intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo khoa học: "TÌM HIỂU MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN VÀ BIỆN PHÁP KIỂM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2007 - 2008"

Chia sẻ: Nguyễn Phương Hà Linh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

383
lượt xem
109
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt: Năm 2007 lạm phát ở Việt Nam lên tới 12,63% và dự báo năm 2008 đạt ngưỡng 20% (mức cao nhất trong 10 năm). Tỷ lệ lạm phát cao đã làm cho VNĐ mất giá, người dân hoang mang, mất lòng tin, thì trường tài chính xáo động, đời sống nhân dân gặp khó khăn… Trước tình hình đó, chính phủ Việt Nam đã ban hành những chính sách kiềm chế lạm phát. Bài báo cáo tập trung phân tích nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng lạm phát trong năm 2007 – 2008, từ đó đánh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo khoa học: "TÌM HIỂU MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN VÀ BIỆN PHÁP KIỂM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2007 - 2008"

  1. TÌM HIỂU MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN VÀ BIỆN PHÁP KIỂM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2007 - 2008 CN. PHẠM THANH HIỀN Bộ môn Những nguyên lý cơ bản của CNMLN Khoa Lý luận chính trị Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Năm 2007 lạm phát ở Việt Nam lên tới 12,63% và dự báo năm 2008 đạt ngưỡng 20% (mức cao nhất trong 10 năm). Tỷ lệ lạm phát cao đã làm cho VNĐ mất giá, người dân hoang mang, mất lòng tin, thì trường tài chính xáo động, đời sống nhân dân gặp khó khăn… Trước tình hình đó, chính phủ Việt Nam đã ban hành những chính sách kiềm chế lạm phát. Bài báo cáo tập trung phân tích nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng lạm phát trong năm 2007 – 2008, từ đó đánh giá hiệu quả một vài chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua. Summary: In 2007-2008, inflation rate of Viet Nam is the highest during 10 years (13% - 20%). That high inflation rate has reduced VND value, made People worried, puzzled,…To deal with this problem, Viet Nam Government has had some inflation restriction policices. The article focuses on analysing main reasons for the inflation in Viet Nam and remarks the effecience of some Government’s inflation restriction. MLN- VTKT thể thấy được ảnh hưởng sự biến động của thị I. ĐẶT VẤN ĐỀ trường thế giới đến nền kinh tế trong nước, Khi đánh giá toàn cảnh kinh tế Việt Nam ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, và đặc biệt trong năm 2007 -2008, sẽ là một thiếu sót nếu là những bất cập trong quản lý kinh tế vĩ mô không đề cập đến hiện tượng lạm phát đạt của chính phủ, từ đó rút ra những bài học để mức kỷ lục trong 10 năm qua, dẫn đến hệ quả đưa nền kinh tế Việt Nam không rơi vào người dân hoang mang, mất lòng tin vào nền khủng hoảng, tiếp tục tăng truởng cao và ổn kinh tế, buộc chính phủ phải giảm mục tiêu định. tăng trưởng kinh tế, tập trung toàn lực khắc phục. Vì vậy, với những diễn biến lạm phát đã II. NỘI DUNG xảy ra, có thể nói lạm phát năm 2007 – 2008 1. Lạm phát và nguyên nhân lạm phát là một vấn đề nổi cộm, một trong những sự kiện quan trọng nhất diễn ra trong năm. Vì Lạm phát là hiện tuợng kinh tế phổ biến vậy, việc mô tả diễn biến, phân tích nguyên trong nền kinh tế của nhiều quốc gia, là một nhân của lạm phát trong thời gian qua là rất trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu cần thiết. Từ những phân tích đó chúng ta có trong các chính sách kinh tế của các chính
  2. phủ. lên trong tổng cầu (AD), xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, trong đó tác giả nhấn mạnh đến Theo kinh tế học hiện đại, lạm phát được hai nguyên nhân: tăng đầu tư chính phủ (tăng định nghĩa là hiện tượng tăng mức giá chung G) và tăng tiêu dùng cá nhân (tăng C) của nền kinh tế một cách liên tục và kéo dài. Lạm phát do chi phí đẩy xảy ra do giá Mức độ lạm phát được đo bằng đại lượng các yếu tố đầu vào tăng đẩy chi phí sản xuất tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát đo sự thay đổi tăng, hoặc do năng lực sản xuất quốc gia bị trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI) qua các thời giảm sút. kỳ. 2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam Tỷ lệ lạm phát hiện nay được chia ra làm năm 2007-2008 ba cấp độ. Một là, lạm phát một con số (từ 0% đến 9%). Cấp độ lạm phát này không đáng Là một quốc gia liên tục có tốc độ tăng ngại, thậm chí nhiều quốc gia còn coi mức trưởng dương trong gần 20 năm, lạm phát lạm phát một con số này là “dầu bôi trơn” luôn là hiện tượng kinh tế cố hữu ở Việt Nam. cho nền kinh tế, cần được khuyến khích. Hai Nhưng trong 10 năm qua chưa một năm nào là, lạm phát hai con số (từ 10% đến 99%) hay tỷ lệ lạm phát lại tăng cao đến hai con số, vấn còn gọi là lạm phát phi mã. Khi nền kinh tế đề khắc phục lạm phát lại trở nên cấp bách đạt mức lạm phát này thì bắt đầu báo hiệu có như năm 2007 và đầu năm 2008. Theo số liệu hiện tượng bất thường, cần các nhà nước phải thống kê, năm 2007 lạm phát ở Việt Nam đạt tập trung lực lượng đối phó. Khi lạm phát đạt mức kỷ lục là 12,63%, trong 8 tháng đầu năm đến 20% thì thực sự nguy hiểm, nền kinh tế 2008, tháng 1 tiếp tục tăng 2,38%, tháng 2 MLN- VTKT bắt đầu rơi vào khủng hoảng, cần phải được tăng 3,56%, tháng 3 - 2,99%, tháng 4 - 2,2%, kiềm chế ngay lập tức. Và cuối cùng là lạm tháng 5 – 3,91%, tháng 6 – 2,14%, tháng 7 – phát ba con số (từ 100% trở lên) còn gọi là 1,13%, tháng 8 – 1,56%. Tính cả 8 tháng, CPI siêu lạm phát. Đây là hiện tượng kinh tế hết đã tăng 22,14% so với 8 tháng đầu năm 2007. sức đáng lo ngại, cho thấy nền kinh tế đã rơi Vậy nguyên nhân nào đã đẩy tỷ lệ lạm phát ở vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, có Việt Nam cao đến mức cao như vậy? nguy cơ sụp đổ. * Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam Hiện nay có rất nhiều cách phân loại 2007 - 2008 nguyên nhân lạm phát. Nhưng tác giả nhất trí Như đã nêu ở phần đầu, lạm phát xuất với cách phân loại chia nguyên nhân lạm phát phát từ 3 nguyên nhân cơ bản: lạm phát tiền thành ba loại: Lạm phát do tiền tệ, lạm phát tệ, lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy. Ở do cầu kéo và lạm phát do chi phí đẩy. Việt Nam, năm 2007 và đầu năm 2008 tồn tại cả ba tác nhân đó, sự tác động tổng hợp đồng Lạm phát do tiền tệ: nghĩa là lạm phát do thời của chúng đã làm cho lạm phát tăng liên cung tiền liên tục tăng lớn hơn mức tăng của tục, như một con ngựa bất kham. tăng trưởng kinh tế Lạm phát do cầu kéo gây ra bởi sự tăng Đầu tiên là tác nhân cầu kéo: năm 2007
  3. cầm, dịch lợn tai xanh diễn ra trong năm đã nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng lớn làm cho hàng loạt cánh đồng lúa và hoa màu nhất trong 10 năm (8,5%). Đạt được mức tăng phía Bắc bị phá hủy toàn bộ, số lượng gia trưởng cao như vậy là nhờ năm 2007 chính cầm, gia súc giảm đáng kể. Điều này đã làm phủ đã mở rộng rất nhiều danh mục đầu tư với cho cung các mặt hàng luơng thực, thực phẩm tổng số vốn đầu tư lên tới 521700 tỷ đồng giảm, gây mất cân đối cung cầu, đẩy giá hàng (tăng 52% so với năm 2005, tăng 28,9% so lương thực thực phẩm tăng cao. với năm 2006,), trong đó đầu tư công là 208100 tỷ đồng (tăng 28,8% so với năm 2005, Tuy nhiên nếu chỉ có hai nguyên nhân tăng 12,4% so với năm 2006. Số vốn đầu tư trên, thì lạm phát ở Việt Nam chưa thể đạt đến được mở rộng như vậy đã làm cho cầu về mức kỷ lục như vậy. Phải khẳng định rằng, nguyên liệu, nhiên liệu, thiết bị công nghệ… trong năm 2007 trước sự biến đổi chung của tăng đột biến. Trong khi cung về các mặt hàng thế giới, không chỉ Việt Nam phải đối mặt với đó trong nước thay đổi không đáng kể. Điều lạm phát mà tất cả các quốc gia trên thế giới đó, đã dẫn dến dư cầu, đẩy giá cả tăng cao. đều phải đối mặt với vấn đề này. Tuy nhiên, Mặt khác, thị trường chứng khoán, thị trường mức lạm phát của đa số quốc gia chỉ dao động bất động sản diễn biến sôi nổi đầu năm 2007 trong khoảng 8- 9 %. Việt Nam là một trong đã làm cho thu nhập của một bộ phận dân cư số ít quốc gia lạm phát tăng qua con số 12%. tăng đáng kể, thu nhập tăng thúc đẩy tiêu Chính vì vậy, khi nói đến lạm phát ở Việt dùng tăng cao, tiêu dùng tăng lại đẩy tổng cầu Nam cần đặc biệt chú trọng đến một nguyên tăng, kết quả là giá cả tất cả các mặt hàng hoá nhân hết sức quan trọng – đó là nguyên nhân tăng MLN- chính sách tiền tệ trong nước. Và có thể khẳng VTKT định rằng đây mới là nguyên nhân cơ bản Thứ hai là tác nhân chi phí đẩy. Năm nhất, trực tiếp nhất dẫn đến tỷ lệ lạm phát 2007, chính phủ Mỹ duy trì chính sách đồng chạm mức kỷ lục như vậy. đô la yếu, kết hợp với biến động chính trị trên thế giới đã đẩy giá cả của các mặt hàng yếu tố Ngày 7/11/2006 đánh dấu sự kiện quan đầu vào nhập khẩu tăng (giá xăng dầu tăng trọng trong lịch sử Việt Nam, sau nhiều năm 51,2%, giá phôi thép tăng 51,2%, giá phân đàm phán Việt Nam đã trở thành là thành viên bón tăng 67%, thuốc trừ sâu tăng 28,4%....) của tổ chức thương mại thế giới (WTO), vị Giá yếu tố đầu vào tăng như vậy đã làm tăng thế của Việt Nam đã được đưa lên tầm cao chi phí sản xuất, để đảm bảo lợi nhuận, các mới. Chính vì vậy, năm 2007 là năm mà Việt nhà sản xuất đã phải tăng giá thành phẩm đầu Nam thu hút được một lượng vốn đầu tư trực ra, đưa mức giá cân bằng lên tầm cao mới. tiếp nước ngoài (FDI) khổng lồ, cao nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế, với tổng số vốn FDI Ngoài ra, cũng xuất phát từ nguyên nhân thực tế đưa vào nền kinh tế lên tới 8,03 tỷ chi phí đẩy nhưng ở khía cạnh khác: Thời USD. Trước tình hình đó, ngân hàng trung điểm cuối năm 2007 cũng là lúc năng lực sản ương đã tung một số lượng lớn tiền đồng để xuất của quốc gia trong ngành nông nghiệp mua số ngoại tệ trên. Số tiền đó được tung vào giảm sút. Đợt rét đậm rét hại kéo dài kỷ lục lưu thông qua chức năng mua bán ngoại tệ của cuối 2007, đầu 2008 kết hợp với dịch cúm gia
  4. trữ, thị trường tài chính xáo động gây bất ổn ngân hàng thương mại, rồi đến lượt nó với kinh tế vĩ mô… chức năng tạo tiền, ngân hàng thương mại đẩy số cung tiền thực tế tiếp tục tăng lên theo cấp Trước tình hình đó để ổn định nền kinh số nhân. Điều này vô hình chung đã làm cho tế, chính phủ đã ban hành hàng loạt chính cung tiền trong nước tăng cao, đẩy khoảng sách để kiềm chế lạm phát cách giữa cung tiền và tổng sản phẩm quốc 3. Một số giải pháp nhằm kiềm chế nội (GDP) giãn xa. Tính đến cuối tháng 6 năm lạm phát 2007, mức tăng trong cung tiền đã tăng gấp xấp xỉ 5 lần so với mức tăng của GDP. Sự mất Nhận định nguyên nhân tình hình lạm cân đối trầm trọng này, đã làm tiền Việt Nam phát ở nước ta là do mất cân đối cung cầu đồng mất giá nhanh chóng, giá cả hàng hoá tiền, vì vậy chính sách đầu tiên mà chính phủ tăng với tốc độ chóng mặt. sử dụng để kiềm chế lạm phát là sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Bước đi đầu tiên Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu là ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt kinh tế, việc làm của Ngân hàng trung ương buộc từ 10% lên 11%, đồng thời nâng lãi suất trong thời kỳ đó là đúng nhưng chưa đủ. Khi cơ bản đến 12%, 13%, 14%. Động thái điều quyết định bơm tiền Việt Nam đồng vào để chỉnh này của ngân hàng trung ương đã làm mua ngoại tệ, chính phủ mới nhìn đến hiệu cho lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng quả trước mặt như tăng dự trữ ngoại tệ, có tiền thương mại tăng cao, thúc đẩy người dân gửi Việt Nam Đồng để thực thi các dự án đầu tư tiền vào ngân hàng. Đồng thời, chính phủ ra của nước ngoài mà chưa nhìn thấy hậu quả lâu chỉ thị cho các ngân hàng thương mại thắt MLN- dài là làm tăng vượt trội cung tiền trong nền VTKT chặt tín dụng để hạn chế tiền chảy vào lưu kinh tế. Lẽ ra khi nhận thấy lượng vốn FDI thông. Đây là một biện pháp được đánh giá là chảy vào trong nước tăng đột biến như vậy, khá mạnh tay của chính phủ nhằm mục đích chính phủ phải thực hiện chính sách tài khoá rút bớt lượng tiền mặt trong nền kinh tế, vì khi thắt chặt, chính sách tiền tệ thắt chặt ở mức độ thực hiện biện pháp sẽ có hiệu quả nhanh nhẹ kết hợp với việc ngân hàng trung ương chóng nhưng sẽ gây ra sự xáo trộn lớn trong tung tiền ra mua ngoại tệ như trên. Nếu làm nền kinh tế, làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh vậy, thì cung tiền đã không tăng quá cao và do tế của quốc gia. đó, cho dù có nguyên nhân cầu kéo và chi phí đẩy thì tình hình lạm phát ở Việt Nam đã Sau 10 tháng thực thi nhóm biện pháp không trầm trọng đến như thế. điều chỉnh cung tiền này, đến nay lạm phát trong nước đã bắt đầu được kiềm chế. Tuy Tỷ lệ lạm phát cao đã đem lại hệ luỵ cho nhiên, nếu tiếp tục duy trì biện pháp này thì sẽ toàn bộ nền kinh tế, nổi bật là giá cả tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất trong đã khiến đời sống nhân dân trở nên rất khó nước. Vì theo nguyên tắc hoạt động của ngân khăn, xoá bỏ thành tựu xoá đói giảm nghèo hàng thương mại, để đảm bảo lợi nhuận ngân hơn 10 năm qua, kìm hãm sản xuất, tăng hàng thì lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất trưởng kinh tế thực tế âm, người dân mất lòng huy động. Trong khi đó, lãi suất huy động đã tin vào VNĐ, ồ ạt mua vàng và ngoại tệ tích
  5. đạt mức 17 – 19%, do đó đẩy lãi suất cho vay lạm phát, chính phủ đã có những biện pháp tăng đến mức 20 – 25%. Với mức lãi suất cho hiệu quả. Đến nay, dù chỉ số lạm phát còn vay như vậy, thì dù cần vốn, đủ điều kiện vay cao, nhưng tình hình đã được kiểm soát. nhưng ít doanh nghiệp nào dám vay. Nhiều xí Trong tháng 8/2008 CPI chỉ còn tăng 1,56%, nghiệp đang phải sản xuất cầm chừng, hoặc giảm mạnh so với tháng 5 (3,91%) và đang có thu nhỏ qui mô sản xuất để giảm bớt thua lỗ. xu hướng giảm dần. Người dân bắt đầu lấy lại Chính vì vậy, trước tình hình đó, trong tháng lòng tin vào tiền Việt Nam đồng, hiện tượng ồ 9 và tháng 10 năm 2008, chính phủ đã giảm ạt mua vàng tích trữ của cải đã không còn. bớt thắt chặt tín dụng ngân hàng, hạng mục cho vay đã được mở rộng, đặc biệt là cho vay III. KẾT LUẬN ngắn hạn đối với những dự án quay vòng vốn Tóm lại, lạm phát ở Việt Nam năm 2007 nhanh, chỉ tiếp tục thắt chặt với khoản vay dài – 2008 xuất phát từ sự tổng hợp của ba hạn hoặc cho vay đầu tư chứng khoán và bất nguyên nhân : do cầu kéo, do chi phí đẩy, và động sản. do chính sách tiền tệ. Trong đó, nguyên nhân Cùng với chính sách tiền tệ trên, chính từ phía chính sách tiền tệ là quan trọng và chủ phủ còn thực hiện đồng thời biện pháp thắt yếu nhất. chặt đầu tư công nhằm khắc phục lạm phát Đến thời điểm hiện nay, «con ngựa bất cầu kéo. Từ đầu năm 2008, chính phủ đã tạm kham - lạm phát» đã được kìm cương, nhưng dừng cấp vốn cho dự án mới chưa cần thiết, những hậu quả mà nó gây ra thì vẫn còn đó, chỉ tập trung vốn vào những dự án hiệu quả không dễ gì khắc phục trong ngày một ngày MLN- của năm trước. VTKT hai. Thiết nghĩ «phòng bệnh hơn chữa bệnh», Đồng thời, chính phủ cũng đã thực hiện vì vậy có thể coi đợt lạm phát vừa qua như nhóm biện pháp xử lý lạm phát chi phí đẩy một bài học giúp chúng ta phòng tránh điều bằng cách hạn chế nhập khẩu hàng hoá thông tương tự xảy ra trong tương lai. Trong đó, bài qua các công cụ như: tăng thuế nhập khẩu các học lớn nhất là khi nền kinh tế có những biến loại hàng hoá thường nhập khẩu với số lượng động đột biến cần thực hiện các biện pháp lớn như: ô tô, vàng, điện thoại… và các hàng điều chỉnh kinh tế vĩ mô kịp thời hơn, nhịp hoá trong nước có khả năng sản xuất như nhàng hơn, đồng bộ hơn, và mang tính toàn lương thực, gia cầm, chỉ ưu tiên cho vay ngoại cục hơn. tệ để thanh toán các hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, còn các mặt hàng khác Tài liệu tham khảo thặt chặt cho vay… Nhờ vậỵ, nhập siêu trong [1]. Tạp chí tiền tệ ngân hàng số 1,2,8,16,17,18. 8 tháng đầu năm 2008 đã giảm: tháng [2]. PGS. TS Trinh Thị Hoa Mai. Giáo trình tiền tệ 1 = 46,6%, tháng 2 = 81,3%, tháng 3 = 71,5%, ngân hàng. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội tháng 4 = 63,1%, tháng 5 = 33,3%, tháng 6 chỉ năm 2004. còn 23%. [3]. Website :http://vietnamnet.vn http://vneconomy.vn Nhờ việc nhận dạng đúng nguyên nhân http://www.gso.gov.vn♦
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2