều  đến tâm lý khám, chữa bệnh của người dân. Nhiều người cho rằng do phải trả chi phí  khám chữa bệnh cao hơn nên lâu nay “cách đối xử” với người bệnh của đội ngũ y bác  sĩ  ở  các bệnh viện tư  nhân, bệnh viện nướ  ngoài tốt hơn bệnh viện công lập, bệnh  viện trong nước. Cũng vì lý do này, gần đây nhiều người “bỏ” bệnh viện công lậpở  trong nước sang khám chữa bệnh ở  bệnh viện nước ngoài mặc dù chi phí điều trị  rất  tốn kém. Chuyện thái độ  phục vụ  “công” kém hơn “tư” thực ra đã phổ  biển  ở  nhiều   ngành nghề, nhưng với tâm lý của người  ốm đau, việc lựa chọn “tư” để  được chăm   sóc, động viên cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, nhiều người lại đặt câu hỏi, nguyên do  của sự “chênh lệch” này ngoài chuyện tiền bạc thì còn vấn đề gì khác? Phải chăng đội   ngũ y bác sĩ ở bệnh viện công trong nước chịu nhiều áp lực từ  công việc, hay do cách   quản lý ở cơ sở “công” kém hiệu quả? Trong khi đó, đội ngũ y bác sĩ ở các bệnh viện   công đua nhau mở phòng mạch riêng. Điều đáng nói là khi bệnh nhân khám, điều trị  ở  phòng mạch thì được bác sĩ chăm sóc ân cần, còn khi đến cơ sở công thì ngược lại. * Đội ngũ các y, bác sĩ phân hóa không đồng đều giữa các vùng miền: Như  chúng ta đã biết thì Hà Nội và Thành phố  Hồ  Chí Minh là hai đô thi trung  tâm của cả  nước. Điều kiện kinh tế  xã hội ở  đây cũng khá phát triển. Tại đây có rất   nhiều các hệ thống bệnh viện quốc gia, đội ngũ y, bác sĩ có tay nghề cao, trang thiết bị  hiện đai nên rất nhiều bệnh nhân bệnh năng muốn điều trị bệnh phải xuống các thành   phố này dẫn đến tình trạng quá tải bệnh viện, bệnh nhân phải xếp hàng, chờ đợi đến  lượt khám, giường bệnh thì 2, 3 người nằm chung… Trong khi ở các địa phương cơ sở  thì lại thiếu y, bác sĩ lành nghề trầm trọng, cơ sở vật chất đơn sơ…  Vấn đề  quá tải diễn ra  ở  hầu hết các bệnh viện trung  ương vì sự  tập trung  không đồng đều. Tất cả  người dân đều tập trung hết lên các bệnh viện tuyến thành  phố  trong khi bệnh viện  ở  tuyến tỉnh và huyện lại rất trống. Ai từng đến các bệnh   viện đều thấy chuyện bệnh nhân nằm ở hành lang chật đến nỗi bác sĩ không có đường  Trang 17
  18. đi. Nếu họ không nằm hành lang phải chấp nhận nằm 2, 3 bệnh nhân một giường thì  bệnh có thể  truyền nhiễm từ  người này sang người kia. Có những trường hợp lây  nhiễm chéo đã xảy ra. Ví dụ  như  các huyện vùng cao phía tây tỉnh Nghệ  An như  Tương Dương, Kỳ  Sơn, Quế  Phong, Quỳ  Châu, Tân Kỳ, Con Cuông kinh tế  chậm phát triển, đời sống  người dân còn hết sức khó khăn. Mạng lưới y tế  khu vực này còn không ít khó khăn,   bất cập. Bác sĩ thiếu về số lượng và yếu về năng lực, cho nên chất lượng khám, chữa   bệnh tại một số  trạm y tế  và cả  bệnh viện đa khoa huyện còn nhiều hạn chế. Như  vấn đề chuyển giao các kỹ thuật mới và khó từ tuyến trên về tuyến dưới còn chậm và   lúng túng; việc giải thích, tư vấn cho người bệnh và người nhà chưa thấu đáo khi phải  chuyển tuyến, thái độ y đức kém của một bộ phận cán bộ  nhân viên chưa được khắc   phục. Nghệ  An hiện có 479 xã, trong khi số  bác sĩ là người địa phương chỉ  có 290   người. Ðáng chú ý, phần lớn các huyện miền núi vùng cao, số xã đạt chuẩn quốc gia   về  y tế  đến nay mới chiếm 25 đến 30%. Ðây cũng là yếu tố  giải thích vì sao  ở  các   huyện Con Cuông, Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong... tỷ lệ trẻ trong độ tuổi bị suy   dinh dưỡng còn ở mức 24 đến 28% (cả nước là 18%). Trong nhiều biện pháp để khỏa lấp sự chênh lệch giữa đồng bằng và miền núi,   thì việc tiếp tục tăng cường đưa bác sĩ từ tuyến trên về công tác tại tuyến dưới; đồng  thời có cơ chế định kỳ luân chuyển bác sĩ công tác ở xã về huyện để có điều kiện cập   nhật kiến thức, phục vụ tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân là   việc làm cần thiết để duy trì, phát huy và thực hiện một cách hiệu quả hơn. * Tham nhũng “phủ sóng” toàn ngành y tế: Theo báo cáo của Thanh tra Bộ Y tế, những biểu hiện tham nhũng trong ngành Y   tế Việt Nam khá đa dạng “phủ sóng” trên cả 3 lĩnh vực: Quản lý nhà nước, dịch vụ tại  cơ sở khám chữa bệnh và Quản lý bảo hiểm y tế. Cụ thể còn là các cơ sở khám chữa  bệnh chưa thực hiện đúng các chế  độ  thanh toán chi phí điều trị  Bảo hiểm y tế, còn   các hiện tượng lợi dụng chính sách miễn, giảm viện phí cho người ngheo, trẻ em dưới   6 tuổi... để  chi sai chế độ. Thậm chí còn có hiện tượng cán bộ, nhân viên lấy thuốc,  vật tư của nhà nước đem ra thị trường bán rồi chia nhau tiền. Trang 18
  19. Trước tình trạng quá tải đối với các cơ sở khám chữa bệnh, một số nhân viên y   tế đã có biểu hiện vòi vĩnh, nhũng nhiễu để nhân phong bì người bệnh... nguyên nhân   là do cán bộ y tế thiếu tinh thần thái độ phục vụ  bệnh nhân đã gây nên bức xúc và có  đơn thư khiếu kiện. Những biểu hiện tham nhũng trong ngành y tế   ở  nước ta là: hoa hồng từ  giá  thuốc, trục lợi từ  Quỹ  bảo hiểm Y tế, tham nhũng trong thực hiện “xã hội hóa” các   dịch vụ y tế tại các bênh viện công, vòi vĩnh bệnh nhân, tham nhũng trong quá trinh cấp  phép, quản lý không hiêu quả tài sản của các bệnh viện công hoặc các nguồn viện trợ,   cán bộ y tế lạm dụng chức quyền, tham nhũng trong quản lý nhân sự… Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng nặng nề, phổ  biến  trong ngành Y tế Việt nam như: tình trạng quá tải, thiếu năng lực quản lý, thiếu hành  lang pháp lý, y đức không tốt, thanh tra kém hiệu quả, chế độ đãi ngộ chính thức thấp.  Trong đó, nguyên nhân cốt lõi là thiếu hành lang pháp lý còn nhiều sơ hở, chưa đáp ứng   được yêu cầu quản lý nhà nước về y tế. Ông Jairo Alfaro đến từ  chương trình phát triển Liên hợp quốc đã phát biểu:  “Nếu xem tham nhũng là một căn bệnh thì ngành Y tế Việt Nam hiện đang bị ốm”. III. NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC CUNG  ỨNG DỊCH VỤ  Y TẾ   Ở  NƯỚC   TA 1. Nguyên nhân khách quan * Điều kiện phát triển kinh tế:  Nước ta vẫn còn là nước nghèo. Tăng trưởng chưa bền vững. Khủng hoảng  kinh tế toàn cầu chưa có điểm dừng, tác động đến Việt nam cũng chưa thể định lượng  hết. Chấp nhần mô hình phát triển kinh tế thị  trường, song chúng ta luôn nhấn mạnh  “định hướng xã hội chủ  nghĩa”. Biểu hiện đặc trưng là: nhu cầu chăm sóc sức khỏe  (cả Y tế dự phòng và khám chữa bệnh) đòi hỏi cao, song nguồn lực rất hạn hẹp. Phân   tầng xã hội, chênh lệch giàu nghèo roãng rộng (theo vùng miền, nhóm dân cư) song đòi  hỏi dịch vụ y tế công bằng, ưu tiên các đối tượng chính sách, dân tộc thiểu số, người   nghèo. Trang 19
  20. Hiểm họa tự  nhiên: đất nước chúng ta nằm trong vùng có điều kiện tự  nhiên  khắc nghiệt. Thiên tai, bão lũ xảy đến thường xuyên, mỗi năm tần xuất thêm dày hơn,   tai họa lớn hơn. Thập niên gần đây, thêm phát sinh biến đổi khí hậu, đã và đang trở  thành một nguy cơ cực lớn của toàn cầu. Những yếu tố đó đã tác động trược tiếp đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội,  kể cả là nguyên nhân phát sinh nhiều loại dịch bệnh cũ và mới, gây tai nạn thương tích  trên diện rộng. * Sự chuyển đổi mô hình bệnh tật:  Nước ta đang trong giai đoạn phấn đấu thoát nghèo, chúng ta phải đối mặt vừa   mô hình bệnh tật của nước nghèo (dịch lây nhiễm chiếm tỷ  trọng lớn), vừa mô hình   bệnh tật của nướ giàu – phát triển (bệnh không lây nhiễm chiếm tỷ trọng lớn). Phạm vi cả nước, tính số mắc bệnh, nếu năm 1976 tỷ lệ bệnh lây nhiễm chiếm  55,5%, bệnh không lây nhiễm chiếm 44,7% thì đến năm 2007 đã chuyển đổi bệnh lây  chỉ 25,7%, bệnh không lây tăng đến 60,7%, gấp hơn 3 lần. Cùng lúc, nhóm tai nạn, ngộ  độc, chấn thương từ 1,8% tăng vọt lên 13,6%, gấp hơn 7 lần. Theo đó, quan sát chia nhỏ  các vùng miền, nhóm dân cư, thấy rõ những diễn  biến đan xen nhiều vẻ, phức tạp. Ngay năm 2009, chúng ta đã phải đối mặt với 3 dịch lớn, trong đó: dịch tả, sốt   xuất huyết là những bệnh lây, thuộc mô hình nước nghèo, đại dịch cúm A(H1N1) lại là   một trong những loại bệnh mới nổi, khởi phát từ những nước giàu… * Toàn cầu hóa và bệnh tật: Toàn cầu hóa không chỉ mang nội dung hoạt động kinh tế, mà đã gây ảnh hưởng   sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội, kể cả lĩnh vực y tế. Giao lưu hàng hóa, thương phẩm tăng lên, trong đó có những lô hàng không đạt  tiêu chuẩn an toàn, thực tế  đã là tác nhân truyền lan nguồn bệnh. Vụ  nhiếm độc sữa  Meelamin phát sinh từ Trung Quốc như một ví dụ điển hình, bệnh tật nguy cơ tiềm ẩn   ngay cả đối với những trẻ em mới lớn. Tiếp theo, thế giới còn liên tiếp phát hiện thêm  nhiều vụ hàng hóa chứa độc tố, từ thực phẩm đến quần áo, giày dép, đồ chơi con trẻ...   Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1