intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

250
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận trình bày sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta đồng thời sẽ chỉ ra cho mọi người thấy được thực trạng của vấn đề vệ sinh môi trường ở nước ta hiện nay như thế nào để rồi cùng đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm ngăn chặn cũng như là để bảo vệ cảnh quan đô thị, cảnh quan nông thôn hay nói theo cách khác thì là bảo vệ chính môi trường sống của tất cả chúng ta…

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường

  1. Trang 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự  tồn tại và phát triển của  nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên   đầu vào cho sản suất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ  phế thải sản suất, phế thải xây dựng, dịch vụ và phế thải sinh hoạt do con người thải   ra… Nước  ta   đã  đạt  được   nhiều  thành  tựu quan trọng qua  hơn 20 năm đổi  mới   chuyển từ  cơ  chế  kế  hoạch hóa tập trung bao cấp xang cơ  chế  thị  trường. Những   thành tựu quan trọng đạt được về  kinh tế  ­ xã hội đã chứng minh tinh đúng đắn của   đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Mọi tiềm năng ẩn dấu trong các thành phần kinh  tế  đã được khai thác; các nguồn lực của tự  nhiên cũng đã được sử  dụng một cách có  hiệu quả hơn, an ninh chính trị được giữ  vững, đời sống của nhân dân được nâng cao.  Nhờ  đó vấn đề  môi trường, vệ  sinh môi trường cũng được an toàn hơn khi có những   chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, giảm dần những tác hại xấu ảnh hưởng   đến môi trường ảnh hưởng đến con người… Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thực hiện cơ chế kinh tế thị  trường cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhung do chưa kết hợp   chặt chẽ với vấn đề bảo vệ  môi trường nên cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến   môi trường. Nhiều loại tài nguyên môi trường như: đất, nước, không khí, rừng… đã bị  ô nhiễm, suy kiệt đến mức báo động, gây tác động không nhỏ  đến đời sống xã hội.   Đặc biệt là tại các thành phố  lớn, những nơi tập trung đông dân cư, các khu công  nghiệp vấn đề vệ sinh môi trường luôn là những vấn đề  cấp bách và luôn nhận được   sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của đông đảo người dân. Với việc tìm hiêu và nghiên cứu về đề tài cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường  nhóm sinh viên chúng tôi sẽ  cho bạn đọc thấy được sự  cần thiết phải cung  ứng dịch   vụ  vệ  sinh môi trường  ở  nước ta đồng thời sẽ  chỉ  ra cho mọi người thấy được thực  Trang 2
  3. trạng của vấn đề vệ sinh môi trường ở nước ta hiện nay như thế nào để rồi cùng đưa   ra những giải pháp thích hợp nhằm ngăn chặn cũng như là để bảo vệ cảnh quan đô thị,   cảnh quan nông thôn hay nói theo cách khác thì là bảo vệ  chính môi trường sống của  tất cả chúng ta… NỘI DUNG CHÍNH I. CƠ SỞ LÝ LUẬN  1. Lý luận chung về cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường  Dịch vụ  công (từ  tiếng Anh là "public service") có quan hệ chặt chẽ  với phạm  trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc  tính cơ bản như: a. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc   sử dụng nó; b. Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người   khác; c. Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa   công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thỉ những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba  đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không  thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy. Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ  công luôn gắn với vai trò của nhà   nước trong việc cung ứng các dịch vụ này. Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu cho rằng dịch vụ công   là những hoạt động của cơ  quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý nhà  nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu  của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với  những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ  đối  tượng được hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công  là hoạt động đáp  ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và  cộng đồng, còn việc  tiến   Trang 3
  4. hànhcung ứng các dịch vụ ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm hoặc cả tư  nhân và nhà nước cùng đảm nhiệm cung cấp. Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của  mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công,  từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế xã hội (như tạo việc làm,   quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã  hội,...). Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vục công là những hoạt động   phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan Nhà nước đảm nhiệm hoặc  do các tổ  chức tư  nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Tuy  vậy,  ở  mỗi nước lại có nhận thức khác nhau về  phạm vi của dịch vụ  công. Ở  Pháp,  khái niệm dịch vụ  công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ  các hoạt động phục vụ  nhu cầu về  tinh thần và sức khoẻ  của người dân (như  giáo dục, văn hoá, y tế, thể  thao… thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân   cư  mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ  sinh môi trường,...  thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ  hành chính công, bao gồm   hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch,… mà cả hoạt động  thuế  vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng… còn  ở  Italia dịch vụ  công được giới hạn chủ  yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước   sạch, vệ  sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ  khẩu, hộ  tịch do cơ  quan   hành chính thực hiện. Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước.  Tức là Nhà nước không độc quyền cung cấp các dịch vụ  công mà trái lại Nhà nước  hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung  ứng của   một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước,… cho khu vực phi nhà nước thực  hiện. Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận   ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu  và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư  và nhà nước có trách  nhiệm đảm bảo các dịch vụ  này cho xã hội. Ngay cả  khi nhà nước chuyển giao một  Trang 4
  5. phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều  tiết nhằm đảm bảo sự  công bằng trong phân phối các dịch vụ  này và khắc phục các  bất cập của thị trường. Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động   dịch vụ của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân  được Nhà nước uỷ  quyền thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ  những  nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm  bảo sự công bằng và ổn định xã hội. 2. Đặc điểm của dịch vụ công Mặc dù các dịch vụ  công rất đa dạng và phong phong phú cả  về  hình thức và  tính chất nhưng cũng đều mang một số đặc điểm sau:  Dịch vụ  công mang tính xã hội là dịch vị phục vụ  cho nhu cầu thiết yếu của   cả  cộng đồng, phục vụ  các đối tượng xã hội một cách công bằng, không hướng tới  phục vụ một nhóm hay một cá nhân cá biệt trong xã hội.  Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung  ứng dịch vụ  công để  đảm bảo quá trình cung ứng dịch vụ công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi   hỏi của các công dân và xã hội.  Việc cung  ứng dịnh vụ  công có thể  do cơ  quan nhà nước (có thể  là cơ  quan   công quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà   nước có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước.  Cung ứng dịch vụ công không hoàn toàn diễn ra theo quan hệ thị trường. 3. Các loại dịch vụ công Dựa vào cách phân loại dịch vụ và xét theo lĩnh vực cung  ứng dịch vụ  công có  thể chia dịch vụ công thành các loại như sau: 1/ Dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp. 2/ Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích. Trang 5
  6. 3/ Dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích lại bao gồm các mảng như :  Dịch vụ giao thông công cộng;  Dịch vụ cung cấp điện;   Dịch vụ cung cấp nước sạch;  Dịch vụ vệ sinh môi trường;  Dịch vụ khuyến nông ­ lâm ­ ngư ­ thủy lợi. Vậy dịch vụ công ích là gì? Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết   yếu cho người dân và cộng đồng như: dịch vụ vệ sinh môi trường, xử  lý rác thải, cấp  nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai... chủ  yếu do các doanh  nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân   đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyên rác thải ở một số đô   thị nhỏ, cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn… Như vậy thì ta đã biết được rằng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là nằm   trong dịch vụ công trong lĩnh vực công ích. Vậy để hiểu rõ hơn nữa nhóm chúng tôi sẽ trực tiếp đi vào tìm hiểu phần cung   ứng dịch vụ vệ sinh môi trường. 4. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường 4.1. Các khái niệm * Môi trường là gì? Theo Luật bảo vệ  môi trường của nước ta ban hành ngày 10/1/1994 thì môi  trường được đĩnh nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố  vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người ,có ảnh hưởng tới   đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. * Vệ sinh môi trường là gì? Vệ  sinh môi trường là việc gìn giữ  ,duy trì và đảm bảo môi trường sống xung  quanh chúng ta. Trang 6
  7. * Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là gì? Theo từ điển: Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản   xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Theo lý thuyết kinh tế  học hiện đại: Dịch vụ  là những hoạt động mang tính  phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội. Vậy cung  ứng dịch vụ vệ sinh môi trường chính là những hoạt động cung cấp  các dịch vụ cần thiết có liên quan đến lĩnh vực vệ sinh môi trường nhằm đem lại cho  con người và các hoạt động kinh doanh sản xuất có một môi trường đảm bảo để  tồn   tại và phát triển.  4.2. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường bao gồm những mảng sau: ­ Dịch vụ thu gom xử lý chất thải, rác thải, nước thải. ­ Dịch vụ cảnh quan môi trường. Việt nam đang tiến hành công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa đất nước với nhịp độ  tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm qua. Cùng với tốc độ  đô thị  hóa và công   nghiệp hóa nhanh, mạnh vấn đề  quản lý rác thải, chất thải trong đó có rác thải nói   chung, chất thải rắn  ở đô thị, chất thải công nghiệp và một số  nghành khác nói riêng,  đặc biệt là chất thải độc hại, nguy hiểm, đang là những vấn đề nan giải trong công tác  bảo vệ môi trường và sức khỏe của người dân.  4.3. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về vấn đề  bảo vệ môi   trường và công tác vệ sinh môi trường Đảng và nhà nước ta chỉ rõ bảo vệ môi trường và công tác vệ sinh môi trường là  một trong những vẫn đề sống còn của nhân loại là nhân tố đẩm bảo sức khỏe và chất   lượng cuộc sống của người dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế  xã  hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Một số quan điểm và định hướng của đảng và nhà nước về vấn đề môi trường: * Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự  chuyển biến   mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp  ủy đảng, chính quyền, Mặt trận   Tổ  quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về  trách nhiệm, ý thức  Trang 7
  8. bảo vệ  môi trường. Công tác vệ  sinh môi trường. Phát huy vai trò của các cơ  quan  thông tin đại chúng trong tuyên truyền về  bảo vệ  môi trường; đa dạng hóa nội dung,   hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như  lâu dài  của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã   hội và sự phát triển bền vững của đất nước. * Tổ  chức kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị  quyết 41­NQ/TW của Bộ  Chính trị  về  bảo vệ môi trường; xác định rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên   nhân, nhất là nguyên nhân chủ  quan, trách nhiệm của tổ  chức, cá nhân; đề  ra các giải   pháp cụ thể để thực hiên tôt cac nhiêm vu trong Ngh ̣ ́ ́ ̣ ̣ ị quyết 41 và Chi thi nay; đ ̉ ̣ ̀ ưa nội   dung kiểm điểm công tác bảo vệ  môi trường vào báo cáo tổng kết, đánh giá định kỳ  của cơ quan, đơn vị.  * Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo  vệ môi trường. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ  thể  hoá và hướng dẫn đầy đủ  Luật Bảo vệ  môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa   đổi, bổ  sung các quy định về  tội phạm môi trường trong Bộ  Luật Hình sự. Quy định   các chế  tài xử  lý nghiêm các vi phạm pháp luật về  bảo vệ  môi trường; xây dựng và   ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà   nước về  môi trường từ  Trung  ương đến cơ  sở  ; bảo đảm  ở  cấp huyện có bộ  phận  quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ  phụ  trách công tác bảo vệ  môi trường. Làm rõ   chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về  bảo vệ  môi trường giữa các cấp,  các ngành. Không phê  duyệt chiến lược,  quy hoạch,  kế  hoạch, chương trình, dự  án đầu tư  tiềm  ẩn nguy cơ  cao đối với môi trường. Không   đưa vào vận hành, sử  dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ  cao, khu đô thị, công  trình, cơ  sở  y tế, cơ  sở  sản xuất mới không đáp  ứng các yêu cầu về  bảo vệ  môi  trường. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là các chất thải nguy hại trong sản xuất công  nghiệp, dịch vụ, y tế, nghiên cứu khoa học; chấm dứt nạn đổ  phế  liệu, xả  nước thải   chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, hồ ao. Thu gom và   xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các biện pháp thích hợp;  ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng, hạn chế tối đa việc chôn lấp. Xử lý dứt điểm các cơ  Trang 8
  9. sở  gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ  bản tình trạng ô   nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường  ở  các khu dân cư  do chất thải của các khu  công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị  nhiễm độc hóa học do  Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những   cơ  sở  gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư  nhưng không có biện pháp khắc  phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu  vực đã bị  ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ  sản xuất của  các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ,   lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử  lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu  phế  liệu, máy móc, thiết bị  đã qua sử  dụng để  đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát   chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong   sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ  dịch bệnh   trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát,  xử  lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm  trọng.  * Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ  môi trường, có cơ  chế, chính sách  khuyến khích cá nhân, tổ  chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng và  phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của  cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi   trường của các doanh nghiệp, tổ  chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ  thu gom, vận  chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia  của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ  chức đánh giá, tư  vấn, giám   định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường  đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước. * Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ  ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và  ngoài nước đầu tư  bảo vệ môi trường; tăng tỉ  lệ  đầu tư  cho môi trường trong nguồn   vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo   Trang 9
  10. vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ  về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường. * Nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ  trương,   chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ  bản, dự  báo, cảnh báo về  tài nguyên, môi trường; nghiên cứu,  ứng dụng và chuyển  giao các tiến bộ khoa học và công nghệ  về  bảo vệ  môi trường, xử  lý ô nhiễm, khắc   phục suy thoái, sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành  công nghiệp môi trường. Tăng cường sản xuất và sử  dụng nhiên liệu sinh học, năng   lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN  1. Sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta Cùng với quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu  rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an   sinh xã hội. Đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các   thành công thì Việt Nam cũng đang đối mặt với các vấn đề môi trường nảy sinh, đặc   biệt là sự  xuống cấp của chất lượng môi trường. Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài   nguyên đang diễn ra gay gắt với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn   về kinh tế và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác. Yêu cầu cấp thiết đang đặt ra là   cần phải phát triển dịch vụ môi trường để  hạn chế  đến mức thấp nhất các tác động  tiêu cực về môi trường nảy sinh. Thực tế cho thấy, thời gian qua Nhà nước vẫn đang phải dành một nguồn kinh   phí không nhỏ nhằm hỗ trợ các hoạt động về bảo vệ môi trường. Đây không chỉ là đòi   hỏi yêu cầu tự  thân trong nước do những hệ  quả không mong muốn từ  mục tiêu đẩy  mạnh quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam đang thực  hiện. Mà thông lệ  quốc tế  với những đòi hỏi khắt khe phải cam kết thực hiện ngày  càng nhiều hơn các quy định quốc tế  về  môi trường… cũng là hướng chúng ta phải  thực hiện. Đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam   cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ môi trường ở 5 phân ngành trong WTO (Dịch vụ  Trang 10
  11. xử lý nước thải; Dịch vụ xử lý rác thải; Dịch vụ làm sạch khí thải; Dịch vụ xử lý tiếng   ồn và Dịch vụ  đánh giá tác động của môi trường). Do vậy, phát triển dịch vụ  môi   trường đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết  ở  Việt Nam. Nhu cầu này mang tính  khách quan của quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế nước   ta hiện nay. Trong khi đó, lĩnh vực dịch vụ môi trường nước ta còn kém phát triển, chưa đáp  ứng yêu cầu bảo vệ  môi trường và phát triển kinh tế, năng lực cung cấp dịch vụ  và   chất lượng dịch vụ còn thấp, khu vực tư  nhân tham gia chưa nhiều vào lĩnh vực này.   Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện, thị trường dịch vụ  môi trường mới manh nha, phân tán, mức độ  độc quyền còn cao, Nhà nước vẫn phải  bao cấp lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường…  Trong bối cảnh đó, việc định hướng chiến lược phát triển dịch vụ  môi trường   sẽ  một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi trường trong  nước có đủ  thời gian và những lợi thế  để  phát triển, mặt khác thu hút đầu tư  nước  ngoài, tranh thủ kinh nghiệm để bổ sung nguồn lực phát triển lĩnh vực này. 2. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam 2.1. Chủ thể cung ứng dịch vụ  Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công để đảm  bảo quá trình cung  ứng dịch vụ  công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi hỏi  của các công dân và xã hội. Việc cung ứng dịnh vụ công có thể do cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan công   quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà nước   có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước. 2.2. Chất lượng cung ứng dịch vụ Theo yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường 2005, tất cả các loại hình chất thải  từ  mọi loại nguồn thải đều phải được xử  lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên  phần lớn chất thải ở nước ta hiện nay chưa tuân thủ được yêu cầu này và nhu cầu phát  triển các dịch vụ  môi trường là rất lớn bao gồm xử  lý nước thải, rác thải, khí thải,  Trang 11
  12. tiếng ồn từ các nguồn thải sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhu cầu xử lý   chất thải rắn và chất thải nguy hại Theo Báo cáo diễn biến môi trường 2004, mỗi năm  tại Việt Nam có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn phát sinh từ  nhiều nguồn khác nhau.   Khoảng hơn 80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các   hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh   từ các cơ sở công nghiệp mỗi năm khoảng 2,6 triệu tấn (chiếm 17%). Khoảng 160.000   tấn/năm (chiếm 1%) trong tổng lượng chất thải rắn phát sinh ở Việt Nam được coi là   chất thải nguy hại. Năm 2008, lượng chất thải rắn khoảng 28 triệu tấn, năng lực quản  lý chất thải rắn còn rất nhiều hạn chế với tỷ lệ thu gom đạt 65­70% trên cả nước, các  đô thị đạt 80­82%, phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, tỷ lệ chất thải được xử lý  hợp vệ sinh đạt 26%, tỷ lệ tái sử dụng tái chế 20%, số doanh nghiệp có thiết bị xử  lý   10­20%. Trong khi năng lực quản lý còn nhiều hạn chế thì lượng chất thải rắn tiếp tục  được dự báo sẽ gia tăng nhanh chóng trong thời gian tới. Dự báo đến 2020, lượng chất   thải rắn có thể đạt 65­70 triệu tấn. Do vậy trong hiện tại và tương lai, đây cũng là một  loại hình dịch vụ môi trường có nhiều cơ hội phát triển.  * Nhu cầu xử lý nước thải: Theo tính toán của Báo cáo hiện trạng môi trường 2005, hàng ngày có khoảng  3.110.000 m3 nước thải sinh hoạt đô thị, nước thải bệnh viện và nước thải sản xuất từ  các khu công nghiệp thải trực tiếp vào nguồn nước mặt, trong đó chiếm phần lớn là  nguồn nước thải sinh hoạt 64%, nước thải sản xuất chiếm 32% và nước thải bệnh  viện vào khoảng 4% . Nhìn chung hiện nay, vấn đề xử  lý nước thải, công tác quản lý  xây dựng các công trình xử lý nước thải còn khá mới, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ  môi trường trong lĩnh vực này còn rất lớn. Tỷ lệ lượng nước thải được xử  lý mới chỉ  đạt 10%. Mới chỉ có khoảng 46% số khu công nghiệp, 26% khu đô thị  (loại 4 trở lên)  đã và đang lắp đặt hệ  thống xử lý nước thải. Nhu cầu sẽ tập trung vào các hệ  thống   xử lý nước thải, các thiết bị xử lý, và các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn, thiết kế, đào tạo  tập huấn, quan trắc môi trường cũng như vận hành quản lý…  * Nhu cầu xử lý khí thải và làm giảm tiếng ồn: Trang 12
  13. Nhu cầu xử  lý khí thải  ở  nước ta rất lớn. Theo báo cáo môi trường toàn cầu,  năm 2006, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong số 10 thành phố ô nhiễm không  khí nhất thế giới. Những khu vực ô nhiễm không khí nhiều nhất là các đô thị  lớn, các   khu công nghiệp và các làng nghề  truyền thống. Trong tương lai, khi Chính phủ  có  những quy định chi tiết hơn và có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn về khí thải   sản xuất công nghiệp và khí thải từ các phương tiện giao thông thì sẽ có nhiều cơ hội   cho sự phát triển của các dịch vụ liên quan như cung cấp các thiết bị xử lý ô nhiễm khí   thải công nghiệp, cung cấp bộ lọc khí thải cho phương tiện giao thông, kiểm soát nồng  độ khí thải…  Thời gian trước đây, dịch vụ môi trường được xem là một loại dịch vụ công nên  chỉ có nhà nước độc quyền thực hiện. Tuy nhiên gần đây, do thực hiện chủ trương xã  hội hoá công tác bảo vệ môi trường, tại nước ta đã xuất hiện các công ty tư nhân, công  ty cổ  phần, hợp tác xã, viện trường trung tâm nghiên cứu tham gia cung  ứng dịch vụ  môi trường. Ngoài ra, các hoạt động hợp tác quốc tế  cũng huy động được sự  hỗ  trợ  của nước ngoài vào thực hiện các dịch vụ môi trường.  * Đối với khu vực nhà nước:  Nhìn chung,  ở  mỗi tỉnh và thành phố  đều có một số  công ty phụ  trách về  môi  trường trên địa bàn tỉnh, dưới đó là các công ty cấp quận, huyện. Tùy từng địa phương  mà cơ cấu tổ chức khác nhau. Tại một số địa phương, các công ty vệ sinh môi trường,   công ty cấp nước sạch, công ty cấp thoát nước đều thuộc khối doanh nghiệp công ích  và trực thuộc Sở  Giao thông công chính, Sở  Tài nguyên và Môi trường, Sở  Xây dựng   hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố. Dù là trực thuộc dưới một đơn vị chủ quản nào,   các đơn vị  dịch vụ  môi trường đều được cấp một khoản kinh phí hàng năm từ  ngân  sách Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ dịch vụ môi trường trên địa bàn tỉnh, thành phố.   Các hoạt động được thực hiện chủ  yếu là đầu tư  cho hệ  thống hạ  tầng môi trường   như cấp thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn.  * Đối với khu vực tư nhân:  Trang 13
  14. Tính đến nay khu vực tư nhân đã tham gia cung ứng vào nhiều lĩnh vực dịch vụ  vệ sinh môi trường với nhiều mức độ khác nhau như cấp thoát nước, xử lý nước thải,   khí thải, thu gom rác thải, hoạt động tư vấn, thiết kế... 40% lượng rác thải tại TP Hồ  Chí Minh được thu gom bởi các công ty tư nhân. Việc các nhà đầu tư tư nhân tham gia   ngày càng nhiều vào dịch vụ môi trường là một xu hướng tích cực, phù hợp yêu cầu xã   hội hoá công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn trong triển   khai, ứng dụng vì nhiều lý do: năng lực tài chính của các doanh nghiệp tư nhân có hạn,   Nhà nước lại chưa có những chính sách cụ  thể  nhằm tạo mọi điều kiện, nhất là về  nguồn vốn, vì thế  các doanh nghiệp phải vừa triển khai  ứng dụng, vừa hoàn thiện,   chưa đủ cơ sở để thuyết phục các địa phương tự  bỏ  vốn hoặc vay vốn xây dựng nhà   máy.  2.3. Các quy định pháp lý về  nâng cao chất lượng cung  ứng dịch vụ  môi   trường ở nước ta Nghị  quyết số  41­NQ/TW ngày 15/11/2004 về  nhiệm vụ  bảo vệ  môi trường   trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có nêu rõ nhiệm vụ “Đẩy mạnh   công tác xã hội hoá bảo vệ môi trường”. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến 2020   được phê duyệt bởi Quyết định 256/2003/QĐ­TTg ngày 02/12/2003, là văn bản quan  trọng đưa ra những định hướng lớn về công tác bảo vệ  môi trường ở  Việt Nam hiện   nay. Trong đó, Chiến lược nhấn mạnh đến nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi  trường. Xã hội hoá hoạt động bảo vệ  môi trường là một trong 8 giải pháp chính để  thực hiện Chiến lược. Luật Bảo vệ môi trường 2005 đề cập đến khía cạnh xã hội hoá hoạt động bảo  vệ  môi trường trong toàn bộ  văn bản Luật và dịch vụ  môi trường được đưa ra trong  Điều 116 (chương XI) về  phát triển dịch vụ  bảo vệ  môi trường. Theo đó, Nhà nước  khuyến khích tổ  chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ  giữ  gìn vệ  sinh môi  trường để thực hiện các hoạt động dịch vụ  giữ gìn vệ  sinh, bảo vệ môi trường thông  qua hình thức đấu thầu. Trang 14
  15. Quyết định số  249/QĐ­TTg về  việc phê duyệt Đề  án phát triển dịch vụ  môi  trường đến năm 2020 do Thủ tướng chính phủ ký ngày 10/2/2010, là quan trọng về dịch   vụ môi trường. Mục tiêu của Đề án là phát triển dịch vụ môi trường để cung ứng dịch   vụ bảo vệ môi trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của  khu vực dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển  bền vững đất nước. Ở  cấp địa phương, mỗi tỉnh/thành phố  đều đã ban hành quy chế  bảo vệ  môi   trường trong đó có quy định về  nguồn lực bảo vệ  môi trường. Một số  thành phố  lớn  như  Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, đã thực hiện các cơ  chế  chính sách nhằm mở rộng xã   hội hoá trong lĩnh vực dịch vụ môi trường và đã thử nghiệm một số mô hình cung cấp  dịch vụ môi trường phi nhà nước. Nói tóm lại, cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ  lực trong việc xây dựng khuôn khổ  pháp lý phù hợp cho các hoạt động bảo vệ  môi  trường nói chung và dịch vụ  môi trương nói riêng. Hệ  thống văn bản pháp luật hiện   hành tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho thị trường dịch vụ môi trường phát triển như  các quy định về  đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử  lý nước thải,   quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, kế hoạch xử lý triệt để  cơ  sở  gây ô nhiễm  môi trường nghiêm trọng, v.v… Tuy nhiên, các chính sách hiện nay còn tản mạn, chưa  có tính hệ thống và thiếu nhất quán. Việc xây dựng bổ sung các quy định cụ thể hơn là  rất cấp thiết, cụ  thể là các quy định về  phạm vi những lĩnh vực dịch vụ  môi trường   cần xã hội hoá và mức độ xã hội hoá, kế hoạch và lộ trình xã hội hoá, các cơ chế chính   sách khuyến khích các thành phần kinh tế phi Nhà nước tham gia đầu tư cung cấp hàng  hoá. 3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế * Ưu điểm: ­ Hoạt động cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ngày càng được xã hội hóa. ­ Sự quan tâm của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ môi trường: đã đầu tư  nguồn kinh phí lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường. ­ Chú trọng trong việc đào tạo đội ngũ nhân sự trực tiếp làm công tác cung ứng  dịch vụ. Trang 15
  16. ­ Hệ thống hành lang pháp lý ngày càng được xây dựng và hoàn thiện. * Hạn chế: ­ Lĩnh vực dịch vụ  môi trường nước ta còn kém phát triển, chưa đáp  ứng yêu  cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. ­ Năng lực cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ  còn thấp, khu vực tư  nhân  tham gia chưa nhiều vào lĩnh vực này.  ­ Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện. Hệ thống  cơ chế, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật còn tản mạn và thiếu nhất quán. ­ Thị  trường dịch vụ  môi trường mới manh nha, phân tán, mức độ  độc quyền   còn cao, Nhà nước vẫn phải bao cấp lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường…  4. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh của Singapore 4.1. Thực trạng Nhắc đến Singapore là người ta nhắc đến một quốc gia có môi trường xanh ­   sạch ­ đẹp. Bất kỳ nơi nào ở đảo quốc này từ sân bay, cầu vượt, các tòa nhà, thậm chí  cả nhà vệ sinh công cộng cũng có cây xanh. Có được thiên đường nơi hạ giới như vậy   phải kể đến quyết tâm không nhỏ của chính phủ Singapore thể hiện qua các chính sách   quản lý, giám sát môi trường. Để có được một bầu không khí trong lành tại Singapore,   Cơ  quan môi trường quốc gia Singapore (NEA) đã đặt ra và thực hiện rất nghiêm túc  các quy định, tiêu chuẩn về môi trường xanh ­ sạch ­ đẹp. Đơn cử  như  việc sử  dụng  các loại xe gắn máy cũng được quy định rất chặt chẽ tại điều 19 Luật Quản lý và Bảo   vệ môi trường. Điều luật này quy định bất kỳ người dân nào khi sử dụng các phương  tiện giao thông gắn máy không được xả  khói quá mức cho phép trên đường. Theo đó,   các loại xe chở khách hoặc xe hạng nhẹ có trọng tải 3,5 tấn hoặc thấp hơn phải hội   đủ tiêu chuẩn Euroll về phát thải khí CO2. Đối với xe chở khách sử dụng xăng thì mức  cho phép là 2,2g/km; còn với dầu diesel là 1g/km. Với xe tải hạng nhẹ cấp I(1,25 tấn)   dụng xăng, mức CO thải ra môi trường cho phép là 2.2g/km còn với dầu diesel là   1g/km… Ngoài ra, còn có những quy định chuẩn về  tiếng  ồn cho phép đối với các   phương tiện giao thông, quy định về các loại xăng dầu được phép sử dụng.. đều được  đưa vào luật rất chặt chẽ, cụ thể.  Trang 16
  17. Singapore là một nước có sự đô thị hóa 100% và là đô thị sạch nhất trên thế giới.   Để đạt được kết quả như vậy. Singapore đầu tư cho công tác thu gom, vận chuyển và   xử  lý đồng thời xây dựng một hệ  thống luật pháp nghiêm khắc làm tiền đề  cho quá  trình xử lý rác thải tốt hơn. Rác thải ở Signapore được thu gom và phân loại bằng túi   nilon. Các chất thải có thể tái chế được, được đưa về các nhà máy tái chế còn các loại   chất thải khác được đưa về  các nhà máy khác để  thiêu hủy.  Ở  Singapore có 2 thành   phần chính tham gia vào thu gom và xử  lý các rác thải sinh hoạt từ các khu dân cư  và   các công ty, hơn 300 công ty tư nhân chuyên thu gom và xử lý các rác thải công nghiệp   và các khu thương mại. Tất cả các công ty này đều được cấp giấy phép hoạt động và   chịu sự  giám sát kiểm tra trực tiếp của Sở khoa học công nghệ  và môi trường. Ngoài  ra, các hộ  dân và các công ty của Singapore được khuyến khích tự  thu gom và vận  chuyển rác thải cho các hộ dân vào các công ty. Việc bảo vệ môi trường, quan tâm đến   sức khỏe của người dân của Chính phủ  Singapore còn thấy rõ sau khi luật cấm hút  thuốc ở một số nơi quy định được đưa vào cuộc sống. Theo điều luật này, người dân   không được phép hút thuốc ở những nơi có không gian kín như rạp hát, các khu thương   mại, mua sắm và văn phòng, xe bus và các trạm chuyển xe bus… Bất kỳ công dân nào  vi phạm sẽ bị phạt 200 USD và nếu cáo buộc tội từ tòa, mức phạt cho hành vi này có   thể đến 1000 USD. Có thể thấy môi trường của đảo quốc ở Đông Nam Á này đã được   thừa   hưởng   rất   nhiều   từ   những   chính   sách   rõ   ràng   và   cứng   rắn   của   chính   phủ  Singapore. Bên cạnh đó, để  bảo đảm môi trường luôn sạch sẽ, mọi vị  trí công cộng  trong khu chung cư từ hành lang các tầng cho đến đường đi lối lại, bãi đậu xe, nơi tập   thể thao... đều được quét dọn sạch sẽ hằng ngày. Bởi vậy, đất nước nhỏ bé này hiện   có tới hơn 2.000 công ty chuyên cung cấp dịch vụ  quét dọn và vệ  sinh với khoảng  70.000 nhân công. Kinh phí đảm bảo vệ sinh môi trường ngoài chi từ ngân sách còn do  dân cư  có nghĩa vụ  đóng góp. Nhưng “bí quyết”  ở  đây là chính quyền phải đứng ra   chăm lo, tổ chức nên tránh được tình trạng “cha chung không ai khóc”. Singapore là một quốc đảo luôn gặp khó khăn về  nguồn nước ngọt. Năm 1961,  Singapore ký 2 hiệp  ước song phương với Malaysia về mua bán nước ngọt chưa qua   xử  lý. Hai hiệp  ước này lần lượt hết hiệu lực vào năm 2011 và năm 2016. Năm 2011   Trang 17
  18. vừa qua, Singapore đã đủ tự tin để không phải ký lại hiệp ước mua nước ngọt vừa hết   hiệu lực, vì họ đã tìm được đáp án cho bài toán khó nhất của mình. Trước đây, nguồn nước ngọt  ở  Singapore chủ  yếu phụ thuộc vào việc mua từ  Malaysia. Ngày nay, nguồn nước mua từ Malaysia chỉ còn chiếm chưa đầy 1/3 nhu cầu  sử dụng nước của quốc gia này, vì họ đã có thêm 3 nguồn nước rất quan trọng khác là:  nước thu từ thiên nhiên, nước tinh khiết lọc từ nước thải, nước ngọt lọc từ nước biển. Hiện nay, đã có trên 2/3 diện tích của Singapore trở  thành khu vực thu nước   thiên nhiên, với 15 hồ  chứa nước ngọt, hệ  thống sông ngòi, 7.000 km mương máng,   ống dẫn nước ngọt vào các hồ. Bên cạnh đó, Singapore vừa thực hiện một dự án với quy mô rất lớn, xây dựng  đập ngăn nước sông đổ  ra biển, đó là đập Marina  ở  cửa phía nam sông Singapore.   Người Singapore đã tiến hành xây dựng đập ngăn nước, tạo thành một hồ  chứa rộng   10.000 ha, tương đương 1/7 diện tích của quốc đảo này. Cùng với các hệ  thống công  trình được xây dựng trước đó, dự án này đã góp phần làm cho tỷ lệ cung cấp nước thu   từ thiên nhiên tăng lên chiếm đến 1/2 tổng lượng nước tiêu thụ ở Singapore. Bên cạnh   đó, năm 2007, Singapore khánh thành nhà máy lọc nước biển Singspring với công suất  136.000 m3/ngày, tổng kinh phí đầu tư  200 triệu đô Sing. Nguồn nước ngọt được lọc   từ biển đang cung cấp khoảng 10% lượng nước cho quốc gia này. Nhưng thành công lớn nhất trong việc giải bài toán về nguồn nước ở Singapore   chính là công nghệ  xử  lý nước thải thành nước tinh khiết. Năm 1987, ông Lý Quang  Diệu (khi đó là Thủ tướng của Singapore) đã từng mơ ước sau 20 năm sẽ có công nghệ  lọc nước thải thành nước sinh hoạt và người Singapore đã biến điều đó thành hiện   thực nhanh hơn mong muốn. Tháng 5 năm 2010, Singapore đã khánh thành nhà máy lọc   nước với công nghệ hiện đại và quy mô lớn nhất thế giới, có thể lọc được tất cả các  loại nước thải, kể cả nước từ nhà vệ  sinh, thành nước sạch tinh khiết. Hằng ngày, 5   nhà máy loại này ở Singapore cung cấp khoảng 230.000 m3, chiếm 30% tổng nước tiêu   thụ của nước này. Công nghệ đã giúp Singapore biến điểm yếu của mình thành cơ hội,   giúp nước này thu được những khoản tiền không nhỏ  từ  việc xuất khẩu kỹ  thuật tái  chế nước thải. Nước tinh khiết lọc từ nước thải có thể uống trực tiếp, sạch đến mức  Trang 18
  19. người Singapore phải bơm lên các đồi cây cho lọc tự  nhiên để  bổ  sung thêm khoáng   chất. Việc sản xuất, tìm kiếm thêm các nguồn nước chỉ là 1 mặt của vấn đề giải bài  toán thiếu nước ngọt  ở  Singapore, mặt thứ  2 chính là việc quản lý và sử  dụng tiết  kiệm nguồn nước. Trong nhiều năm qua, Singapore liên tục đưa ra các kế hoạch nhằm   khuyến khích công dân sử  dụng tiết kiệm nguồn nước. Những biện pháp Singapore  đang áp dụng cũng cơ  bản giống Việt Nam, đó là tính giá nước theo lũy tiến và thu   thêm các loại thuế, phí (thuế bảo vệ nguồn nước, phí sử dụng nước trên lượng nước   tiêu thụ). Tuy nhiên, hiện nay Singapore chỉ tính giá theo 2 mức tiêu thụ, mức từ 1 đến  40 m3 và mức trên 40 m3. Giá nước ở mức từ 1 đến 40 m3 là 1,17 đô Sing, trên 40 m3   là 1,4 đô Sing (khoảng 25.000 đồng), chưa kể  thuế  và phí. Tỷ  lệ  tiêu thụ  nước bình  quân theo đầu người  ở  Singapore trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhờ  ý   thức tiết kiệm nước của công dân, năm 1995 là 172 lít/ngày, năm 2000 là 165 lít/ngày,   năm 2011 là 153 lít/ngày và đích mới sẽ là 146 lít/ngày. Bên cạnh đó, Singapore cũng là  quốc gia có tỷ lệ thất thoát nước rất thấp, khoảng 4,6%, bằng với Nhật Bản. 4.2. So sánh với Việt Nam Qua sự phân tích và trình bày ở trên chúng ta phần nào hiểu được vệ  sinh cũng   như môi trường sống tại đất nước nhỏ bé Singapore. Còn tại Việt Nam có phần nào đó  trái ngược lại,đó là ý thức của người dân về vệ sinh môi trường chưa được cao, không   khó để  bắt gặp hình  ảnh người đi đường xả  rác một cách “vô tư”  ở  bất cứ  đâu: nơi  công cộng, nơi vỉa hè, trên đường đi, nơi trường học… Người ta cũng không mất một  nơron thần kinh nào để  suy nghĩ cho hành động thản nhiên đó của mình. Và không  dừng  ở  đó, nếu đã một lần đi xe khách bạn sẽ  được tận mắt chứng kiến việc góp   phần làm ô nhiễm môi trường của nhiều hành khách trên bất kì tuyến xe nào. Trên xe,   dường như hành khách luôn có cái “thú” ăn quà mà theo họ lí giải là “cho quên cái say   đi”. Điều đó không bàn làm gì, nhưng ăn xong, tiện tay họ xả  luôn rác qua cửa sổ  xe   không quản đó là loại rác gì: có thể  là lon nước, vỏ  bánh kẹo, hộp sữa hay cùi bắp,  thậm chí là khạc nhổ  vô tội vạ  xuống đường…. Đặc biệt hơn nữa trên các tuyến xe,  dù là xe đường ngắn hay đường dài, chủ xe luôn dự trữ cả bịch ni lông để phục vụ cho   Trang 19
  20. việc nôn ói của hành khách và cũng là cách mà họ giữ vệ sinh cho cá nhân nhà xe. Mỗi  khi hành khách nào đó có nhu cầu “ói” là họ  vội vàng đưa cho ni lông rồi nhắc nhở:   “Cho ra ngoài nhé!”. Cứ thế, đủ thứ rác “bay” ra ngoài và đáp xuống bất kì đâu, có khi   nó nằm yên ở một nơi vệ đường, có khi lại nằm gọn trên bụi cây. Nhưng tệ hơn nó lại   nhằm trúng vào người đi xe thô sơ khác… Lúc đó, mặc dù rất bức xúc, nhưng người đi   đường đành chịu . Xả rác không đúng nơi quy định đã như một thói quen của người dân, thói quen  xấu đó được hình thành từ  bé trong ý thức của mỗi người. Không khó để  thấy một   người mẹ dắt con đi công viên chơi, nhưng khi bóc kẹo cho con ăn bà không để  ý tới  hành động của mình, vứt luôn rác ra công viên mà không biết rằng đó là bài học bà đã  reo vào ý thức của con. Nhiều người cho rằng bảo vệ  môi trường là công việc của   những công nhân môi trường, vứt rác ra ngoài thì họ  đã nộp tiền rác hàng tháng, làm  sao phải suy nghĩ nhiều, đó là cách tạo công ăn việc làm cho công nhân môi trường cơ  mà. Quả  là họ  nói không sai, nhưng đó là những suy nghĩ trước mắt, và thiếu trách   nhiệm. Giá mà họ  nghĩ rằng công nhân môi trường càng “nhàn rỗi” càng có ích biết   bao. Vì những hành động thiếu văn minh đó mà nhiều nơi công cộng cũng trở thành bãi   rác, nhiều nơi “cấm đổ  rác”… cũng trở  thành bãi rác, và trên không trung nhiều khi   cũng… có rác. Chính vì vậy mà nhiều khi hình ảnh của Việt Nam bị “mất điểm” trong  mắt du khách nước ngoài, người ta sợ với “mức độ hồn nhiên” xả rác của người Việt  ra nơi công cộng. Trong khi cách khắc phục thì thật đơn giản. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lấy mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu hàng  đầu trong quá trình sản xuất hàng hóa không quan tâm đến vấn đề môi trường. Vì vậy   mà hiện nay tại các khu công nghiệp, các cơ  sở  sản xuất đã thải ra môi trường một   lượng nước và khí thải độc rất lớn. Vì với chi phí xử  lý nước thải 1 m3 có giá thành  dao động từ  4.000  đồng­15.000 đồng, nếu một nhà máy lớn như  Vedan, khu công  nghiệp Sonadezi Long Thành… thải ra mỗi ngày trên 5000m3 thì chi phí vận hành sẽ  phải bỏ ra hàng tháng cả  mấy tỷ đồng. Các nhà máy có lưu lượng nước thải lớn như  Vedan rất nhiều. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lương tâm thì không sao, nếu họ vì   lợi nhuận, sợ tốn kém do phải đầu tư  HTXLNT, vận hành hệ thống, mà đã lén lút xả  Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2