Bàn về khái niệm quyết toán Ngân sách nhà nước (Phần 2)
lượt xem 13
download
Qua nghiên cứu quan niệm của các tác giả về quyết toán NSNN, quyết toán NSNN Việt Nam trong những năm qua và một số nước trên thế giới, chúng tôi cho rằng, một quyết toán NSNN đầy đủ yêu cầu nhằm tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện ngân sách cũng chư chính sách tài chính ngân sách của quốc gia trong năm ngân sách phải thể hiện được một số đặc trưng sau
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bàn về khái niệm quyết toán Ngân sách nhà nước (Phần 2)
- Bàn về khái niệm quyết toán Ngân sách nhà nước (Phần 2) Qua nghiên cứu quan niệm của các tác giả về quyết toán NSNN, quyết toán NSNN Việt Nam trong những năm qua và một số nước trên thế giới, chúng tôi cho rằng, một quyết toán NSNN đầy đủ yêu cầu nhằm tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện ngân sách cũng chư chính sách tài chính ngân sách của quốc gia trong năm ngân sách phải thể hiện được một số đặc trưng sau: 1. Thứ nhất, quyết toán NSNN phải giải quyết được vấn đề về số liệu ngân sách. Điều đó có nghĩa là phản ánh được đầy đủ số liệu thu, chi ngân sách. Các khoản thu
- phải được hạch toán và phản ánh đầy đủ k hi báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mức độ đầy đủ của quyết toán NSNN tùy thuộc vào quy định của pháp luật của từng quốc gia. Chẳng hạn như nhiều quốc gia quy định quyết toán NSNN chỉ là việc báo cáo tình hình thực hiện dự toán đã được Quốc hội quyết định (TQ), trong khi đó nhiều quốc gia khác không chỉ yêu cầu báo cáo về việc thực hiện dự toán mà phải báo cáo cả việc thực hiện các nguồn lực khác có quan hệ chặt chẽ với NSNN như các khoản vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách, các quỹ ngoài ngân sách, các khoản nợ của Chính phủ, các khoản thuế miễn giảm… Một số quốc gia khác lại quy định quyết toán ngân sách phải báo cáo kèm việc quản lý và sử dụng tài sản (Cộng Hòa
- Liên bang Đức). Nhìn chung đa số các nước quan niệm về mức độ đầy đủ của NSNN là phản ánh được tình hình thu chi quỹ NSNN; các quỹ bên cạnh và có mối quan hệ chặt chẽ với NS như quỹ an sinh xã hội, và bảo trợ xã hội…Việc giải quyết đầy đủ số liệu quyết toán cũng xuất phát từ trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Chính phủ sử dụng tiền của những người nộp thuế do vậy về nguyên tắc phải quyết toán để người nộp thuế biết rằng Chính phủ thu trong năm là bao nhiêu, thu của tương lai (thông qua hình thức vay bù đắp thiếu hụt) là bao nhiêu? Các khoản tiền thu được sử dụng vào những việc gì? Hết bao nhiêu? Có phù hợp với mục tiêu phát triển của quốc gia hay không?... Theo mô hình nhà nước đại diện, Chính phủ không
- phỉa trình quyết toán NSNN trực tiếp cho từng người dân mà trình cho Quốc hội hay nghị viện là người đại diện cho quyền lực của nhân dân hay cử tri. Các Nghị sĩ là những người đại diện cho cử tri có trách nhiệm xem xét bản quyết toán NSNN do Chính phủ trình và qua đó giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ thông qua hình thức phê chuẩn quyết toán. 2. Thứ hai, quyết toán NSNN phải thể hiện được tính tuân thủ trong việc thu, chi ngân sách. Chính phủ giải trình về quyết toán k hông chỉ là các vấn đề về số liệu mà còn phải giải trình được việc quản lý thu, chi ngân sách trong niên độ có tuân thủ các quy định của pháp luật
- cũng như đạt được các yêu cầu mà Quốc hội đã đề ra khi quyết định ngân sách. Như chúng ta đã biết, ngân sách hàng năm phải được lập dự toán và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định trước khi thực hiện. Khi thực hiện phải tuân theo các quy định của pháp luật về thu, chi ngân sách. Do vậy khi quyết toán không chỉ báo cáo thu được bao nhiêu? Từ những nguồn nào? Chi dùng vào việc gì? Chi hết bao nhiêu? Mà còn phải giải trình với Quốc hội là các khoản thu, chi đó có dược thực hiên trên cơ sở luật định hay không? Có tuân thủ các chế độ, cơ chế quản lý ngân sách hay không? Chẳng hạn như việc thực hiện thu thuế có được thực hiện theo quy định của luật thế hay không? Liệu Chính phủ có lạm thu hay không? Các khoản chi tiêu có theo mức
- Quốc hội quyết định hay không? Đòi hỏi Chính phủ phải báo cáo được việc thực thi các quy định của pháp luật về quản lý tài chính ngân sách cũng như tuân thủ Luật ngân sách thường niên ( Việt Nam gọi là dự toán NSNN năm) hay không. Theo luận điểm này, ngàoi báo cáo đầy đủ số liệu thu, chi NSNN, Chính phủ còn phải giải trình trước QH việc thực hiện các khoản thu, chi cũng như chính sách ngân sách đã đàm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như tuân thủ dự toán NSNN đã được quyết định. Khi xem xét, phê chuẩn quyết toán Quốc hội không chỉ xem xét vấn đề về số liệu quyết toán mà còn xem xét khía cạnh tuân thủ pháp luật của việc thực hiện ngân sách.
- 3. Thứ ba, quyết toán NSNN phải báo cáo được tính hiệu lực, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách. Đây là vấn đề quan trọng bởi nguồn lực của mỗi quốc gia là có hạn do vậy cơ quan quản lý, điều hành nguồn lực quốc gia phải cáo cáo và giải trình với Quốc hội là cơ quan đại diện cho dân chúng – những người nộp thuế - rằng các nguồn thu đã được sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Các chính sách trong năm ngân sách có phát huy được hiệu lực, hiệu quả hay không. Quyết toán NSNN không chỉ báo cáo được về số liệu, về tính tuân thủ mà còn phải về đề cập tính hiệu lực, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách cũng như chính sách ngân sách. Liệu các khoản thu, chi ngân sách có đạt được mục tiêu đề ra hay không?
- Có đảm bảo hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng ngân sách hay không? Đây là vấn đề đặt ra mà khi quyết toán NSNN phải thực hiện. Thông qua việc đánh giá tình hiệu lực, hiệu quảcos thể biết được việc phân bổ ngân sách có hợp lý hay không, có đảm bảo nguồn lực cho việc thực thi chính sách một cách tốt nhất hay không. Chẳng hạn, khi Quốc hội quyết định dự toán ngân sách đã dành 200 tỷ đồng để thực hiện cải cách hành chính và tinh giản biên chế với những mục tiêu cụ thể đặt ra. Khi quyết toán, Chính phủ không chỉ phải giải trình sử dụng hết bao nhiêu trong số tiền mà Quốc hội đã dành cho việc tinh giản biên chế mà còn phải giải trình trước Quốc hội rằng việc chi tiêu đã được tuân thủ theo quy định của pháp luật về ngân sách.
- Không chỉ thế, Chính phủ còn phải giải trình với Quốc hội rằng, số tiền trên có đạt được mục tiêu đề ra hay không? Có đảm bảo được hiệu quả thực hiện cải cách hành chính, tinh giản biên chế hay không? Và qua đó cũng có thể thấy rằng với số tiền ấy không đủ mức để thực hiện việc tinh giản biên chết mà phải chi ở mức cao hơn hoặc ngược lại chỉ cần sử dụng ít hơn mức được giao vẫn đảm bảo thực hiện được mục tiêu đề ra … Giải trình về tính hiệu quả thể hiện trên 2 giác độ: (1) với số tiền nhất định được giao thực hiện được khối lượng công việc nhiều nhất, (2) hoặc với công việc nhất định sử dụng hết ít tiền nhất.
- 4. Thứ tư, quyết toán NSNN được xác định trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm (12 tháng). Trở lại khái niệm quyết toán NSNN, chúng ta thấy rằng ngân sách được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Và việc quyết toán NSNN được thực hiện trong chính khoảng thời gian đó. Khoảng thời gian xác định này phù hợp với thời gian ngân sách mà cơ quan quyền lực nhà nước đã quyết định. Đây là cơ sở để xuất hiện khái niệm năm ngân sách (một số quốc gia còn gọi là năm tài khóa hay năm tài chính). Năm ngân sách được hiểu là khoảng thời gian bắt đầu thực hiện một ngân sách cho đến khi kết thúc ngân sách ấy và thường lấy khoảng thời gian là 1 năm (12 tháng) để xác định. Tùy từng quốc gia khác nhau mà ngân sách
- được xác định trong một thời gian khác nhau, chẳng hạn như ở Việt Nam, năm ngân sách được xác định theo năm dương lịch 1/1 đến 31/12. Một số nước khác lại xác định năm NS từ 1/4 đến 31/3 năm sau như ở Nhật Bản. 5. Thứ năm, quyết toán NSNN phải trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Về khía cạnh pháp lý, để trách nhiệm quản lý được giải tỏa, quyết toán NSNN phải được cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội) là cơ quan đại diện cho quyền lợi của dân chúng xem xét phê chuẩn. Chỉ khi quyết toán được phê chuẩn thì trách nhiệm của cơ quan quản lý (Chính phủ) mới được giải
- tỏa. Luật của các nước đều đề cao trách nhiệm này và coi đây là nhiệm vụ mà cơ quan quyền lực nhà nước phải thực thi. Để quốc hội xem xét phê chuẩn đòi hỏi quyết toán NSNN phải được lập, kiểm toán xác nhận và các cơ quan tham mưu của Quốc hội thẩm tra. Trên cơ sở các thông tin được cung cấp các nghị sĩ sẽ xem xét và biểu quyết phê chuẩn. Tuy nhiên, một số nước lại quy định cơ quan thường trực của Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) phê chuẩn và báo cáo Quốc hội kỳ họp gần nhất. Việc phê chuẩn phải thực hiện theo nguyên tắc không trùng lắp có nghĩa là không phê chuẩn những vấn đề. Ở nước ta, quyết toán NSNN do Quốc hội phê chuẩn theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách nhà nước. Tuy
- nhiên do NSNN Việt Nam lồng ghép giữa các cấp ngân sách nên việc phê chuẩn quyết toán NSNN bao gồm ngân sách địa phương đã được Hội đồng Nhân dân phê chuẩn.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Làm rõ hơn các vấn đề về chuẩn mực kế toán số 17 - thuế thu nhập doanh nghiệp
10 p | 378 | 187
-
Bài giảng Kế toán quản trị - Chương 4: Môí quan hệ chi phí - Khối lượng - Lợi nhuận
21 p | 558 | 59
-
Bài giảng Kế toán quản trị - Chương 9: Thông tin thích hợp quyết định kinh doanh ngắn hạn
36 p | 326 | 28
-
Nghiên cứu bản chất kế tóan qua các khái niệm về kế tóan (Phần 1)
22 p | 117 | 23
-
Bài giảng Tổng quan về thuế - Chương 6: Thuế thu nhập cá nhân
38 p | 216 | 19
-
Kiến thức cơ bản về thuế giá trị gia tăng (VAT)
24 p | 128 | 16
-
Bài giảng Kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp: Chương 8 - Vũ Quốc Vững
20 p | 135 | 13
-
Bài giảng Kế toán quản trị doanh nghiệp - Chương 2: Chi phí và phân loại chi phí doanh nghiệp (Năm 2022)
15 p | 16 | 10
-
Sử dụng các phép toán Malliavin để giải bài toán đầu tư trên thị trường chứng khoán
3 p | 63 | 9
-
Bàn về khái niệm quyết toán
10 p | 147 | 9
-
Bài giảng Kế toán tài chính 2: Chương 7 - ThS. Hoàng Huy Cường
32 p | 62 | 8
-
Bài giảng Tổng quan về thuế: Bài 5 - PGS.TS. Lý Phương Duyên
35 p | 50 | 7
-
Bài giảng Kế toán quản trị 2: Bài 9 - ThS. Lê Ngọc Thăng
27 p | 52 | 5
-
Giáo trình Kế toán hành chính sự nghiệp (Ngành: Kế toán - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Xây dựng số 1
95 p | 8 | 5
-
Kế toán quản trị là gì, có vai trò thế nào trong doanh nghiệp?
6 p | 55 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Nguyên lý kế toán - Ths. Nguyễn Thị Xuân
16 p | 5 | 2
-
Bài giảng Kế toán ngân hàng - Chương 4: Kế toán nghiệp vụ thanh toán trong nước qua ngân hàng
56 p | 15 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn