intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Tinh dầu và dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Thi Hang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

649
lượt xem
82
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Tinh dầu và dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam" giới thiệu đến các bạn những nội dung đại cương về tinh dầu, những dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam. Với các bạn chuyên ngành Hóa học thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Tinh dầu và dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam

  1. BỘ Y TẾ  TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI **************** Tinh dầu và dược liệu có tiềm năng  khai thác tinh dầu ở Việt Nam                     Học Viên: Nguyễn Thị Hằng          Mã học viên: 1411029 Lớp: Cao học 19 1
  2. Mục lục Lời   mở   đầu .............................................................................................................................................. 2 Phần   I.   Đại   cương   về   tinh   dầu .............................................................................................................................................. 3           1. Định nghĩa..................................................................................................................           2. Thành phần cấu tạo..................................................................................................           3. Chế tạo tinh dầu.......................................................................................................                     4.   Tác   dụng   sinh   học   và   ứng   dụng   của   tinh   dầu   trong   y   học ..............................................................................................................................................  4 Phần II. Một số  dược liệu chứa tinh dầu có tiềm năng khai thác  ở  Việt Nam .............................................................................................................................................. .5                       1.   Cây   quế   Việt   Nam .5                       2.   Cây   Hồi .7                       3.   Cây   Dó   bầu .9 2
  3.                       4.   Cây   Tràm   gió 13                       5.   Cây   Gừng 14                       6.   Cây   sả   chanh 15 Phần   III.   Kết   luận   và   đề   xuất ..............................................................................................................................................  17                     1.   Kết   luận ..............................................................................................................................................  17                     2.   Đề   xuất ..............................................................................................................................................  17 Tài   liệu   tham   khảo .............................................................................................................................................. .18 3
  4. Lời mở đầu Nằm tại một vị  trí tự  nhiên hiếm có, khí hậu có nhiều nét độc đáo và đa   dạng, Việt Nam được  ưu đãi với hệ  thống sinh thái phong phú, đa dạng về  chủng loại các cây dược liệu với hơn 12 nghìn loài thực vật, trong đó có gần 4   nghìn loài có công dụng làm thuốc được xếp vào loại quý hiếm trên thế  giới   như: Sâm ngọc linh, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Bách hợp, Thông đỏ, Vàng  đắng, Hoàng liên ô rô, Hoàng liên gai, Thanh thiên quỳ, Ba gạc Vĩnh Phú…  Theo  số  liệu thống kê được từ  năm 2001, số  loài có chứa tinh dầu trong hệ  thực vật  nước ta gồm 657 loài thuộc 357 chi và 114 họ  (chiếm 6,3% tổng số loài, 15,8%  tổng số chi, 37,8% tổng số họ). Do vậy Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật  chứa tinh dầu rất tiềm năng. Mặc dù tồn tại trong thực vật với hàm lượng rất ít nhưng do được sử  dụng rộng rãi trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, công nghệ sản xuất nước  hoa… nên tinh dầu có giá trị kinh tế khá lớn. Ở nhiều địa phương, do đặc điểm   hệ thực vật mà việc trồng và chiết xuất tinh dầu cung cấp cho thị trường trong  và ngoài nước trở thành tiềm lực phát triển kinh tế chủ đạo. Tuy nhiên, hiện nay  một số khu vực có tiềm năng  Bài tiểu luận xin được đề cập đến 2 vấn đề chính như sau: ­ Đại cương về tinh dầu. ­ Những dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu ở Việt Nam.  4
  5. Phần I. Đại cương về tinh dầu 1. Định nghĩa Tinh dầu là một hỗn hợp của nhiều thành phần, thường có mùi thơm, không tan  trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ, bay hơi được  ở nhiệt độ  thường và  có thể điều chế từ thảo mộc bằng phương pháp cất kéo hơi nước.  2. Phân loại tinh dầu theo cấu trúc hóa học Theo cấu trúc hóa học, có thể chia làm 4 loại tinh dầu: ­ Các dẫn chất của monoterpen: Myrcen, lymonen,  α­ pinen,  β­pinen, geraniol,   linanol, nerol… ­ Các dẫn chất của sesquiterpen: zingiberen, curcumen, nerolidol,… ­ Các dẫn chất có nhân thơm: eugenol, p­cymen, thymol… ­ Các hợp chất có chứa nitơ (N) và lưu huỳnh (S): mythyl isothiocyanat, alicin…. 3. Các phương pháp thu tinh dầu ­ Phương pháp cất kéo hơi nước. ­ Phương pháp chiết xuất bằng dung môi. ­ Phương pháp ướp. ­ Phương pháp ép. 4. Tính chất lý hóa của tinh dầu * Thể chất: Đa số là chất lỏng ở nhiệt độ thường, một số thành phần ở thể rắn:   Menthol, borneol, camphor, vanilin, heliotropin. * Màu sắc: Không màu hoặc vàng nhạt. Do hiện tượng oxy hóa màu có thể sẫm  lại. Một số có màu đặc biệt: Các hợp chất azulen có màu xanh mực 5
  6. * Mùi: Đặc biệt, đa số  có mùi thơm dễ  chịu, một só có mùi hắc, khó chịu (tinh   dầu giun). * Vị: cay, một số có vị ngọt: Tinh dầu quế, hồi. * Bay hơi được ở nhiệt độ thường. * Tỷ trọng: Đa số nhỏ hơn 1. Một số lớn hơn 1: Quế, đinh hương, hương nhu. Tỷ lệ thành phần chính (aldehyd cinnamic, eugenol) quyết định tỷ trọng tinh dầu.  Nếu hàm lượng các thành phần chính thấp, những tinh dầu này có thể trở thành  nhẹ hơn nước. * Độ tan: Không tan, hay đúng hơn ít tan trong nước, tan trong alcol và các dung  môi hữu cơ khác. * Độ sôi: Phụ thuộc vào thành phần cấu tạo, có thể dùng phương pháp cất phân   đoạn để tách riêng từng thành phần trong tinh dầu. * Năng suất quay cực cao, tả tuyền hoặc hữu tuyền. * Chỉ số khúc xạ: 1,4500 ­ 1,5600 * Rất dễ oxy hoá, sự oxy hoá thường xảy ra cùng với sự trùng hiệp hoá, tinh dầu   sẽ chuyển thành chất nhựa. * Một số thành phần chính trong tinh dầu cho các phản ứng đặc hiệu của nhóm  chức, tạo thành các sản phẩm kết tinh hay cho màu, dựa vào đặc tính này để  định tính và định lượng các thành phần chính trong tinh dầu. 5. Tác dụng sinh học và ứng dụng của tinh dầu trong y học ­ Tác dụng trên đường tiêu hoá ­ Tác dụng kháng khuẩn và diệt khuẩn ­ Tác dụng kích thích thần kinh trung ương ­ Tác dụng diệt ký sinh trùng: Trị giun, sán, diệt ký sinh trùng sốt rét  ­ Rất nhiều tinh dầu có tác dụng chống viêm, làm lành vết thương, sinh cơ v.v..  khi sử dụng ngoài da. Ngoài ra tinh dầu còn được sử dụng phổ biến trong y học cổ truyền, qua  các bài thuốc từ rất lâu đời. 6
  7. Phần II. Những dược liệu có tiềm năng khai thác  tinh dầu ở Việt Nam Do đặc trưng khí hậu và thổ  nhưỡng khác nhau, hệ  thực vật ở Việt Nam   phân bố rất phong phú và đa dạng. Trong đó, nhiều cây cho tinh dầu phân bố tập   trung theo vị  trí địa lý như: Hồi (phân bố  chủ  yếu  ở  các tỉnh vùng núi phía Bắc   như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng), quế (Yên Bái, …. Phần này, tôi xin trình bày một số dược liệu có tiềm năng khai thác tinh dầu   ở Việt Nam 1. Cây Quế Việt Nam Tên khoa học: Cinnamomum cassia J. S. Presl, 1825, thuộc họ Long não –  Lauraceae. * Đặc điểm thực vật: Cây gỗ, cao 10 – 20m. Lá mọc so le có cuống ngắn, dài  nhọn hoặc hơi tù,có ba gân hình cung. Hoa trắng. Quả hạch hình trứng. * Phân bố:  Quế  phân bố  chủ yếu  ở Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,   Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh  Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bà  Rịa­Vũng Tàu. Trong đó có 4 vùng trồng quế tập trung là: Yên Bái, Quảng Ninh,   Thanh Hoá ­ Nghệ An và Quảng Nam ­ Quảng Ngãi.  Yên Bái là tỉnh có diện tích quế khá lớn, gần 30.000 ha, tập trung chủ yếu  ở một số huyện như Văn Yên (16.000 ha), Trấn Yên (6.600 ha), Văn Chấn (gần  7
  8. 5.000 ha). Định hướng đến năm 2015, diện tích quế toàn tỉnh đạt khoảng 40.000   ha, được quy hoạch ở các huyện Văn Yên (24.700 ha), Trấn Yên (8.500 ha), Văn  Chấn (6.600 ha). Chất lượng tinh dầu quế Yên Bái thuộc loại tốt nhất cả nước.  * Trồng trọt và khai thác: Trồng bằng hạt. Thu hoạch vào hai vụ tháng 4­5 và 9­ 10.  Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có 08 nhà máy chiết xuất tinh dầu quế  quy mô lớn với tổng công suất 700 tấn/năm đặt  ở  các huyện có diện tích quế  tập trung như: Công ty TNHH Hương liệu Việt Trung đặt tại xã Quy Mông,  huyện   Trấn   Yên   xây   dựng   bằng   vốn   nước   ngoài,   công   suất   100   tấn   sản   phẩm/năm; Công ty TNHH Thương mại Xuất nhập khẩu Đạt Thành có 02 nhà  máy đặt tại xã Đông Cuông và Hoàng Thắng, huyện Văn Yên, tổng công suất   100 tấn/năm; Công ty cổ phần Nông lâm sản thực phẩm Yên Bái đặt nhà máy tại  xã Sơn Lương, công suất 60 tấn/năm; Công ty TNHH Trường An có 02 nhà máy  đặt tại xã Phong Du Hạ, công suất 170 tấn/năm,... Ngoài ra còn có hơn 200 cơ sở  chưng cất tinh dầu quế quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình, sản lượng mỗi năm từ 300 ­  800 kg/01 cơ sở. 8
  9. Ảnh 1. Thu hoạch Quế ở Yên Bái * Thành phần hoá học:  Hàm lượng tinh dầu trong vỏ  quế  khá cao (1,0­4,0%), còn trong lá và cành  non thường thấp (0,3­0,8%). Tinh dầu từ vỏ có màu vàng nâu nhạt, sánh, vị cay,   thơm, ngọt, nóng, nặng hơn nước; với thành phần chính là (E)­cinnamaldehyd  (70­95%); ngoài ra còn khoảng 100 hợp chất khác. Tinh dầu từ lá quế thường có  màu nâu đậm và thành phần chủ yếu cũng là(E)­ cinnamaldehyd (60­90%). Hàm  lượng (E)­cinnamaldehyd quyết định chất lượng của tinh dầu quế. Tinh dầu quế  thương   phẩm   trên  thị  trường   thế  giới   đòi  hỏi  hàm lượng  (E)­cinnamaldehyd   trong khoảng 75­95% (ISO: >80% (E)­cinnamaldehyd). Ngoài tinh dầu, trong vỏ  quế còn chứa tanin, chất nhựa, đường, calci oxalat, coumarin và chất nhầy…  * Công dụng của tinh dầu quế: • Giảm lượng đường trong máu và điều trị bệnh tiểu đường loại 2. • Giảm cholesterol. • Trợ giúp tiêu hóa. • Điều trị tiêu chảy. • Chữa cảm lạnh thông thường. • Giảm đau viêm khớp. • Tăng cường trí nhớ và chức năng nhận thức. 9
  10. • Điều trị đau răng. • Loại bỏ hơi thở hôi. • Chữa đau đầu và chứng đau nửa đầu. Theo số liệu khảo sát của Hoàng Cầu (2005) về 75 hộ gia đình trồng quế tại  bản Khe Lơ (xã Yên Sơn – Văn Yên – Yên Bái), trong thời gian từ 1993­1994 thu   nhập trung bình từ quế đạt 10 triệu đồng/hộ/năm (bình quân hộ thu nhập cao: 20   triệu đồng/năm, bình quân hộ thu nhập thấp: 6 triệu đồng/năm).  Đến năm 1998, diện tích rừng quế ở nước ta đạt khoảng 61.820 ha (trong đó   có 19.743 ha có thể khai thác) với trữ lượng ước tính khoảng 29.000­30.000 tấn  vỏ. Cũng năm 1998, sản lượng quế  vỏ  đã khai thác đạt 2.867 tấn. Hàng năm   Việt Nam xuất khẩu khoảng 1.500­2.000 tấn vỏ và 5­7 tấn tinh dầu quế.  Cây quế  không những có giá trị  kinh tế  cao mà còn góp phần bảo vệ  thiên  nhiên, môi trường sinh thái, giữ  đất, giữ  nước  ở  những vùng đồi núi dốc, bảo  tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý của cây bản địa, đồng thời góp  phần quan trọng giúp nhiều hộ  nông dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm  giàu. 2. Cây Hồi  * Tên khoa học: Illicium verum. Họ Hồi: Illiciaceae * Đặc điểm thực vật: cây cao 6 –  10m. Cành mọc thẳng tạo cho cây  dạng thon gọn và tán lá hẹp. Lá  mọc  sole  nhưng  thường  mọc sít  vào nhau tạo vòng giả, từ 4 – 6 lá.  Lá   thon   dài   hoặc   hình   bầu   dục.  Hoa   có   thể   nhiều   màu:   trắng,  trắng hồng, hồng, tím hồng. Quả  đại, thường có 8 đại dính vào một  trục và tỏa tròn thành hình sao. Ảnh 2.  Cây hồi  *  Phân b    ố:   Hồi được coi là đặc  sản của tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra  còn   trồng   ở   Bắc   Kan,   Quảng  10
  11. Ninh, Lào Cai… * Trồng trọt và thu hái: Hồi được  trồng bằng hạt, được khi thác 2  vụ:   vụ   chính   vào   tháng   8­9,   vụ  phụ  từ  tháng 11 đến tháng 2 năm  sau.  Sản   lượng   khoảng   5000   –  6000 tấn Hồi khô/năm.                               Ảnh 3. Hoa hồi khô * Thành phần hóa học: ­ Quả có chứa tinh dầu 8 ­9%. Quả mới thu hoạch có thể chứa 10 – 15%. ­ Tinh dầu quả Hồi, tên thương phẩm Star anis oil, là chất lỏng màu vàng nhạt,  có mùi đặc biệt, vị ngọt. Thành phần chính chủ yếu là trans anethol (85­90%) ­ Lá có chứa tinh dầu 0,56­1,73%.  Tinh dầu lá có hàm lượng anethol xấp xỉ tinh   dầu quả. ­ Hạt chứa chất béo. *  Công dụng: ­ Quả  Hồi có tác dụng giúp tiêu hóa, lợi sữa, giảm đau, giảm có bóp nhu động   ruột, dùng để trị ỉa chảy, nôn mửa… ­ Tinh dầu Hồi có tác dụng tương tự như dược liệu. Ngoài ra tinh dầu còn dùng  để tổng hợp hormone estrogen.  ­ Dùng làm gia vị  và hương liệu cho rất nhiều sản phẩm trong kỹ  nghệ  thực   phẩm màu. ­ Hiện nay tinh dầu Hồi còn được sử dụng để chiết xuất acid Shikimic là nguyên  liệu để  tổng hợp Tamiflu, là thuốc đặc trị  các bệnh cúm, nhất là cúm A/H1N1,  H5N1, H3N2; Chế biến các loại thuốc xoa bóp, nội tiết, tiêu hóa.  11
  12. Hồi là một trong những cây đặc sản có giá trị  kinh tế  cao của tỉnh Lạng   Sơn. Cây Hồi phân bố trong một vùng sinh thái hẹp của thế giới, chỉ trồng được  ở một phần diện tích của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam của Trung Quốc   và một phần diện tích của tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Ninh của   Việt Nam. Hồi ở Lạng Sơn có chất lượng tinh dầu tốt nhất thế giới và nổi tiếng   với tên gọi “Hồi xứ Lạng”. Lạng Sơn đã trồng được 33.400 ha rừng Hồi chiếm   71% tổng diện tích rừng Hồi của cả  nước. Sản lượng quả  Hồi (hoa Hồi) khô   đạt trên 6.500 tấn trong năm 2010, đem lại giá trị xuất khẩu khoảng 600 ­ 650 tỷ  đồng/năm, đây là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh Lạng   Sơn. Người dân trồng Hồi luôn ý thức được giá trị kinh tế của cây Hồi hơn hẳn   nhiều cây trồng khác. Giá của 1 kg hoa Hồi hiện nay gấp khoảng 10 lần gạo và  gấp 15 lần ngô. Mặt khác, vốn đầu tư  ít, chỉ  phải trồng một lần nhưng thu   hoạch cả  trăm năm, ít bị  sâu bệnh phá hoại, người dân có nhiều kinh nghiệm   trong việc trồng, chăm sóc, thu hái và bảo quản Hồi. Sở Khoa học và Công nghệ Lạng Sơn đã hợp tác với Viện Khoa học lâm  nghiệp Quảng Tây ­ Trung Quốc trong 3 năm (2010 ­ 2012) để  nghiên cứu và   chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm nâng sản lượng hoa hồi của tỉnh Lạng Sơn   lên gấp 3 lần sản lượng hiện nay.  3. Cây Dó bầu Những năm trước đây, người dân không rõ hiệu quả kinh tế từ cây dó bầu   (cây dó) như thế  nào, chỉ  thấy nhiều lái buôn thường về  một số  địa phương để  thu mua vỏ  cây với giá rẻ  từ  5.000 đồng đến 7.000 đồng/kg để  xuất bán sang  Trung Quốc. Việc bà con khai thác ồ ạt đã làm ảnh hưởng đến môi trường sinh   thái, diện tích cây dó giảm sút. Sau khi công nghệ chiết xuất tinh dầu từ cây dó  bầu được Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam nghiên cứu thành công và đưa   vào sản xuất thử nghiệm ở một số tỉnh, cùng với sự phổ biến, tuyên truyền rộng  rãi việc phát triển cây dó theo chủ trương của Chính phủ, người dân đã dần hiểu   ra giá trị kinh tế của cây dó. Từ đó, trên khắp các tỉnh, người dân đã đầu tư trồng  và khôi phục diện tích cây dó. Cây dó có nhiều tác dụng như: tạo trầm; chiết   suất tinh dầu; làm đồ  gỗ  mỹ  nghệ, phong thủy; lá cây làm trà. Trong đó, việc  chiết xuất tinh dầu là cho hiệu quả kinh tế cao và thiết thực nhất. 12
  13. Ảnh 4. Cây dó bầu non. * Tên khoa học: A. agallocha Roxb. Họ: Trầm ­ Thymelaeaceae * Tên khác: Trầm, kỳ nam, rà hương. * Đặc điểm thực vật: Dó bầu là một loại cây gỗ  thường xanh, cao 20 – 30 m,   đường kính thân đạt 60 – 80 cm, thân thường thẳng, đôi khi có rãnh dạng lòng  máng; bạch gốc cao tới 2 m; vỏ ngoài nhẵn, màu nâu xám, thịt vỏ màu trắng có   nhiều chất xơ (celluloz), nứt dọc lăn tăn, dễ bóc và tước ngược từ gốc lên; cành  mảnh, cong queo, màu nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn, tán thưa. Lá đơn, mọc cách  (so le); cuống lá dài 4 – 6 mm; phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn đến mác thuôn,  kích thước 8 – 15 x 2,5 – 9 cm, mỏng như giấy hoặc dai gần như da, mặt trên  màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và có lông mịn; gốc lá thon nhọn dần hay tù. * Phân bố:  Trầm hương sinh trưởng rải rác trong rừng thường xanh  ẩm nhiệt   đới, nguyên sinh hoặc thứ sinh trên đỉnh dông, trên sườn núi hoặc trên đất bằng   ở  độ  cao 50 – 1.000 m (­1.200 m) so với mặt biển.  Ở  nước ta, Tr ầm h ương   thường phân bố rải rác trên sườn núi có độ dốc nhỏ, thoát nước. Trong quần xã  của   Trầm   hương   thường   gặp   các   cây   gỗ   lớn:   Táu   ( Hopeaspp.),   Huỳnh  (Tarrieta sp.), Gụ  mật (Sindora siamensis Teysm. Ex Miq.)… Đôi khi cũng gặp  Trầm   hương   mọc   trong   rừng   thứ   sinh   cùng   các   loài   Thánh   thất   (Ailanthus  triphysa (Dennst)   Alst.),   Mò   lưng   bạc   (Cryptocarya   metcalfiana Allen),   Bưởi  bung (Acronychia laurifolia Blume),  Mít nài (Artocarpus asperula) và Ràng ràng  (Ormosia sp.)… * Trồng trọt và thu hái: Cho đến nay việc nhân giống vẫn chủ  yếu bằng hạt.   Cây dó bầu sau khi trồng khoảng 4 – 5 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa kết trái. Tùy  13
  14. vào điều kiện thời tiết của mỗi vùng mà thời gian ra hoa có khác nhau. Ở  miền  Trung Việt Nam, cây bắt đầu ra hoa vào tháng 3 và trái chín vào tháng 7 dương   lịch. Nhưng ở miền Nam, thời gian ra hoa là tháng 2, trái chín tháng 5 – 6 dương   lịch. * Nguồn gốc tạo trầm hương từ cây dó bầu:  Gỗ  cây dó bầu có khả  năng hình  thành một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương, do cây bị  một loại bệnh   gây ra bởi tác động bên ngoài. Loại gỗ  này tỏa ra mùi thơm và khi thả  xuống   nước thì chìm vì vậy mà có tên là trầm hương. Vì “trầm” theo chữ Hán có nghĩa  là chìm, còn “hương” có nghĩa là mùi thơm.             Căn cứ  vào sự  hóa nhựa nhiều hay ít mà có những sản phẩm như: Tóc,  Trầm hương và Kỳ nam.             a./ Tóc: có nguồn gốc từ  chữ  “tok” của người Campuchia, đó là do sự  biến đổi chất gỗ bên ngoài, thường dùng để làm nhang.             b./ Trầm hương: do sự phân hóa không trọn vẹn của các phần tử gỗ, gỗ ít   tẩm nhựa hơn, màu nâu hay có sọc đen, nhẹ, nổi được trong nước, dùng để  chưng cất tinh dầu.             c./ Kỳ nam: (nghĩa là điều kỳ diệu của phương nam); do sự biến đổi hoàn  toàn của các phần tử  gỗ  – Các phần tử  gỗ  thoái hoá, biến dạng, mất mộc tố  chứa một chất nhựa thơm – có màu nâu đậm hay đen, nặng chìm trong nước, vị  đắng. Thường hình thành ở phần lõi gỗ.  *    Tính chất lý hóa của tinh dầu trầm hương  Tinh dầu trầm hương là chất lỏng sánh, nhớt, dẻo, có màu vàng hoặc màu   hổ  phách đậm, mùi thơm dịu của trầm. Bằng khứu giác ta cảm thấy tinh dầu  trầm có mùi thơm tương tự như mùi tinh dầu hương lau và tinh dầu đinh hương.   Nó được dùng làm chất định hương, giữ  cho hương thơm lâu và dậy mùi trong   công nghiệp hương liệu. Một số  kết quả  phân tích của Thụy Sỹ  đã cho biết,  thành   phần   chủ   yếu   của   tinh   dầu   trầm   hương   gồm   các   agarofuranoid,   các  sesquiterpenoid của nhóm chất eudesman, eremophilan, valencan và vetispiran.             Khi chưng cất, các thành phần chính của tinh dầu thường bốc hơi ở nhiệt   độ  cao (khoảng 200oC). Nghiên cứu các mẫu trầm hương thương phẩm khác  nhau từ Ấn Độ đã cho thấy thành phần hóa học của chúng cũng rất khác nhau. ­ Nhóm nghiên cứu của Ishihara và cộng sự năm 1993 đã nghiên cứu phân tích 4   mẫu trầm hương lấy từ 4 khu vực khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam, tất cả các  mẫu tinh dầu thu được khi được phân tích bằng phổ GC/MS đều cho thấy chúng  có chứa rất nhiều các sesquiterpen và chromon. 14
  15. * Công dụng của tinh dầu trầm hương   Tinh dầu trầm có giá trị đặc biệt, được dùng trong công nghệ chế biến các loại  chất thơm, các loại nước hoa cao cấp, đắt tiền. Mùi của trầm vừa phản phất  mùi của tinh dầu đinh hương, vừa có mùi thơm của hoa hồng. Các hoá mỹ phẩm  có chứa tinh dầu trầm rất được  ưa chuộng, đặc biệt  ở  khu vực Trung Đông và   Ấn Độ.             Lớp vỏ trong ánh bạc ở thân cây có thể bóc được từng mảng lớn, phẳng  và bền. Đây cũng là sản phẩm quý mà trước đây các tín đồ  tôn giáo  ở   Ấn Độ,   Sumatra (Indonesia) đã dùng làm giấy sao chép kinh thánh hoặc may các bộ quần  áo sang trọng và gói bọc thi hài.             Trong y học cổ  truyền  ở  nước  ta, Trầm hương   được  coi là vị  thuốc  quý,  hiếm, có vị cay, tính hơi ôn, vào 3 kinh tỳ, vị và thận; có tác dụng giáng khí,  nạp thận, bình can, tráng nguyên dương; được dùng chủ  yếu để  chữa các bệnh   đau ngực, bụng, nôn mửa, bổ dạ dãy, hen suyễn, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ  sốt, cấm khẩu và khó thở.             Trong y học  ở phương Tây, ở  Ấn Độ  và Trung Quốc, hương trầm được   sử dụng để điều trị bệnh ung thư, đặc biệt là với bệnh ung thư tuyến giáp trạng.             Y học cổ  truyền Trung Quốc coi Trầm là vị  thuốc có tác dụng chữa các  bệnh đau bụng, tiêu chảy, hoen suyễn, kích dục, tráng dương và tiêu hoá tốt.             Nền y học dân tộc Thái Lan lại dùng Trầm để  điều trị  các bệnh tiêu  chảy, lợi tiểu, hạ sốt, chống nôn, bổ huyết và trợ tim.             Hương trầm được dùng để thắp xua muỗi và côn trùng có hại.             Dăm gỗ trầm cũng được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt  là chữa bệnh thấp khớp, bệnh đậu mùa, bệnh đau bụng và dùng cho phụ nữ sau   khi sinh con.             Nước sắc từ  gỗ  trầm nghe nói là có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt là  với các loại khuẩn Mycobacterium tuberculosis và Shigella flexneri.             Gỗ từ những cây trầm hương không bị bệnh thường nhẹ, có thể dùng là  đóng gỗ, làm gỗ dán và làm cánh cửa ở trường hợp chịu tải nhẹ. * Giá trị kinh tế của trầm hương Trầm hương là sản phẩm đặc biệt của tự  nhiên, trên thế  giới Trầm luôn  là loại hàng quý, hiếm và đắt giá. Giá mua bán Trầm hương được tính theo kg  tùy thuộc vào chất lượng,  trầm hương loại 1 từ  800 ­1.200 USD, lên 7.000 ­  8.000 USD; các loại khác cũng có mức tăng từ  10 đến 15 lần. Tinh dầu trầm   hương hiện nay tùy theo chất lượng, xuất xứ  và công nghệ  sản xuất, có mức  chào bán từ  5.000 đến  80.000 USD/lít. Theo  ước tính của Liên hiệp Khoa học  sản xuất tinh dầu – hương liệu – mỹ phẩm Việt Nam thì trong những năm từ  15
  16. 1980 đến 1990, khối lượng Trầm hương các loại đã bị khai thác và xuất khẩu từ  nước ta cũng vào khoảng 300 tấn. Trong đó có 2.000 kg Trầm từ  loại 1 – 4, trị  giá chừng 1,5 triệu đô la Mỹ  và 300.000 kg Trầm loại 5 – 9, trị giá khoảng 4,5  triệu đô la Mỹ; đặc biệt là 200 kg Kỳ nam loại 1 – 3, trị giá 0,5 triệu đô la Mỹ và  tới 2.800 kg Kỳ nam loại 4 – 8, trị giá 2,52 triệu đô la Mỹ. 4. Cây tràm gió * Tên khoa học: Melaleuca cajuputi. Họ Sim: Myrtacaea    ặc điểm thực vật:  Cây gỗ  cao   *   Đ 2 – 3m.  Vỏ  màu trắng dễ  róc. Lá  mọc so le, phiến lá dày, gân hình  cung. Hoa nhỏ  màu vàng ngà, mọc  thành bông  ở  đầu cành. Quả  nang,  tròn, có nhiều hạt.   *  Phân b    ố:   Tập trung niều  ở  các  tỉnh phía Nam: Quảng Bình, Long  An, Hậu Giang… *   Trồng   trọt   và   khai   thác:  Tràm  trồng   bằng   hạt,   có   khả   năng   tái  sinh   cao.   Khai   thác   quanh   năm  nhưng   vào   mùa   mưa   hàm   lượng  tinh dầu ít hơn mùa khô. ­   ộ phận dùng:  Cành mang lá   B Ảnh 5. Tràm gió * Thành phần hóa học: ­  Lá có chứa tinh dầu.  Dược điển VN III quy định hàm lượng tinh dầu không   dưới 1%. ­ Tinh dầu Tràm là chất lỏng màu vàng nhạt, mùi dễ chịu, thành phần chính bao  gồm 2 loại sau:      α­ Terpineol ……. …………… 5% – 12%      Eucalyptol……………………42%  – 52% * Công dụng của tinh dầu tràm 16
  17.     Hoạt chất  α­  Terpineol chiết xuất từ  tinh dầu tràm có tính sát trùng (diệt  khuẩn, nấm và siêu vi) tốt, do đó  α­ terpineol là một nguyên liệu quý để bào chế  nhiều loại thuốc bôi xức trực tiếp hoặc dầu khí dung bay hơi.    Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy α­ Terpineol có rất nhiều ưu điểm: ­ Không độc với con người ở liều có tác dụng kháng khuẩn, ­ Có thể dùng cho mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em và trẻ sơ sinh, ­ Có tác dụng sát trùng khá rộng trên vi khuẩn, nấm và siêu vi, ­ Theo nghiên cứu cấp Bộ  Y tế, thực hiện tại Viện Pasteur TP Hồ  Chí Minh,  2008 của Hãng dược phẩm OPDIS PHARMA thì hoạt chất  α­terpineol có tác   dụng ức chế diệt cả hai vi rút cúm A H5N1 và A H1N1. ­ Nguyên liệu  α­ Terpineol   (Tiêu chuẩn dược điển Anh) dùng làm thuốc đã  được Bộ Y tế cấp mã số đăng ký sản xuất VNA­2686­99 . ­ Từ  năm 2008, Bộ  Y tế  đã cho phép đưa dầu tràm vào Danh mục thuốc thiết   yếu để  Kiểm soát bệnh địa phương (local diseases control) trong chương trình  Chăm sóc sức khoẻ ban đầu.   Cây tràm có khá nhiều ở nước ta, dầu tràm quá quen thuộc với người Việt   Nam từ nông thôn đến tỉnh thị. Trong dầu tràm có chứa dược chất α­ Terpineol,  đặc biệt trong tràm hoang dại vùng Thừa Thiên Huế hàm lượng chất này rất rất  cao đến 12­14%. Đây là một dược liệu quý để bào chế rất nhiều dược phẩm tốt,  thích hợp cho nhiều căn bệnh và lại có thể sử  dụng rộng rãi cho nhiều độ  tuổi,  người lớn, trẻ em.     Thiết nghĩ, nếu được khai thác sử dụng hợp lý, hiệu quả thì đây là một nguồn   dược liệu dồi dào, một nguồn thu nhập tốt cho nông dân những vùng đồi rú đất   bạc màu cằn cỗi.    5. Cây Gừng  *  Tên khoa h   ọc:  Zingiber officinale. Họ Gừng: Zingiberaceae 17
  18.    ặc điểm thực vật:  Cây thảo, sống lâu   *   Đ năm,  cao  0,6  –  1m.  Lá  mọc   so  le,  không  cuống,   hình   mác   dài,   có   mùi   thơm.   Trục  hoa   xuất   phát   từ   gốc,   dài   khoảng   20cm.  Hoa   màu   vàng,   thân   rễ   mập,   phồng   lên  thành củ. * Phân bố:  Gừng được trồng khắp nơi  ở                    Ảnh 6. Cây gừng và củ  Việt Nam gừng *     Trồng   trọt   và   thu   hoạch:  Gừng   được  trồng bằng các nhánh của thân rễ  có mang  mầm. Trồng vào mua xuân, thu hoạch khi  cây bắt đầu lụi. *   Bộ   phận   dùng:  Toàn   thân.   Gừng   tươi,  Gừng   khô,   gừng   đã   chế   biến,   tinh   dầu   gừng, nhựa dầu gừng.                                                   * Thành phần hóa học:                                          ­   Gừng chứa tinh dầu (2­3%), nhựa dầu (4,2 ­ 6,5%), Chất béo (3%) và chất   cay: Zingerol, Zingeron…  ­ Tinh dầu gừng là chất lỏng không màu hoặc màu vàng nhạt. Thành phần chủ  yếu của tinh dầu là hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: Zingiberen (35,6%),   arcurcumen (17,7%) …  ­ Nhựa dầu gừng có chứa khoảng 20 – 25% tinh dầu và 20 – 30% các chất cay. *  Công dụng: 18
  19. ­ Gừng khô, tinh dầu gừng và nhựa gừng dùng làm chất thơm trong kỹ nghệ thực  phẩm và kỹ nghệ pha chế đồ uống.   Hàng năm toàn thế  giới sản xuất khoảng 30 tấn tinh dầu gừng và 150 ­  300 tấn nhựa dầu gừng. Các nước sản xuất tinh dầu và nhựa dầu chính: Ấn Độ  và Trung Quốc. Các nước tiêu thu chính: USA, Canada, Anh, Đức. 6. Cây sả chanh * Tên khoa học: Cymbopogon citratus Stapf. * Đặc điểm thực vật và phân bố             Cây thảo sống nhiều năm, thân rễ sinh nhiều chồi bên tạo thành bụi xoè   đều ra xung quanh, mỗi bụi có thể gồm 50 – 200 tép. Cây cao 1 – 2m, bẹ  lá và   chồi thân thường có màu tía đến trắng xanh. Phiến lá thuôn dài, kích thước 50 –  100 x 0,5 – 2 cm. Cụm hoa to dài đến 60 cm, có 4 – 9 đôt, gồm nhiều bông nhỏ. Sả   Chanh   được   trồng   nhiều   ở   các   nước   Nam   Mỹ   như   Achentina,   Brazin,   Honduras, Guatemala, Liên Bang Nga, Bắc Australia,  Ấn Độ, Bănglades, Việt  Nam và các nước Đông Nam Á.   * Trồng trọt và thu hoạch  Sả  Chanh được nhân giống bằng các tép sả, được chọn lọc từ  các bụi sả  1,5 –   2,5 năm tuổi. Có thể trồng xen với cây cao su hoặc cà phê. Sáu tháng sau khi trồng có thể  thu hoạch. Hiệu suất tinh dầu tính trên lá tươi   khoảng 0,20 – 0,28%.  Ở  Việt Nam hiệu suất đạt đến 0,45 – 0,55% trong mùa   khô, nếu tính trên nguyên liệu để khô có thể đạt 0,8 – 0,9%. Năng xuất tinh dầu   năm đầu 75 kg/ha, những năm sau tăng dần, có thể  đạt đến 200kg/ha. Có thể  khai thác 4 – 6 năm, sau đó phải trồng lại. Sản   lượng   hàng   năm   khoảng   650   tấn   (1986).   Các   nước   sản   xuất   chính   là  Achentina, Brazin, Guatemala, Honduras. * Thành phần hoá học  Hàm lượng tinh dầu: 0,46 – 0,55% 19
  20. Tinh dầu sả Chanh là chất lỏng màu vàng nhạt, mùi thơm của sả, với các hằng   số: d20: 0,8986, nD20: 1,4910, D20: ­ 620. Thành phần chính của tinh dầu là  citral (bao gồm citral a và citral b) 65 ­ 86%. Sả C. citratus trồng ở Trảng Bôm (Việt Nam) có hàm lượng citral trong tinh dầu   là 80%. Một   điểm   đặc   trưng   cho   tất   cả   các   loài   sả   là   trong   tinh   dầu   có   chứa   methytheptenon với hàm lượng 1 ­ 2% làm cho tinh dầu sả có mùi rất đặc trưng  của sả. Công dụng Tinh dầu sả chanh dùng chủ yếu để chiết xuất citral, là nguyên liệu để tổng hợp  vitamin A, một lượng nhỏ  dùng trong kỹ  nghệ  xà phòng, nước hoa, chất thơm  cho thực phẩm. Sả vốn là một cây dễ trồng và nhanh cho thu hoạch. Một ha trồng sả thâm   canh cao từ  năm thứ hai trở đi có thể  thu được 320­350 tấn lá/năm, chưng cất  được từ  280 –300 kg tinh dầu sả, giá bán bình quân 80 000­ 90 000 đ/kg. Hiện   nay, rất nhiều địa phương đã nhân rộng mô hình trồng sả  giúp tăng thu nhập và  cung cấp nguyên liệu cho thị trường xuất khẩu tinh dầu sả chanh ra thế giới, tuy   nhiên vẫn còn ở quy mô nhỏ, lẻ, chưa có quy hoạch, định hướng cụ thể. 7. Một số dược liệu khác Ngoài các dược liệu đã được phân tích ở trên, Việt Nam có thế mạnh phát  triển rất nhiều dược liệu chứa tinh dầu khác như  hương nhu, bạc hà, hoắc   hương, thanh cao… Với điều kiện khí hậu nóng  ẩm nhiệt đới, thuận tiện cho   việc trồng trọt và thu hoạch với năng suất cao. Tuy nhiên cần có chính sách  khuyến khích nông dân từng địa phương phát triển trồng cây dược liệu, hướng  dẫn cách chăm sóc, nhân giống và tìm được đầu ra ổn định. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1