intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

237
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận với đề tài "Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore" gồm có 2 chương được trình bày như sau: Cơ sở lý luận, thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore

  1. Trang 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Các quốc gia trên thế  giới hình thành và phát triển theo các hình thức và giai   đoạn với các thể  chế  chính trị  khác nhau. Nhưng tất cả  các nhà nước đều thực hiện  chức năng quản lý hay cai trị và chức năng phụ vụ ở từng mức độ khác nhau, hai chức   năng này thể  hiện mối quan hệ  biện chứng mà nhà nước phải thực hiện nhằm đảm   bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Về mặt chức năng phụ vụ xã hội, nhà nước phụ  vụ công dân của mình trên các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội đáp ứng một cách  tối ưu nhất nhu cầu của người dân. Một hoạt động trong những hoạt động trong chức   phụ  vụ  của nhà nước mà chúng ta có thể  thấy rõ đó là hoạt động cung cấp dịch vụ  công của nhà nước cho công dân.  Cung cấp dịch vụ  công phụ  vụ  nhu cầu chung của người dân là tất yếu khách   quan và rất cần thiết trong xu thế hiện nay là nhà nước chuyển dần từ cai trị sang phụ  vụ. Việc cung  ứng và cải cách dịch vụ công hướng tới nâng cao chất lượng cung  ứng   dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công dân và xã hội là vấn đề mà được các   quốc gia trên thế giới đang quan tâm hiện nay. Với mục tiêu phát triển kinh tế ­ xã hội  vì con người, vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ  chức cung  ứng các  hàng hóa và dịch vụ  đáp  ứng các yêu cầu cơ  bản thiết yếu của công dân và tổ  chức   trong xã hội, bảo đảm trật tự và công bằng xã hội ngày càng được đề cao. Giáo dục là một trong những lĩnh vực rất quan trọng đối với mỗi quốc gia và nó   cũng chính là một trong những dịch vụ  công do nhà nước và tư  nhân cùng cung  ứng.   Hiện nay với nền kinh tế tri thức phát triển như vũ bão thì vai trò tri thức càng trở nên  quan trọng hơn bao giời hết. Các quốc gia đều chú trọng đàu tư  tăng cường cho nền  giáo dục của mình một cách mạnh mẽ  và phù hợp nhất đặt nền monhs cho sự  phát   triển đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, ngay từ  xa xưa các nhà  nước phong kiến với tư tưởng Nho giáo thì đều chú trọng đến giáo dục thi cử  và đến   ngày nay nhà nước ta luôn đặt giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trang 2
  3. NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. Cơ sở lý luận 1.1. Khái niệm 1.1.1. Dịch vụ Trong quá trình lao động sản xuất tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình,  con người đã tạo ra các sản phẩm khác nhau, trong đó có thể phân chia thành hai loại  chủ  yếu là các vật phẩm và các dịch vụ. Trong khi vật phẩm cụ  thể  như  bàn, ghế,  quần áo,… mang tính giá trị  sử  dụng thì các dịch vị  là những hoạt động để  thỏa mãn  các nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Chúng ta có thể thấy dịch vụ khác với  các loại hàng hóa truyền thống ở một số đặc điểm cơ bản sau: ­ Dịch vụ  là hành vi, những hoạt động thể hiện quan hệ trực tiếp giữa tổ chức   và cá nhân này với tổ chức và cá nhân khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ với tư cách   là khách hàng sử dụng dịch vụ. ­ Dịch vụ  là hàng hóa không thể  lưu trữ, khó vận chuyển và thường không có  tính đồng nhất. ­ Dịch vụ mang tính phi vật chất. => Dịch vụ là những hoạt động mang tính chất phụ vụ chuyên nghiệp nằm đáp  ứng nhu cầu nò đó của con người và xã hội. 1.1.2. Giáo dục Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc   biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ  của người dạy và người học theo  hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác  Trang 3
  4. động có ý thức từ  bên ngoài, góp phần đáp  ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của   con người trong xã hội đương đại. Theo  từ   "Giáo   dục"  tiếng   Anh   ­  "Education"   ­   vốn   có   gốc   từ   tiếng   La   tinh  "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách thức làm   bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục". Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá   trình truyền thụ, phổ  biến tri thức, truyền thụ  sự  suy luận đúng đắn, truyền thụ  sự  hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ  thế  hệ  này  đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực   tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương  pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến  những rèn luyện về  tinh thần, và làm chủ  được các mặt như: ngôn ngữ,tâm lý, tình   cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội. Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát  triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh. Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành  tố  có liên hệ  mang tính hệ  thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục,   phương pháp giáo dục,phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá. Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc   đời. (Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo  đó một số cha mẹ mởnhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ  trong bụng mẹ  với hy vọng   nó sẽ ảnh hưởng đến sự  phát triển của đứa trẻ  sau này). Với một số  người quá trình  đấu tranh giành giật sự  sống, giành giật sự  thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến   thức nhiều hơn cả  sự  truyền thụ  kiến thức  ở  các trường học. Các cá nhân trong gia  đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc   dù việc dạy dỗ trong gia đình có thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo   dục rất thông thường. Các cấp bậc học: Trang 4
  5. ­ Giáo dục phổ thông chính chủ yếu là việc khơi dậy những tri thức, kỹ năng cơ  bản, cần thiết, sát thực nhất để  học sinh có thể  áp dụng vào cuộc sống, nhằm thích   nghi và hòa nhập tốt với xã hội. + Giáo dục mầm non hay giáo dục tuổi ấu thơ là việc giáo dục trong những năm  tháng đầu đời, một trong những giai đoạn học hỏi, tiếp thụ nhiều nhất trong cuộc đời.   Giai đoạn này dạy cho trẻ biết các quy ước trong cuộc sống, các kỹ năng cơ bản thông   qua các trò chơi. + Giáo dục cơ sở là việc dạy cho các em những kiến thức cơ bản như đọc viết,  tính toán, tri thức về tự nhiên và xã hội. + Giáo dục trung học là việc giáo dục cho học sinh nâng cao những kiến thức   của mình và học tập các kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp cơ bản. ­ Giáo dục đại học: Giáo dục đại học là khơi dậy và nuôi dưỡng tính ham học hỏi của sinh viên,  hơn là truyền đạt kiến thức. Nói cách khác, trọng tâm việc giảng dạy là phải nhắm  đến mục tiêu nâng cao khả năng tự học của mỗi người. Giáo dục đại học, còn gọi là giáo dục bậc 3, giai đoạn ba hay là sau phổ thông,   thường được gọi như là hàn lâm, là một bậc giáo dục không bắt buộc 1.1.3. Dịch vụ công Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất được thừa nhận chung về dịch  vụ  công. Ngay cả  giữa các nhà nghiên cứu về  vấn đề  này cũng tồn tại nhiều quan  điểm chưa thống nhất về mặt phạm vi của dịch vụ công, cách thức phân loại cũng như  phương pháp cung ứng dịch vụ công. Dịch vụ công có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. + Theo nghĩa rộng nhất, dịch vụ công được hiểu là toàn bộ các hoạt động do nhà  nước đảm bảo để phụ vụ cho các quyền và nhu cầu hợp pháp của công dân và tổ chức   trong xã hội. + Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công là những hàng hóa và dịch vụ  do chính phủ  các  trách nhiệm cung cấp hoặc quản lý hoạt động cung cấp để đáp ứng nhu cầu cần thiết  của cộng đồng, phụ vụ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trang 5
  6. + Theo từ  điển Petit Larousse định nghĩa: Dịch vụ  công là hoạt động vì lợi ích   chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm . => Dịch vụ công là những hoạt động phụ vụ lợi ích chung thiết yếu các quyền   và nghĩa vụ  cơ  bản của tổ  chức và công dân do nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc   chuyển giao cho các cơ  sở  ngoài nhà nước thực hiện nhằm thực hiện mục tiêu hiệu  quả và công bằng xã hội. 1.2. Sự cần thiết của hoạt động cung ứng dịch vụ công Trong quá triển của xã hội con người lao động và sản xuất tạo ra những sản   phẩm đáp  ứng nhu cầu của mình. Nhu cầu của mỗi người rất đa dạng và phong phú   cần được đáp ứng một cách kịp thời và hợp lý, một cá nhân hay tổ  chức không thể  tự  lao động, sản xuất là có thể đáp ứng được tất cả các nhu cầu của mình mà cần có sự  trao đổi, đáp ứng từ các chủ  thể khác trong xã hội. Nhà nước là một trong những chủ  thể trong xã hội tham gia vào quá trình cung ứng các dịch vụ cơ bản đáp ứng nhu cầu   của cá nhân và tổ  chức trong xã hội. Nhà nước cung  ứng đáp  ứng nhu cầu củ  xã hội  xuát phát từ  vai trò, chức năng của nhà nước, hoạt động cug  ứng dịch vụ công là một   trong những hoạt động thường xuyên của hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.   Thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ công nhà nước nhìn nhận một cách khách quan  về nhu cầu của xã hội, về cách thức và phương pháp cung ứng dịch vụ để từ đó có thể  khắc phục và loại bỏ các điểm hạn chế đáp ứng nhu cầu của xã hội một cách tốt hơn. Dịch vụ công có ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống của người dân và sự phát triển   kinh tế ­ xã hội nói chung, nên việc cung cấp và bảo đảm các dịch vụ  một cách hiệu   quả và đầy đủ là một dấu hiệu thể hiện chất lượng của bộ máy hành chính tốt. Dịch   vụ  công phu vụ  nhu cầu chung thiết yếu của cả  cộng đồng, phụ  vụ  các đối tượng   trong xã hội một cách công bằng xã hội, mọi người đều có quyền thừa hưởng ngang  nhau trong quá trinh tiếp cận và sử dụng. Trong xã hội, không phải bất cứ hàng hóa và dịch vụ nào mà khu vực tư nhân có  thể  cung  ứng và cung  ứng một cách tốt nhất. Có những dich vụ  mà khu vực tư  nhân   Trang 6
  7. không muốn làm do không có lợi nhuận, mà mục tiêu của khu vực tư  là lợi nhuận do   vậy mà có những dịch vụ  như  y tế, điện, nước… có những dịch vụ  mà khu tư  không   thể  làm do có vốn đầu tư  lớn và cần có sự  kết hợp của nhiều chủ  thể  tham gia như  giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế…có những dịch vụ mà chỉ có nhà   nước mới cung ứng mà khu vực tư không được phép làm như đảm bảo an ninh trật tự  của lượng công an, cảnh sát và quân đội… Do vậy mà vai trò của nhà nước trong quá trình cung  ứng dịch vụ  công là rất  quan trọng và cần thiết không những đáp ứng nhu cầu của xã hội mà còn đảm bảm cho   sự ổn định và phất triển đất nước. Chương 2. Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore Singapore: là nơi cư  ngụ  của nhiều dân tộc, với khoảng 77% người Hoa, 14%   người Mã Lai, 8% người  Ấn Độ, và 1 % là người Âu Á của các nước khác. Với sự đa   dạng về  văn hóa, Singapore còn là đất nước đa tôn giáo. Tôn giáo chính là phật giáo   (42,5%), Hồi giáo(14,9%), Cơ  Đốc Giao (14.6%), Lãnh Giao (8.5%), và  Ấn Độ  giáo  (4%). Những tôn giáo khác bao gồm đạo Sikh, đạo Do Thái và đạo Thờ  Lửa. Những   người không theo đạo chiếm khoảng 14.8%. Quốc ngữ  của Singapore là tiếng Malay   và ngôn ngữ  chính cho việc trao  đổi kinh doanh, hành chính và giảng dạy tại các   trường học là tiếng Anh. Singapore có 4 ngôn ngữ  chính thức là tiếng Mã Lai, tiếng   phổ  thông (Mandarin), tiếng Ta­min và tiếng Anh. Singapore là một đảo quốc nhỏ  bé  với tổng diện tích là 685,4km2 hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, thậm chí nước   dùng hàng ngày cũng phải nhập khẩu… nhưng lại là một trong những nền kinh tế tiên  tiến hàng đầu thế  giới. Điều gì đã làm nên sự  kỳ  diệu này? Phần lớn là nhờ  nguồn  nhân lực ­ nguồn tài nguyên quý giá và duy nhất của Singapore. 2.1. Thực trạng cung ứng dịch vụ 2.1.1. Chủ thể cung ứng dịch vụ và đối tượng thụ hưởng ­ Chủ thể cung ứng:  Trang 7
  8. + Khu vực công (Nhà nước) : Đứng đầu chịu trách nhiệm quản lý là Bộ  giáo   dục. + Khu vực tư: Tổ chức hoặc cá nhân thành lập.  ­ Đối tượng thụ hưởng: Tất cả công dân trong và ngoài nước đủ  điều kiện đều   có thể theo học tại các trường công hoặc tư tại đây. 2.1.2. Nội dung, chất lượng dịch vụ cung ứng a) Hệ thống giáo dục:   Mẫu giáo Giáo dục mẫu giáo được cung cấp bởi các trung tâm nhà trẻ hoặc các trung tâm  chăm sóc trẻ  em bao gồm các chương trình 3 năm cho trẻ  em tuổi từ  3 đến 6 tuổi.  Được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép, các nhà trẻ tại Singapore được hoạt động bởi  các tổ chức cộng đồng, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức kinh tế xã hội. Các trung tâm  sức khỏe trẻ em được đăng kí bởi Bộ Phát triển cộng đồng và Thể  thao. Hầu hết các  nhà trẻ  hoạt động 2 buổi một ngày, mỗi buổi từ  2,5  đến 4 giờ, 5 ngày một tuần.   Chương trình nói chung bao gồm các chương trình tiếng Anh và một ngôn ngữ thứ hai,  ngoại  trừ   những  trường quốc   tế   và  hệ   thống giáo dục  nước  ngoài,  nơi có  những  chương trình cho trẻ  em nước ngoài định cư  tại Singapore. Thời gian đăng kí vào các  trung tâm chăm sóc trẻ em và nhà trẻ là khác nhau và tùy thuộc từng nơi. Hầu hết ở các  trung tâm chăm sóc trẻ em nhận các em quanh năm tùy thuộc vào việc còn chỗ không.   Trường tiểu học  Trẻ em Singapore phải trải qua 6 năm học tiểu học bao gồm 4 năm học cơ bản   từ  lớp 1 đến lớp 4 và 2 năm định hướng là từ  lớp 5 đến lớp 6 . Ở  những năm học cơ  bản các khoá học chính bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ  đẻ, toán học, cùng với những  môn học phụ như là âm nhạc và nghệ  thuật thể dục và xã hội. Bắt đầu từ  năm thứ  3   có các môn khoa học. Để phát triển hết khả năng của học sinh, các em được phân lớp  theo năng lực học của mình trước khi vào giai đoạn định hướng. Cuối lớp 6 học sinh  sẽ  tham dự  kỳ thi vượt cấp. Chương trình tiểu học của Singapore đã được ứng dụng  Trang 8
  9. như là một hình mẫu quốc tế, đặc biệt là phương pháp dạy toán. Học sinh nước ngoài   được nhận vào trường tiểu học nếu trường còn chỗ.  Trường trung học Các trường trung học tại Singapore có thể là được chính phủ chi phí, hỗ trợ hay   tồn tại độc lập. Học sinh học 4 hoặc 5 năm giáo dục trung học theo các khoá học đặc  biệt, cấp tốc hoặc bình thường. Các khoá học đặc biệt và cấp tốc chuẩn bị  (trong 4   năm) cho học sinh thi lấy chứng chỉ chung Singapore ­ Cambridge  ở bậc giáo dục GCE  “O” (O ­ “Orinary”). Học sinh theo các khóa học bình thường có thể lựa chọn khối cơ  bản hoặc khối kỹ  thuật, cả  hai đều chuẩn bị  cho học sinh thi lấy chứng chỉ  chung   Singapore ­ Cambridge  ở bậc giáo dục GCE “N” (N ­ “Normal”) sau 4 năm học và sau   năm thứ 5 sẽ thi lấy chứng chỉ GCE “O”. Chương trình giáo dục phổ thông bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ, khoa học và  nhân văn.  Ở năm trung học thứ  3, học sinh có thể  lựa chọn khóa học tùy theo các em   đang   ở   khối   nào   trong   các   khối   nghệ   thuật,   khoa   học,   thương   mại   hay   kỹ   thuật.   Chương trình trung học của Singapore được công nhận trên thế giới bởi khả năng giúp  học sinh phát triển cách nghĩ phê phán và kỹ  năng tư  duy. Học sinh nước ngoài được   nhận vào trường trung học cơ sở nếu trường còn chỗ.   Học dự bị đại học Sau khi hoàn thành kì thi chứng chỉ GCE “O”, sinh viên có thể nộp đơn vào các  trường gọi là “junior college” cho một khoá học 2 năm hoặc các viện học tập trung cho   một khoá học 3 năm dự bị đại học. Các trường và viện nói trên chuẩn bị cho sinh viên  bước   vào   các   trường   đại   học   và   đặt   nền   tảng   cho   giáo   dục   cấp   trên   phổ   thông.   Chương trình gồm hai môn bắt buộc: Viết luận đại cương và tiếng mẹ đẻ, và tối đa 4   chứng chỉ chung Singapore ­ Cambridge của bậc giáo dục GCE “A” (A – “Advance”) từ  các môn nghệ  thuật, khoa học, hoặc thương mại. Cuối một khoá dự  bị  đại học sinh   viên phải thi lấy chứng chỉ GCE “A” . Sinh viên nước ngoài được nhận vào học dự bị  đại học tùy thuộc việc còn chỗ hay không.  Các trường Bách khoa Trang 9
  10. Các trường Bách khoa được thành lập tại Singapore để  cung cấp cho sinh viên   chương trình theo hướng thực hành ở bậc cử nhân. Hiện tại có 5 trường Bách khoa tại   Singapore: ­ Trường BK Nanyang ­ Trường BK Ngee Ann ­ Trường BK Republic ­ Trường BK Temasek. ­ Trường BK Temasek Các trường này cung cấp hàng loạt các khoá học như  là kỹ  thuật, kinh doanh,  thông tin đại chúng, thiết kế và giao tiếp thông tin. Cũng có các khoá học chuyên ngành   như  là nhãn khoa, kỹ  thuật hàng hải, đại dương học, y tá, giáo dục tiểu học và điện  ảnh cho những ai muốn theo đuổi một nghề  nghiệp cụ  thể. Sinh viên tốt nghiệp đã  chứng minh việc họ được các nhà tuyển dụng ưa thích vì họ nổi lên trong môi trường  làm việc với những kỹ năng và kinh nghiệm phù hợp với nền kinh tế mới.   Các viện giáo dục kỹ thuật  Viện giáo dục kỹ  thuật là một lựa chọn sau giáo dục phổ  thông cho những ai  muốn phát triển kỹ  năng kỹ  thuật và kiến thức trong các lĩnh vực công nghiệp khác   nhau. Bên cạnh việc cung cấp những khoá học chính qui (“full time”) và các chương  trình thực tập cho những học sinh tốt nghiệp trung học, viện giáo dục kỹ  thuật còn  cung cấp những chương trình giáo dục chuyển tiếp cho những người đã đi làm. + Các trường đại học: Có 3 trường đại học tại Singapore: ­ Đại học quốc gia Singapore (NUS) ­ Đại học kĩ thuật Nanyang (NTU) ­ Đại học quản lý Singapore (SMU) Các trường này cung cấp hệ thống giáo dục toàn diện với bằng cấp được quốc   tế công nhận. Những cơ hội về học bổng và nghiên cứu sau đại học cũng có sẵn cho   sinh viên sau tốt nghiệp. Từ khi thành lập vào năm 1905, NUS đã mở  rộng thành một   Trang 10
  11. trường toàn diện cung cấp nhiều môn học thuộc các chuyên ngành chính như khoa học,  kỹ thuật, công nghệ, luật, khoa học nghệ thuật và xã hội, y học. NTU được thành lập vào năm 1981 nhằm cung cấp những phương tiện thuận   lợi cho giáo dục cấp trên phổ  thông và nghiên cứu kỹ  thuật ­ công nghệ. Trường đã  được hợp nhất với Viện Giáo dục quốc gia (NIE) ­ đại học sư phạm ­ và mở  rộng để  bao gồm các ngành học Kiểm toán, Kinh doanh và Truyền thông. SMU được thành lập vào năm 2000 là trường dân lập đầu tiên có các khoá học   vê kinh doanh và quản trị.  Các trường đại học quốc tế tại Singapore  Ngoài các trường địa phương, các trường đại học cấp quốc tế đã góp phần nâng   cao đẳng cấp và phạm vi giáo dục cấp trên phổ thông ở Singapore. Một ví dụ là trường  đào tạo MBA châu Âu có tên là INSEAD đã đầu tư  60 triệu $ Singapore trang thiết bị  vào một trung tâm khoa học để thành lập trường kinh doanh quốc tế đầu tiên tại Châu  Á. Năm 2000, trường Quant trị kinh doanh Chicago đã chọn Singapore để đầu tư và trở  thành trường Quản trị kinh doanh Mỹ hàng đầu đầu tiên có trụ sở tại châu Á.  Các trường đại học quốc tế  hàng đầu khác đã hợp tác với các trường đại học   trong nước để đặt trụ sở tại Singapore là: ­ Viện công nghệ Gor – Viện Logistic, Châu Á ­ Thái Bình Dương. ­ Trường ĐH Jonhs Hoopin của Singapore ­ Johns Hopkins Singapore ­ Viện công nghệ Massachuset (MIT) ­ hợp tác Singapore ­ MIT ­ Trường ĐH Shanghai Jiao Tong ­ Trường ĐH Stanford ­ hợp tác Singapore – Standford ­ Trường ĐH Wharton thuộc ĐH Pennsylvania – Trung tâm nghiên cứu SMU  Wharton ­ Trường ĐH kỹ thuật Eindhoven (Đức) ­ Trường ĐH khoa học và kỹ thuật Muenchen (Đức)   Các trường tư thục Trang 11
  12. Tại Singapore, một hệ thống các trường tư thục rất đa dạng cung cấp hàng loạt   chương trình đào tạo làm phong phú thêm lĩnh vực giáo dục của quốc gia này. Có trên  300 trường về ngôn ngữ, công nghệ thông tin, thương mại, nghệ thuật. Những trường   này cung cấp các chương trình học chủ  yếu căn cứ  nhu cầu của sinh viên trong nước   và quốc tế.  Các trường tư  thục này cung cấp các khoá học đa dạng  ở  các trình độ  độ  ĐH  học và sau ĐH. Thông qua hợp tác với các trường ĐH nổi tiếng của Anh, Mỹ , Úc…  các trường này cung cấp cho sinh viên cơ  hội giành các chứng chỉ  quốc tế  trong môi  trường tiện nghi và đầy đủ. Mỗi trường tự thực hiện tuyển sinh đầu vào và những sinh  viên quan tâm sẽ trực tiếp đến đăng kí. Khi chọn học tại một trường tư thục, bạn cần   chắc chắn rằng trường đó phải đáp ứng được sự mong đợi của bạn về các yếu tố sau: ­ Các khoá học. ­ Các chứng chỉ bạn đạt được có tính phổ biến rộng rãi hay không. ­ Trang bị trường học (lớp học, thiết bị máy tính…). ­ Các dịch vụ dành cho du học sinh (nhà ở, dịch vụ về visa, định hướng cho sinh   viên, hướng dẫn sinh viên...). b) Chương trình giảng dạy: Hệ thống giáo dục tại Singapore là một hệ thống đã được thử  nghiệm và kiểm   tra. Nó hướng đến việc nuôi dưỡng và đào tạo mỗi cá nhân phát triển hết tiềm năng  của bản thân. Sinh viên học tại Singapore sẽ  rất thích thú với chương trình học tập  hàng đầu thế giới được xây dựng nên từ kinh nghiệm đào tạo đa dạng. Giáo dục ở bậc  mầm non giúp trẻ em ở giai đoạn nền tảng này phát triển về ngôn ngữ và các kỹ năng   đọc, các khái niệm về  khoa học và số  học, các kỹ  năng về  xã hội và sự  thưởng thức   âm nhạc, các hoạt động và cách thức vui chơi.  Giáo dục tiểu học giúp tạo một nền tảng cho học sinh, giúp các em ghi nhớ  ngôn ngữ cơ bản, kiến thức khoa học và số học. Giáo dục phổ thông cơ sở là quá trình   xây dựng cốt lõi cho nền tảng giáo dục bằng việc giới thiệu các môn học là trọng tâm  cho sự phát triển cá nhân như các môn khoa học ứng dụng và nhân văn. Việc phân lớp   Trang 12
  13. được thực hiện ở các cấp lớp khác nhằm giúp học sinh có thể học tập theo tốc độ phù   hợp và đáp ứng được lợi ích của từng cá nhân.  Ở cấp sau trung học cơ sở, học sinh có thể theo học chương trình chuẩn bị đại  học hay chương trình chuẩn bị cho một ngành nghề mà các em có thể đóng góp cho xã   hội một cách có ý nghĩa.  Hệ đại học và cao đẳng trang bị cho học sinh vốn kiến thức và kỹ năng giúp họ  đào sâu kiến thức của mình  ở  mức độ  cao hơn. Sinh viên có thể  chọn từ  vô số  các  chương trình học từ  5 trường Cao đẳng của Singapore, 4 đại học quốc gia và các  trường đại học nước ngoài hàng đầu thế  giới có cơ  sở  tại Singapore và rất nhiều các   trường tư thục khác.  c) Phương pháp giảng dạy: Tại Singapore hệ thông giáo dục được áp dụng phương pháp giảng dạy “dạy ít,  học nhiều” Theo phương pháp “Dạy ít, học nhiều”, giáo dục Singapore tập trung nâng  cao chất lượng học tập của sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng trống” trong  chương trình học để giáo viên có thể thực hiện những kế hoạch giảng dạy riêng, cùng  sinh viên định hình một môi trường giáo dụcriêng và bồi dưỡng nghiệp vụ. Với mô  hình “Dạy ít, học nhiều”, kiểu học vẹt, học vì thành tích và phong cách giảng dạy  “dành cho với tất cả mọi người” sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ động hơn  trong học tập, khám phá tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, học các   kỹ năng sống và xây dựng nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng tạo. Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn diện để  phát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành công trong tương lai. Mô hình “Dạy ít, học nhiều” đã được áp dụng  ở  nhiều trường học Singapore,   đơn cử  như  Trường trung học Bedok South, học sinh được học làm phim và thiết kế  poster cho Quỹ  Trái tim Singapore, thiết kế  bộ  sạc điện thoại nhờ  phần mềm máy   tính… Không chỉ thế, trường học còn tạo điều kiện để các em biến thiết kế của mình  thành sản phẩm thực sự. Với những hoạt động như  vậy, học sinh đã đồng thời được  học nhiều môn học khác nhau: Âm nhạc, nghệ  thuật, thiết kế, công nghệ. Mô hình   “Dạy ít, học nhiều” được thực hiện từng bước một chứ  không phải là một bước   Trang 13
  14. chuyển đột ngột. Một ví dụ  về  việc thực hiện mô hình này là sự  ra đời của chương   trình “Project Work” vào năm 2000, cho phép sinh viên học cách làm việc nhóm và áp   dụng kiến thức vào thực tế. Theo Bộ  GD Singapore, Project Work là một phương pháp đào tạo, theo đó các  môn học sẽ  được tích hợp, kết nối với nhau giúp sinh viên khám phá sự  gắn kết và   thống nhất giữa chúng. Project Work sẽ giúp sinh viên phát triển kỹ  năng trong 4 lĩnh  vực sau: + Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học các kỹ  năng nghiên cứu cơ  bản, áp  dụng và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học khác nhau và tạo mối liên hệ  giữa  chúng. + Truyền thông: Sinh viên học cách truyền đạt ý tưởng một cách rõ ràng và hiệu  quả. + Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng xã hội thông qua các bài tập làm việc  nhóm nhằm đạt mục tiêu chung. + Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách nhiệm và tự  quản lý sự  học của  mình, phát triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực. d) Nơi ở của Sinh viên: Sắp xếp nơi ăn ở là công việc quan trọng đối với sinh viên khi sống xa nhà. Ở  Singapore, có nhiều hình thức nơi  ở  khác nhau phù hợp với nhu cầu và ngân sách đa  dạng của sinh viên.  Phần lớn các trường đều có Văn phòng Sinh viên Quốc tế  chịu trách nhiệm về  việc đáp  ứng các nhu cầu của sinh viên quốc tế. Nhân viên tại các văn phòng này sẽ  cho bạn những lời khuyên về  thủ  tục thuê nơi  ở, các địa chỉ  liên hệ  với các nơi cho   thuê nhà riêng, tìm kiếm bạn cùng phòng, những lời khuyên bổ  ích về  việc thuê nhà  cũng như giúp bạn chọn hình thức nơi ở phù hợp nhất với nhu cầu của bạn.  Một số hình thức nơi ở dành cho snh viên quốc tế:  * Khu nhà Sinh viên và Ký túc xá: Sinh viên Quốc tế năm thứ nhất thường được ưu tiên khi nộp đơn đăng ký nơi ở  trong khuôn viên trường học. Bạn có thể ở phòng riêng hay ở chung với các bạn khác.  Trang 14
  15. Các bữa ăn có thể  do trường cung cấp nhưng bạn phải trả thêm chi phí này. Khu nhà  Sinh viên có đầy đủ tiện nghi như phòng xem tivi, phòng đọc sách, phòng giặt quần áo,  phòng máy tính, bếp nhỏ  và những thứ  khác. Các dịch vụ  phúc lợi và các hoạt động   sinh hoạt nhóm cũng được trường tổ chức cho học sinh tại đây.  Giá thuê phòng từ  140 ­ 440 đôla Singapore một tháng tuỳ  thuộc vào số  lượng  sinh viên thuê chung phòng.  * Trường Nội trú: Trường nội trú thường dành cho học sinh Trung học cơ  sở  và Trung học phổ  thông với độ tuổi từ 13 đến 19. Việc lựa chọn nơi ở thường được thông qua thảo luận  với cả cha mẹ và các em học sinh. Các dịch vụ tại trường nội trú bao gồm phòng ở, ăn  uống, giặt  ủi, dịch vụ  an ninh 24/24 giờ, tư vấn giúp đỡ, học phụ  đạo, giám sát học  sinh, các hoạt động thể thao và vui chơi. Trong các trường nội trú luôn tồn tại tình bạn  hữu thân thiết xuất phát từ  việc kết bạn và mối quan hệ  ràng buộc giữa các học sinh   nội trú. Mức giá thuê nằm trong khoảng từ 8,000 đến 15,000 đô la Singapore một năm  học.  * Khu ký túc xá tư nhân:  Ký túc xá tư  nhân do trường học hay các công ty tư  nhân quản lý. Bạn có thể  chọn ở phòng riêng hay phòng chung.  * Ở nhà dân: Một số  gia đình Singapore tiếp nhận sinh viên Quốc tế  đến sống và cung cấp  các dịch vụ  như  hình thức ở nội trú. Chi phí của hình thức nhà ở  này trong khoảng từ  500 đến 1,000 đô la Singapore mỗi tháng.  * Nhà ở/ Căn hộ tư nhân: Sinh viên có thể thuê một phòng hay một căn hộ hoặc thuê hẳn một căn nhà trực   tiếp từ  người chủ  căn nhà thuộc diện nhà của nhà nước hay của tư  nhân. Nếu chọn   hình thức nơi  ở  này, bạn sẽ  được yêu cầu trả  trước ít nhất là một tháng tiền nhà và  một tháng tiền đặt cọc.  Thông thường, Văn phòng Sinh viên Quốc tế  của trường sẽ  cung cấp cho bạn  địa chỉ các dịch vụ cho thuê nhà để giúp học sinh tìm được nơi ở  tốt. Các mẫu quảng   Trang 15
  16. cáo rao vặt trên các tờ báo địa phương là nguồn thông tin tốt nhất để có danh sách các   căn hộ  và phòng cho thuê. Một cách khác là bạn có thể  liên hệ  với công ty JTC(JTC  Corporation).  * Khách sạn: Đối với những người theo học khoá ngắn hạn như chương trình đào tạo cán bộ  điều hành sẽ có rất nhiều khách sạn để lựa chọn. Giá thuê phòng khách sạn tuỳ thuộc  vào vị trí và loại khách sạn sử dụng.  * Các khu căn hộ có người phục vụ: Đối với những người  ở lại trong một thời gian tương đối dài hoặc có gia đình   cùng đi thì sự lựa chọn tốt nhất là thuê căn hộ có người phục vụ. Hình thức nơi ở này   có tất cả sự thoải mái như một căn nhà và sự tiện lợi như ở khách sạn. d) Học phí và học bổng: * Học phí năm 2012 của Trường đại học Curtin Singapore: Tên chương trình Thời lượng  Thời  Học Học Học Học Học Học Học phí (full time) lượng  kỳ 1 kỳ 2 kỳ 3  kỳ 4  kỳ 5 kỳ 6 (SG$) (part time) (SG$) (SG$) (SG$) (SG$) (SG$) SG$) Chứng Chỉ IV  2 kỳ (8  6,400 6,400 12,800 Chương trình chuẩn  tháng) bị đại học Văn bằng Thương  2 kỳ (8  ­ 8,280 8,280 16,560 mại tháng) Cử nhân Nghệ thuật  2 kỳ (8  ­ 7,880 7,880 15,760 (Mass Truyền thông) tháng) Cử nhân Thương  6 kỳ (2 năm) 12kỳ (4  8,280 8,280 8,280 8,280 8,280 8,280 49,680 mại  năm) Tất cả các chuyên  ngành và chuyên  ngành tăng gấp đôi Cử nhân Khoa học  ­ 4 kỳ (1,5  3,900 3,900 3,900 3,900 15,600 (Nursing) Chương  năm) trình chuyển đổi cho  y tá có đăng ký Thạc sĩ Kế toán 3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2  10,000 10,000 10,000 30,000 năm) Giấy chứng nhận tốt  1 kỳ (4  2 kỳ (8  10,000 10,000 nghiệp ngành Tài  tháng) tháng) chính Thạc sĩ Tài chính 3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2  10,000 10,000 10,000 30,000 năm) Văn bằng tốt nghiệp  2 kỳ (8  4 kỳ (1,5  10,000 10,000 20,000 trong kinh doanh  tháng) năm) Trang 16
  17. quốc tế Thạc sĩ Kinh doanh  3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2  10,000 10,000 10,000 30,000 quốc tế năm) Thạc sĩ Logistics  2 kỳ (8  4 kỳ (1,5  10,000 10,000 20,000 (Supply Chain  tháng) năm) Management)** Thạc sĩ Y học lao  ­ 6 kỳ (2  4,750 4,750 4,750 4,750 4,750 4,750 28,500 động và an toàn năm) Văn bằng tốt nghiệp  ­ 4 kỳ (1,5  4,750 4,750 4,750 4,750 19,000 Y tế và An toàn nghề  năm) nghiệp Giấy chứng nhận tốt  ­ 2 kỳ (8  4,750 4,750 9,500 nghiệp Y tế và An  tháng) toàn nghề nghiệp Thạc sĩ Khoa học:  ­ 6 kỳ (2  4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 29,400 Lãnh đạo lâm sàng năm) Thạc sĩ Vật lý trị  ­ 4 kỳ (2  4,200 8,400 8,400 12,600 33,600 liệu lâm sàng: thao  năm) tác trị liệu Thạc sĩ điều dưỡng  ­ 6 kỳ (2  4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 29,400 (theo học) năm) * Học bổng:  Các dạng học bổng chủ yếu: ­ ASEAN Undergraduate Scholarship: toàn bộ học phí và 4.300SGD/năm tiền ăn  ở. Loại này chỉ được xét khi bạn đã được nhận vào trường, dựa trên thành tích và kết  quả  phỏng vấn. Bạn phải đạt điểm trung bình >= 3.5 (trên 5) để  được giữ  học bổng   này sau mỗi học kỳ, nếu mất thì phải vay tiền cho những học kỳ sau. ­ Học bổng cho riêng Business, giá trị  cũng tương đương như  MFA scholarship,   cũng có thi và các bạn nộp hồ sơ xét duyệt từ trường đại học của mình (thường thì các   trường như Kinh Tế, Ngoại Thương... sẽ cung cấp thông tin). ­ Các học bổng của công ty: thường các công ty clớn, cấp học bổng rất hấp dẫn   (luôn là tất cả học phí và số tiền ăn ở  khá lớn), bạn chỉ việc làm cho họ  3, 4 năm sau   khi tốt nghiệp. Cái khó là nắm thông tin công ty nào cho, khi nào là hạn chót, và cho   sinh viên nước ngoài không nhiều lắm. 2.1.3. Ưu điểm và hạn chế a) Ưu điểm: * Cơ sở vật chất:  Trang 17
  18. Singapore là đất nước có nền giáo dục chất lượng cao với hệ thống các trường  quốc lập được xếp hạng cao trên thế giới. Các trường này cung cấp cho học sinh một   môi trường học tập thực sự lý tưởng với hệ thống giáo trình phong phú, máy móc thiết   bị hiện đại hỗ trợ cho giảng dạy và học tập. Cũng chính vì được học tập và thực hành  nhiều trên các thiết bị máy móc thực tế mà sinh viên các trường này sau khi tốt nghiệp  rất thành thạo, chuyên nghiệp trong công việc, đồng thời có thể  hoà nhập rất nhanh  với xu thế phát triển công nghiệp của xã hội hiện đại.  Hệ  thống thư  viện, phòng học tại đây rất hiện đại và tiện nghi với hệ  thống   phòng đọc, phòng học, phòng chơi nhạc, phòng computer lab với mạng internet phục  vụ  miễn phí giúp cho sinh viên dễ  dàng tra cứu tài liệu và thực hành việc học ngôn   ngữ. Chỉ riêng trường Đại học NUS đã có khoảng 6 thư viện, mỗi thư viện có ít nhất  100 máy vi tính nối mạng internet. Đó là chưa kể đến các phòng computer lab cho sinh   viên, riêng khoa Cơ khí của trường này đã có tới hơn 400 máy tính hiện đại. Sinh viên  đến từ  trường đại học UC Backeley, Stanford, ­ Mỹ  tham gia chương trình Student  exchange tại NUS đã nhận xét rằng phương tiện kỹ  thuật của trường này hơn hẳn  trường   mình.   Bên   cạnh   đó,   yêu   cầu   cơ   bản   cho   tất   cả   sinh   viên   khi   học   tập   tại   Singapore là phải có máy vi tính xách tay vì cường độ và số lượng bài tập mà các sinh  viên phải làm là rất nhiều. Ngoài ra sinh viên cũng phải sử  dụng máy tính để kết nối  internet truy cập các thông tin cần thiết, đọc bài giảng của giáo viên cũng như  liên hệ  với giáo viên khi các em không đến lớp. “Thiếu máy tính xách tay làm sao chúng tôi tồn   tại với cường độ học tập ở đây được nhỉ?” Sinh viên Chan Win người Myanmar trả lời  vui khi được hỏi có cần thiết phải có máy tính xách tay không. Tiền mua máy vi tính có   thể vay từ các trường. * Phương pháp giảng dạy:  Trong thời gian học tập, sinh viên không bắt buộc phải tham dự tất cả các buổi  giảng bài của giáo viên. Các em có thể ở nhà tự học, có thể lên thư viện hoặc học qua   băng ghi hình bài giảng trên lớp... nhưng với bất cứ hình thức nào cũng phải đảm bảo   tiếp thu đầy đủ lượng kiến thức của chương trình. Phương pháp giảng dạy ở đây cũng   rất khác biệt vì nó nâng cao khả  năng độc lập và tự  chủ  của sinh viên. Không chỉ  tự  Trang 18
  19. chủ  với lượng kiến thức mà mình tiếp thu các em cũng học được cách biến những  kiến thức đó thành của mình và tự  tin thể  hiện nó. Tự  tổ  chức các buổi thuyết trình  (presentation) là một hoạt động thường xuyên và bắt buộc đối với sinh viên, để chứng   minh lượng kiến thức lĩnh hội qua các bài giảng.  * Đội ngũ giảng viên:  Giáo  viên  tham   gia   giảng  dạy  tại  các   trường   quốc   lập  Singapore   thường  là  những giáo sư đầu ngành. Ngoài sự tin cậy và phong phú về tri thức, các thầy cũng sẵn   lòng giúp đỡ sinh viên ngoài giờ học khi các em có những thắc mắc cần giải đáp. Giao  tiếp giữa thầy và trò cũng cởi mở và gần gũi. Các sinh viên có thể thẳng thắn trao đổi,   bày tỏ ý kiến, thái độ về một vấn đề gì đó với giáo viên mà không sợ mất lòng hay bị  "trù". Vào giờ nghỉ thầy trò có thể mời nhau đi ăn trưa, đi uống cafe... * Chính sách khuyến khích: Chính phủ  Singapore luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của quốc gia,   trong nhiều năm qua, Singapore luôn có nhiều chương trình học bổng hỗ trợ sinh viên   quốc tế theo học tại nước này, trong đó có Việt Nam. Những sinh viên có học lực tốt  nhưng điều kiện gia đình không dư giả vẫn có thể theo học tại các trường đại học có   chất lượng và uy tín tại Singapore. Chính phủ  Singapore có chính sách khuyến khích  đặc biệt dành cho sinh viên quốc tế  như  tài trợ  không hoàn lại 80% học phí, cho vay   75% số học phí còn lại là cơ hội vàng cho những bạn sinh viên mong muốn đi du học. Đối với các du học sinh Chính phủ Singapore cũng có những chính sách khuyến   khích và thu hút học tập như:  + Không yêu cầu chứng minh tài chính. + Không yêu cầu chứng chỉ tiếng Anh IETLS / TOEFL khi đăng ký xin học. + Thủ tục hồ sơ đơn giản. + Tiến trình làm hồ sơ nhanh gọn. * Chi phí:  Trang 19
  20. Bộ  GD giành khoảng 40 triệu đô la Singapore để  xây dựng cơ  sở  vật chất cho   trường học nhằm đảm bảo tính chủ động của giáo viên và học sinh. Các trường có thể  được trang bị các lớp học đặc biệt phù hợp với cả hoạt động tập thể, hoạt động nhóm,  “phố sinh thái” để học về khoa học tự nhiên, hoặc một nhà hát để học nghệ thuật biểu   diễn. Học phí đại học dao động từ  26.000 SGD – 35.000 SGD một khóa – Chương   trình thạc sĩ các chuyên nghành từ 18.000 SGD – 23.000 SGD/ khóa. Chi phí sinnh hoạt bao gồm ăn, ở, đi lại, bảo hiểm,...từ 750 SGD – 2.000 SGD/   tháng tùy loại hinh nhà ở, các sinh hoạt của mỗi cá nhân. b) Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động cung ứng giáo dục ở Singapore   cũng có những hạn chế nhất định mà cần phải khắc phụ trong thời gian tới.  * Phương pháp giảng dạy:  Mặc cho nhiều nỗ lực cải cách, áp lực thi cử  tiếp tục làm đau đầu những nhà  hoạch định chính sách giáo dục  ở  đảo quốc Sư  Tử. Còn nhớ  vài năm trước,  ở  Việt  Nam từng có một cuộc tranh luận sôi nổi giữa thi trắc nghiệm và tự  luận. Hình thức   nào cũng có  ưu nhược riêng nên Bộ  Giáo dục Singapore đã quyết định chọn cả  hai.   Hầu hết các đề thi ở đây, từ tiếng Anh đến toán, đều có nhiều phần (trắc nghiệm, trả  lời ngắn, câu hỏi tự luận dài,...), có tính phân loại cao, và kéo theo thời gian làm bài khá  dài. Áp lực thi cử  vì vậy càng trĩu nặng trên vai học sinh nước này. Việc đẩy mạnh  tầm quan trọng của các môn ngoại khóa tưởng chừng sẽ giúp mọi thứ cân bằng hơn, ai  ngờ lại gây hiệu  ứng ngược: Giờ đây, ngoài chuyện đạt điểm cao, học sinh còn phải   có thành tích văn nghệ, thể dục thể thao để giành lợi thế trong cuộc đua vào các trường  điểm. Một bất cập khác liên quan đến việc vận dụng triết lý giáo dục phương Tây vào   lớp học châu Á. Phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức thảo luận nhóm, chú   ý đến đặc điểm tâm lý của từng em, thay đổi cách dạy để  phù hợp với nhiều đối   tượng khác nhau dường như  không mấy hiệu quả  khi sĩ số  lớp còn đông (gần 40 em   một lớp). Khi một số học sinh tiểu học vẫn chưa có khả  năng hiểu lý lẽ  và thiếu sự  Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2