Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
lượt xem 25
download
Bài tiểu luận trình bày sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta đồng thời sẽ chỉ ra cho mọi người thấy được thực trạng của vấn đề vệ sinh môi trường ở nước ta hiện nay như thế nào để rồi cùng đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm ngăn chặn cũng như là để bảo vệ cảnh quan đô thị, cảnh quan nông thôn hay nói theo cách khác thì là bảo vệ chính môi trường sống của tất cả chúng ta…
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
- Trang 1
- LỜI MỞ ĐẦU Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản suất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản suất, phế thải xây dựng, dịch vụ và phế thải sinh hoạt do con người thải ra… Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng qua hơn 20 năm đổi mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp xang cơ chế thị trường. Những thành tựu quan trọng đạt được về kinh tế xã hội đã chứng minh tinh đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Mọi tiềm năng ẩn dấu trong các thành phần kinh tế đã được khai thác; các nguồn lực của tự nhiên cũng đã được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng cao. Nhờ đó vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường cũng được an toàn hơn khi có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, giảm dần những tác hại xấu ảnh hưởng đến môi trường ảnh hưởng đến con người… Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thực hiện cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhung do chưa kết hợp chặt chẽ với vấn đề bảo vệ môi trường nên cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường. Nhiều loại tài nguyên môi trường như: đất, nước, không khí, rừng… đã bị ô nhiễm, suy kiệt đến mức báo động, gây tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Đặc biệt là tại các thành phố lớn, những nơi tập trung đông dân cư, các khu công nghiệp vấn đề vệ sinh môi trường luôn là những vấn đề cấp bách và luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của đông đảo người dân. Với việc tìm hiêu và nghiên cứu về đề tài cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường nhóm sinh viên chúng tôi sẽ cho bạn đọc thấy được sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta đồng thời sẽ chỉ ra cho mọi người thấy được thực Trang 2
- trạng của vấn đề vệ sinh môi trường ở nước ta hiện nay như thế nào để rồi cùng đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm ngăn chặn cũng như là để bảo vệ cảnh quan đô thị, cảnh quan nông thôn hay nói theo cách khác thì là bảo vệ chính môi trường sống của tất cả chúng ta… NỘI DUNG CHÍNH I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Lý luận chung về cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường Dịch vụ công (từ tiếng Anh là "public service") có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính cơ bản như: a. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó; b. Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác; c. Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thỉ những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này. Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến Trang 3
- hànhcung ứng các dịch vụ ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm hoặc cả tư nhân và nhà nước cùng đảm nhiệm cung cấp. Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế xã hội (như tạo việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã hội,...). Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vục công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan Nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Tuy vậy, ở mỗi nước lại có nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ở Pháp, khái niệm dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh thần và sức khoẻ của người dân (như giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao… thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường,... thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công, bao gồm hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch,… mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng… còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện. Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước. Tức là Nhà nước không độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái lại Nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho khu vực phi nhà nước thực hiện. Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một Trang 4
- phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường. Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động dịch vụ của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ những nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội. 2. Đặc điểm của dịch vụ công Mặc dù các dịch vụ công rất đa dạng và phong phong phú cả về hình thức và tính chất nhưng cũng đều mang một số đặc điểm sau: Dịch vụ công mang tính xã hội là dịch vị phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cả cộng đồng, phục vụ các đối tượng xã hội một cách công bằng, không hướng tới phục vụ một nhóm hay một cá nhân cá biệt trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công để đảm bảo quá trình cung ứng dịch vụ công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của các công dân và xã hội. Việc cung ứng dịnh vụ công có thể do cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan công quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà nước có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước. Cung ứng dịch vụ công không hoàn toàn diễn ra theo quan hệ thị trường. 3. Các loại dịch vụ công Dựa vào cách phân loại dịch vụ và xét theo lĩnh vực cung ứng dịch vụ công có thể chia dịch vụ công thành các loại như sau: 1/ Dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp. 2/ Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích. Trang 5
- 3/ Dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích lại bao gồm các mảng như : Dịch vụ giao thông công cộng; Dịch vụ cung cấp điện; Dịch vụ cung cấp nước sạch; Dịch vụ vệ sinh môi trường; Dịch vụ khuyến nông lâm ngư thủy lợi. Vậy dịch vụ công ích là gì? Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: dịch vụ vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai... chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyên rác thải ở một số đô thị nhỏ, cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn… Như vậy thì ta đã biết được rằng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là nằm trong dịch vụ công trong lĩnh vực công ích. Vậy để hiểu rõ hơn nữa nhóm chúng tôi sẽ trực tiếp đi vào tìm hiểu phần cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường. 4. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường 4.1. Các khái niệm * Môi trường là gì? Theo Luật bảo vệ môi trường của nước ta ban hành ngày 10/1/1994 thì môi trường được đĩnh nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người ,có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. * Vệ sinh môi trường là gì? Vệ sinh môi trường là việc gìn giữ ,duy trì và đảm bảo môi trường sống xung quanh chúng ta. Trang 6
- * Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là gì? Theo từ điển: Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại: Dịch vụ là những hoạt động mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội. Vậy cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường chính là những hoạt động cung cấp các dịch vụ cần thiết có liên quan đến lĩnh vực vệ sinh môi trường nhằm đem lại cho con người và các hoạt động kinh doanh sản xuất có một môi trường đảm bảo để tồn tại và phát triển. 4.2. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường bao gồm những mảng sau: Dịch vụ thu gom xử lý chất thải, rác thải, nước thải. Dịch vụ cảnh quan môi trường. Việt nam đang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm qua. Cùng với tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh, mạnh vấn đề quản lý rác thải, chất thải trong đó có rác thải nói chung, chất thải rắn ở đô thị, chất thải công nghiệp và một số nghành khác nói riêng, đặc biệt là chất thải độc hại, nguy hiểm, đang là những vấn đề nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khỏe của người dân. 4.3. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường và công tác vệ sinh môi trường Đảng và nhà nước ta chỉ rõ bảo vệ môi trường và công tác vệ sinh môi trường là một trong những vẫn đề sống còn của nhân loại là nhân tố đẩm bảo sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan điểm và định hướng của đảng và nhà nước về vấn đề môi trường: * Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức Trang 7
- bảo vệ môi trường. Công tác vệ sinh môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước. * Tổ chức kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 41NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường; xác định rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiên tôt cac nhiêm vu trong Ngh ̣ ́ ́ ̣ ̣ ị quyết 41 và Chi thi nay; đ ̉ ̣ ̀ ưa nội dung kiểm điểm công tác bảo vệ môi trường vào báo cáo tổng kết, đánh giá định kỳ của cơ quan, đơn vị. * Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là các chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế, nghiên cứu khoa học; chấm dứt nạn đổ phế liệu, xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, hồ ao. Thu gom và xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các biện pháp thích hợp; ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng, hạn chế tối đa việc chôn lấp. Xử lý dứt điểm các cơ Trang 8
- sở gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. * Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước. * Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo Trang 9
- vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường. * Nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, dự báo, cảnh báo về tài nguyên, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Tăng cường sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta Cùng với quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các thành công thì Việt Nam cũng đang đối mặt với các vấn đề môi trường nảy sinh, đặc biệt là sự xuống cấp của chất lượng môi trường. Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đang diễn ra gay gắt với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn về kinh tế và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác. Yêu cầu cấp thiết đang đặt ra là cần phải phát triển dịch vụ môi trường để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực về môi trường nảy sinh. Thực tế cho thấy, thời gian qua Nhà nước vẫn đang phải dành một nguồn kinh phí không nhỏ nhằm hỗ trợ các hoạt động về bảo vệ môi trường. Đây không chỉ là đòi hỏi yêu cầu tự thân trong nước do những hệ quả không mong muốn từ mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam đang thực hiện. Mà thông lệ quốc tế với những đòi hỏi khắt khe phải cam kết thực hiện ngày càng nhiều hơn các quy định quốc tế về môi trường… cũng là hướng chúng ta phải thực hiện. Đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ môi trường ở 5 phân ngành trong WTO (Dịch vụ Trang 10
- xử lý nước thải; Dịch vụ xử lý rác thải; Dịch vụ làm sạch khí thải; Dịch vụ xử lý tiếng ồn và Dịch vụ đánh giá tác động của môi trường). Do vậy, phát triển dịch vụ môi trường đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết ở Việt Nam. Nhu cầu này mang tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay. Trong khi đó, lĩnh vực dịch vụ môi trường nước ta còn kém phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, năng lực cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ còn thấp, khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện, thị trường dịch vụ môi trường mới manh nha, phân tán, mức độ độc quyền còn cao, Nhà nước vẫn phải bao cấp lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường… Trong bối cảnh đó, việc định hướng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường sẽ một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi trường trong nước có đủ thời gian và những lợi thế để phát triển, mặt khác thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ kinh nghiệm để bổ sung nguồn lực phát triển lĩnh vực này. 2. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam 2.1. Chủ thể cung ứng dịch vụ Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công để đảm bảo quá trình cung ứng dịch vụ công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của các công dân và xã hội. Việc cung ứng dịnh vụ công có thể do cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan công quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà nước có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước. 2.2. Chất lượng cung ứng dịch vụ Theo yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường 2005, tất cả các loại hình chất thải từ mọi loại nguồn thải đều phải được xử lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên phần lớn chất thải ở nước ta hiện nay chưa tuân thủ được yêu cầu này và nhu cầu phát triển các dịch vụ môi trường là rất lớn bao gồm xử lý nước thải, rác thải, khí thải, Trang 11
- tiếng ồn từ các nguồn thải sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhu cầu xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại Theo Báo cáo diễn biến môi trường 2004, mỗi năm tại Việt Nam có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Khoảng hơn 80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%). Khoảng 160.000 tấn/năm (chiếm 1%) trong tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở Việt Nam được coi là chất thải nguy hại. Năm 2008, lượng chất thải rắn khoảng 28 triệu tấn, năng lực quản lý chất thải rắn còn rất nhiều hạn chế với tỷ lệ thu gom đạt 6570% trên cả nước, các đô thị đạt 8082%, phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, tỷ lệ chất thải được xử lý hợp vệ sinh đạt 26%, tỷ lệ tái sử dụng tái chế 20%, số doanh nghiệp có thiết bị xử lý 1020%. Trong khi năng lực quản lý còn nhiều hạn chế thì lượng chất thải rắn tiếp tục được dự báo sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới. Dự báo đến 2020, lượng chất thải rắn có thể đạt 6570 triệu tấn. Do vậy trong hiện tại và tương lai, đây cũng là một loại hình dịch vụ môi trường có nhiều cơ hội phát triển. * Nhu cầu xử lý nước thải: Theo tính toán của Báo cáo hiện trạng môi trường 2005, hàng ngày có khoảng 3.110.000 m3 nước thải sinh hoạt đô thị, nước thải bệnh viện và nước thải sản xuất từ các khu công nghiệp thải trực tiếp vào nguồn nước mặt, trong đó chiếm phần lớn là nguồn nước thải sinh hoạt 64%, nước thải sản xuất chiếm 32% và nước thải bệnh viện vào khoảng 4% . Nhìn chung hiện nay, vấn đề xử lý nước thải, công tác quản lý xây dựng các công trình xử lý nước thải còn khá mới, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ môi trường trong lĩnh vực này còn rất lớn. Tỷ lệ lượng nước thải được xử lý mới chỉ đạt 10%. Mới chỉ có khoảng 46% số khu công nghiệp, 26% khu đô thị (loại 4 trở lên) đã và đang lắp đặt hệ thống xử lý nước thải. Nhu cầu sẽ tập trung vào các hệ thống xử lý nước thải, các thiết bị xử lý, và các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn, thiết kế, đào tạo tập huấn, quan trắc môi trường cũng như vận hành quản lý… * Nhu cầu xử lý khí thải và làm giảm tiếng ồn: Trang 12
- Nhu cầu xử lý khí thải ở nước ta rất lớn. Theo báo cáo môi trường toàn cầu, năm 2006, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong số 10 thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới. Những khu vực ô nhiễm không khí nhiều nhất là các đô thị lớn, các khu công nghiệp và các làng nghề truyền thống. Trong tương lai, khi Chính phủ có những quy định chi tiết hơn và có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn về khí thải sản xuất công nghiệp và khí thải từ các phương tiện giao thông thì sẽ có nhiều cơ hội cho sự phát triển của các dịch vụ liên quan như cung cấp các thiết bị xử lý ô nhiễm khí thải công nghiệp, cung cấp bộ lọc khí thải cho phương tiện giao thông, kiểm soát nồng độ khí thải… Thời gian trước đây, dịch vụ môi trường được xem là một loại dịch vụ công nên chỉ có nhà nước độc quyền thực hiện. Tuy nhiên gần đây, do thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, tại nước ta đã xuất hiện các công ty tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã, viện trường trung tâm nghiên cứu tham gia cung ứng dịch vụ môi trường. Ngoài ra, các hoạt động hợp tác quốc tế cũng huy động được sự hỗ trợ của nước ngoài vào thực hiện các dịch vụ môi trường. * Đối với khu vực nhà nước: Nhìn chung, ở mỗi tỉnh và thành phố đều có một số công ty phụ trách về môi trường trên địa bàn tỉnh, dưới đó là các công ty cấp quận, huyện. Tùy từng địa phương mà cơ cấu tổ chức khác nhau. Tại một số địa phương, các công ty vệ sinh môi trường, công ty cấp nước sạch, công ty cấp thoát nước đều thuộc khối doanh nghiệp công ích và trực thuộc Sở Giao thông công chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố. Dù là trực thuộc dưới một đơn vị chủ quản nào, các đơn vị dịch vụ môi trường đều được cấp một khoản kinh phí hàng năm từ ngân sách Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ dịch vụ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố. Các hoạt động được thực hiện chủ yếu là đầu tư cho hệ thống hạ tầng môi trường như cấp thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn. * Đối với khu vực tư nhân: Trang 13
- Tính đến nay khu vực tư nhân đã tham gia cung ứng vào nhiều lĩnh vực dịch vụ vệ sinh môi trường với nhiều mức độ khác nhau như cấp thoát nước, xử lý nước thải, khí thải, thu gom rác thải, hoạt động tư vấn, thiết kế... 40% lượng rác thải tại TP Hồ Chí Minh được thu gom bởi các công ty tư nhân. Việc các nhà đầu tư tư nhân tham gia ngày càng nhiều vào dịch vụ môi trường là một xu hướng tích cực, phù hợp yêu cầu xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn trong triển khai, ứng dụng vì nhiều lý do: năng lực tài chính của các doanh nghiệp tư nhân có hạn, Nhà nước lại chưa có những chính sách cụ thể nhằm tạo mọi điều kiện, nhất là về nguồn vốn, vì thế các doanh nghiệp phải vừa triển khai ứng dụng, vừa hoàn thiện, chưa đủ cơ sở để thuyết phục các địa phương tự bỏ vốn hoặc vay vốn xây dựng nhà máy. 2.3. Các quy định pháp lý về nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ môi trường ở nước ta Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 về nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có nêu rõ nhiệm vụ “Đẩy mạnh công tác xã hội hoá bảo vệ môi trường”. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến 2020 được phê duyệt bởi Quyết định 256/2003/QĐTTg ngày 02/12/2003, là văn bản quan trọng đưa ra những định hướng lớn về công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, Chiến lược nhấn mạnh đến nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường là một trong 8 giải pháp chính để thực hiện Chiến lược. Luật Bảo vệ môi trường 2005 đề cập đến khía cạnh xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường trong toàn bộ văn bản Luật và dịch vụ môi trường được đưa ra trong Điều 116 (chương XI) về phát triển dịch vụ bảo vệ môi trường. Theo đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường để thực hiện các hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường thông qua hình thức đấu thầu. Trang 14
- Quyết định số 249/QĐTTg về việc phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 do Thủ tướng chính phủ ký ngày 10/2/2010, là quan trọng về dịch vụ môi trường. Mục tiêu của Đề án là phát triển dịch vụ môi trường để cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Ở cấp địa phương, mỗi tỉnh/thành phố đều đã ban hành quy chế bảo vệ môi trường trong đó có quy định về nguồn lực bảo vệ môi trường. Một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, đã thực hiện các cơ chế chính sách nhằm mở rộng xã hội hoá trong lĩnh vực dịch vụ môi trường và đã thử nghiệm một số mô hình cung cấp dịch vụ môi trường phi nhà nước. Nói tóm lại, cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho các hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và dịch vụ môi trương nói riêng. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho thị trường dịch vụ môi trường phát triển như các quy định về đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, v.v… Tuy nhiên, các chính sách hiện nay còn tản mạn, chưa có tính hệ thống và thiếu nhất quán. Việc xây dựng bổ sung các quy định cụ thể hơn là rất cấp thiết, cụ thể là các quy định về phạm vi những lĩnh vực dịch vụ môi trường cần xã hội hoá và mức độ xã hội hoá, kế hoạch và lộ trình xã hội hoá, các cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phi Nhà nước tham gia đầu tư cung cấp hàng hoá. 3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế * Ưu điểm: Hoạt động cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ngày càng được xã hội hóa. Sự quan tâm của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ môi trường: đã đầu tư nguồn kinh phí lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường. Chú trọng trong việc đào tạo đội ngũ nhân sự trực tiếp làm công tác cung ứng dịch vụ. Trang 15
- Hệ thống hành lang pháp lý ngày càng được xây dựng và hoàn thiện. * Hạn chế: Lĩnh vực dịch vụ môi trường nước ta còn kém phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Năng lực cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ còn thấp, khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện. Hệ thống cơ chế, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật còn tản mạn và thiếu nhất quán. Thị trường dịch vụ môi trường mới manh nha, phân tán, mức độ độc quyền còn cao, Nhà nước vẫn phải bao cấp lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường… 4. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh của Singapore 4.1. Thực trạng Nhắc đến Singapore là người ta nhắc đến một quốc gia có môi trường xanh sạch đẹp. Bất kỳ nơi nào ở đảo quốc này từ sân bay, cầu vượt, các tòa nhà, thậm chí cả nhà vệ sinh công cộng cũng có cây xanh. Có được thiên đường nơi hạ giới như vậy phải kể đến quyết tâm không nhỏ của chính phủ Singapore thể hiện qua các chính sách quản lý, giám sát môi trường. Để có được một bầu không khí trong lành tại Singapore, Cơ quan môi trường quốc gia Singapore (NEA) đã đặt ra và thực hiện rất nghiêm túc các quy định, tiêu chuẩn về môi trường xanh sạch đẹp. Đơn cử như việc sử dụng các loại xe gắn máy cũng được quy định rất chặt chẽ tại điều 19 Luật Quản lý và Bảo vệ môi trường. Điều luật này quy định bất kỳ người dân nào khi sử dụng các phương tiện giao thông gắn máy không được xả khói quá mức cho phép trên đường. Theo đó, các loại xe chở khách hoặc xe hạng nhẹ có trọng tải 3,5 tấn hoặc thấp hơn phải hội đủ tiêu chuẩn Euroll về phát thải khí CO2. Đối với xe chở khách sử dụng xăng thì mức cho phép là 2,2g/km; còn với dầu diesel là 1g/km. Với xe tải hạng nhẹ cấp I(1,25 tấn) dụng xăng, mức CO thải ra môi trường cho phép là 2.2g/km còn với dầu diesel là 1g/km… Ngoài ra, còn có những quy định chuẩn về tiếng ồn cho phép đối với các phương tiện giao thông, quy định về các loại xăng dầu được phép sử dụng.. đều được đưa vào luật rất chặt chẽ, cụ thể. Trang 16
- Singapore là một nước có sự đô thị hóa 100% và là đô thị sạch nhất trên thế giới. Để đạt được kết quả như vậy. Singapore đầu tư cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý đồng thời xây dựng một hệ thống luật pháp nghiêm khắc làm tiền đề cho quá trình xử lý rác thải tốt hơn. Rác thải ở Signapore được thu gom và phân loại bằng túi nilon. Các chất thải có thể tái chế được, được đưa về các nhà máy tái chế còn các loại chất thải khác được đưa về các nhà máy khác để thiêu hủy. Ở Singapore có 2 thành phần chính tham gia vào thu gom và xử lý các rác thải sinh hoạt từ các khu dân cư và các công ty, hơn 300 công ty tư nhân chuyên thu gom và xử lý các rác thải công nghiệp và các khu thương mại. Tất cả các công ty này đều được cấp giấy phép hoạt động và chịu sự giám sát kiểm tra trực tiếp của Sở khoa học công nghệ và môi trường. Ngoài ra, các hộ dân và các công ty của Singapore được khuyến khích tự thu gom và vận chuyển rác thải cho các hộ dân vào các công ty. Việc bảo vệ môi trường, quan tâm đến sức khỏe của người dân của Chính phủ Singapore còn thấy rõ sau khi luật cấm hút thuốc ở một số nơi quy định được đưa vào cuộc sống. Theo điều luật này, người dân không được phép hút thuốc ở những nơi có không gian kín như rạp hát, các khu thương mại, mua sắm và văn phòng, xe bus và các trạm chuyển xe bus… Bất kỳ công dân nào vi phạm sẽ bị phạt 200 USD và nếu cáo buộc tội từ tòa, mức phạt cho hành vi này có thể đến 1000 USD. Có thể thấy môi trường của đảo quốc ở Đông Nam Á này đã được thừa hưởng rất nhiều từ những chính sách rõ ràng và cứng rắn của chính phủ Singapore. Bên cạnh đó, để bảo đảm môi trường luôn sạch sẽ, mọi vị trí công cộng trong khu chung cư từ hành lang các tầng cho đến đường đi lối lại, bãi đậu xe, nơi tập thể thao... đều được quét dọn sạch sẽ hằng ngày. Bởi vậy, đất nước nhỏ bé này hiện có tới hơn 2.000 công ty chuyên cung cấp dịch vụ quét dọn và vệ sinh với khoảng 70.000 nhân công. Kinh phí đảm bảo vệ sinh môi trường ngoài chi từ ngân sách còn do dân cư có nghĩa vụ đóng góp. Nhưng “bí quyết” ở đây là chính quyền phải đứng ra chăm lo, tổ chức nên tránh được tình trạng “cha chung không ai khóc”. Singapore là một quốc đảo luôn gặp khó khăn về nguồn nước ngọt. Năm 1961, Singapore ký 2 hiệp ước song phương với Malaysia về mua bán nước ngọt chưa qua xử lý. Hai hiệp ước này lần lượt hết hiệu lực vào năm 2011 và năm 2016. Năm 2011 Trang 17
- vừa qua, Singapore đã đủ tự tin để không phải ký lại hiệp ước mua nước ngọt vừa hết hiệu lực, vì họ đã tìm được đáp án cho bài toán khó nhất của mình. Trước đây, nguồn nước ngọt ở Singapore chủ yếu phụ thuộc vào việc mua từ Malaysia. Ngày nay, nguồn nước mua từ Malaysia chỉ còn chiếm chưa đầy 1/3 nhu cầu sử dụng nước của quốc gia này, vì họ đã có thêm 3 nguồn nước rất quan trọng khác là: nước thu từ thiên nhiên, nước tinh khiết lọc từ nước thải, nước ngọt lọc từ nước biển. Hiện nay, đã có trên 2/3 diện tích của Singapore trở thành khu vực thu nước thiên nhiên, với 15 hồ chứa nước ngọt, hệ thống sông ngòi, 7.000 km mương máng, ống dẫn nước ngọt vào các hồ. Bên cạnh đó, Singapore vừa thực hiện một dự án với quy mô rất lớn, xây dựng đập ngăn nước sông đổ ra biển, đó là đập Marina ở cửa phía nam sông Singapore. Người Singapore đã tiến hành xây dựng đập ngăn nước, tạo thành một hồ chứa rộng 10.000 ha, tương đương 1/7 diện tích của quốc đảo này. Cùng với các hệ thống công trình được xây dựng trước đó, dự án này đã góp phần làm cho tỷ lệ cung cấp nước thu từ thiên nhiên tăng lên chiếm đến 1/2 tổng lượng nước tiêu thụ ở Singapore. Bên cạnh đó, năm 2007, Singapore khánh thành nhà máy lọc nước biển Singspring với công suất 136.000 m3/ngày, tổng kinh phí đầu tư 200 triệu đô Sing. Nguồn nước ngọt được lọc từ biển đang cung cấp khoảng 10% lượng nước cho quốc gia này. Nhưng thành công lớn nhất trong việc giải bài toán về nguồn nước ở Singapore chính là công nghệ xử lý nước thải thành nước tinh khiết. Năm 1987, ông Lý Quang Diệu (khi đó là Thủ tướng của Singapore) đã từng mơ ước sau 20 năm sẽ có công nghệ lọc nước thải thành nước sinh hoạt và người Singapore đã biến điều đó thành hiện thực nhanh hơn mong muốn. Tháng 5 năm 2010, Singapore đã khánh thành nhà máy lọc nước với công nghệ hiện đại và quy mô lớn nhất thế giới, có thể lọc được tất cả các loại nước thải, kể cả nước từ nhà vệ sinh, thành nước sạch tinh khiết. Hằng ngày, 5 nhà máy loại này ở Singapore cung cấp khoảng 230.000 m3, chiếm 30% tổng nước tiêu thụ của nước này. Công nghệ đã giúp Singapore biến điểm yếu của mình thành cơ hội, giúp nước này thu được những khoản tiền không nhỏ từ việc xuất khẩu kỹ thuật tái chế nước thải. Nước tinh khiết lọc từ nước thải có thể uống trực tiếp, sạch đến mức Trang 18
- người Singapore phải bơm lên các đồi cây cho lọc tự nhiên để bổ sung thêm khoáng chất. Việc sản xuất, tìm kiếm thêm các nguồn nước chỉ là 1 mặt của vấn đề giải bài toán thiếu nước ngọt ở Singapore, mặt thứ 2 chính là việc quản lý và sử dụng tiết kiệm nguồn nước. Trong nhiều năm qua, Singapore liên tục đưa ra các kế hoạch nhằm khuyến khích công dân sử dụng tiết kiệm nguồn nước. Những biện pháp Singapore đang áp dụng cũng cơ bản giống Việt Nam, đó là tính giá nước theo lũy tiến và thu thêm các loại thuế, phí (thuế bảo vệ nguồn nước, phí sử dụng nước trên lượng nước tiêu thụ). Tuy nhiên, hiện nay Singapore chỉ tính giá theo 2 mức tiêu thụ, mức từ 1 đến 40 m3 và mức trên 40 m3. Giá nước ở mức từ 1 đến 40 m3 là 1,17 đô Sing, trên 40 m3 là 1,4 đô Sing (khoảng 25.000 đồng), chưa kể thuế và phí. Tỷ lệ tiêu thụ nước bình quân theo đầu người ở Singapore trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhờ ý thức tiết kiệm nước của công dân, năm 1995 là 172 lít/ngày, năm 2000 là 165 lít/ngày, năm 2011 là 153 lít/ngày và đích mới sẽ là 146 lít/ngày. Bên cạnh đó, Singapore cũng là quốc gia có tỷ lệ thất thoát nước rất thấp, khoảng 4,6%, bằng với Nhật Bản. 4.2. So sánh với Việt Nam Qua sự phân tích và trình bày ở trên chúng ta phần nào hiểu được vệ sinh cũng như môi trường sống tại đất nước nhỏ bé Singapore. Còn tại Việt Nam có phần nào đó trái ngược lại,đó là ý thức của người dân về vệ sinh môi trường chưa được cao, không khó để bắt gặp hình ảnh người đi đường xả rác một cách “vô tư” ở bất cứ đâu: nơi công cộng, nơi vỉa hè, trên đường đi, nơi trường học… Người ta cũng không mất một nơron thần kinh nào để suy nghĩ cho hành động thản nhiên đó của mình. Và không dừng ở đó, nếu đã một lần đi xe khách bạn sẽ được tận mắt chứng kiến việc góp phần làm ô nhiễm môi trường của nhiều hành khách trên bất kì tuyến xe nào. Trên xe, dường như hành khách luôn có cái “thú” ăn quà mà theo họ lí giải là “cho quên cái say đi”. Điều đó không bàn làm gì, nhưng ăn xong, tiện tay họ xả luôn rác qua cửa sổ xe không quản đó là loại rác gì: có thể là lon nước, vỏ bánh kẹo, hộp sữa hay cùi bắp, thậm chí là khạc nhổ vô tội vạ xuống đường…. Đặc biệt hơn nữa trên các tuyến xe, dù là xe đường ngắn hay đường dài, chủ xe luôn dự trữ cả bịch ni lông để phục vụ cho Trang 19
- việc nôn ói của hành khách và cũng là cách mà họ giữ vệ sinh cho cá nhân nhà xe. Mỗi khi hành khách nào đó có nhu cầu “ói” là họ vội vàng đưa cho ni lông rồi nhắc nhở: “Cho ra ngoài nhé!”. Cứ thế, đủ thứ rác “bay” ra ngoài và đáp xuống bất kì đâu, có khi nó nằm yên ở một nơi vệ đường, có khi lại nằm gọn trên bụi cây. Nhưng tệ hơn nó lại nhằm trúng vào người đi xe thô sơ khác… Lúc đó, mặc dù rất bức xúc, nhưng người đi đường đành chịu . Xả rác không đúng nơi quy định đã như một thói quen của người dân, thói quen xấu đó được hình thành từ bé trong ý thức của mỗi người. Không khó để thấy một người mẹ dắt con đi công viên chơi, nhưng khi bóc kẹo cho con ăn bà không để ý tới hành động của mình, vứt luôn rác ra công viên mà không biết rằng đó là bài học bà đã reo vào ý thức của con. Nhiều người cho rằng bảo vệ môi trường là công việc của những công nhân môi trường, vứt rác ra ngoài thì họ đã nộp tiền rác hàng tháng, làm sao phải suy nghĩ nhiều, đó là cách tạo công ăn việc làm cho công nhân môi trường cơ mà. Quả là họ nói không sai, nhưng đó là những suy nghĩ trước mắt, và thiếu trách nhiệm. Giá mà họ nghĩ rằng công nhân môi trường càng “nhàn rỗi” càng có ích biết bao. Vì những hành động thiếu văn minh đó mà nhiều nơi công cộng cũng trở thành bãi rác, nhiều nơi “cấm đổ rác”… cũng trở thành bãi rác, và trên không trung nhiều khi cũng… có rác. Chính vì vậy mà nhiều khi hình ảnh của Việt Nam bị “mất điểm” trong mắt du khách nước ngoài, người ta sợ với “mức độ hồn nhiên” xả rác của người Việt ra nơi công cộng. Trong khi cách khắc phục thì thật đơn giản. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lấy mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong quá trình sản xuất hàng hóa không quan tâm đến vấn đề môi trường. Vì vậy mà hiện nay tại các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất đã thải ra môi trường một lượng nước và khí thải độc rất lớn. Vì với chi phí xử lý nước thải 1 m3 có giá thành dao động từ 4.000 đồng15.000 đồng, nếu một nhà máy lớn như Vedan, khu công nghiệp Sonadezi Long Thành… thải ra mỗi ngày trên 5000m3 thì chi phí vận hành sẽ phải bỏ ra hàng tháng cả mấy tỷ đồng. Các nhà máy có lưu lượng nước thải lớn như Vedan rất nhiều. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lương tâm thì không sao, nếu họ vì lợi nhuận, sợ tốn kém do phải đầu tư HTXLNT, vận hành hệ thống, mà đã lén lút xả Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam
25 p | 1118 | 66
-
Tiểu luận: Pháp luật về dịch vụ thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
33 p | 258 | 21
-
Tiểu luận Quản trị chất lượng dịch vụ: Lập kế hoạch định vị, bày trí mặt bằng dịch vụ và xây dựng quy trình cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp Mesa Coffee and Book
22 p | 83 | 18
-
Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ văn hóa ở Việt Nam
26 p | 98 | 11
-
Tiểu luận: Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore
25 p | 236 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
108 p | 21 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam
111 p | 50 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất hàng lẻ (LCL) bằng container tại công ty Sotrans đáp ứng yêu cầu cung ứng dịch vụ logistics trong giai đoạn hiện nay
115 p | 35 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công trên địa bàn huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội
129 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Cung ứng dịch vụ hành chính công của Uỷ ban nhân dân Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
125 p | 41 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam
197 p | 30 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Phân tích hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Đà Nẵng
27 p | 34 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức thực hiện pháp luật về cung ứng dịch vụ hành chính công cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
26 p | 9 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công tại ủy ban nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
121 p | 10 | 3
-
Đề án tốt nghiệp Quản lý công: Nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2024 - 2030
82 p | 3 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại Ủy ban nhân dân Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
26 p | 3 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Cung ứng dịch vụ hành chính công trên địa bàn huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh
28 p | 32 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn