intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế

Chia sẻ: Pham Huu Truong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

421
lượt xem
147
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy, bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế

  1. TRƯỜNG ………………. KHOA……………….. ----- ----- SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY 1
  2. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY Phạm Nguyễn Ngọc Anh – Học viện chính trị MỞ ĐẦU Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy, bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc, thì đồng thời đều là quá trình tái sản xuất. Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại đã có nhiều nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Tiêu biểu phải kể đến đó là nhà kinh tế người Pháp F.Quesnay với “biểu kinh tế F.Quesnay” nổi tiếng; Adam.Smith cũng để lại trong lịch sử tư tưởng kinh tế những đóng góp nhất định về tái sản xuất;David Ricardo với “lý thuyết thực hiện”; đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp J.Sismondi người đã đưa ra những lời cảnh báo về sản xuất thừa và khủng hoảng kinh tế…Tuy nhiên người đã tạo nên bước ngoặt cách mạng, khoa học trong kinh tế chính trị nói chung và trong lý luận về tái sản xuất nói riêng không ai khác đó chính là Các Mác. Nhà lý luận kiệt xuất của nhân loại đã có những phát kiến và dự báo thiên tài với những lập luận sắc bén, khoa học, Người đã chứng minh quá trình khủng hoảng kinh tế dưới Chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan, từ đó vạch ra bản chất và sự tất yếu diệt vong của Chủ nghĩa tư bản – điều mà các nhà lý luận nói chung và các nhà kinh tế chính trị nói riêng trước đó không làm được, hoặc không thoát ra được gánh nặng giai cấp của mình. Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng 2
  3. hiện nay?”. Thật ra câu hỏi của nữ hoàng Anh cũng là câu hỏi của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhân loại vừa mới trải qua những ngày đen tối có tính chu kỳ. Một lần nữa nghiên cứu lý luận tái sản xuất trong lịch sử tư tưởng kinh tế để có cái nhìn khách quan, toàn diện với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với chút ít tham vọng đó tác giả chọn chủ đề : “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh tế hiện nay” làm nội dung thu hoạch môn học của mình. NỘI DUNG Như đã trình bày, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng kinh tế đã có nhiều trường phái, nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Đây chính là những tiền đề về mặt lý luận cho Các Mác kế thừa và phát triển học thuyết về tái sản xuất xã hội của mình. Sự phát triển kinh tế vào nửa cuối thế kỷ XVIII ở Châu Âu được chuyển dần trọng tâm sang sản xuất, vai trò của thương nghiệp bị giảm sút, các lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương bị mất sức thuyết phục, làm xuất hiện cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương. Trong điều kiện đó, ở nước Anh ra đời kinh tế chính trị tư sản cổ điển, còn ở nước Pháp ra đời trường phái trọng nông hay chủ nghĩa trọng nông, thường gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Pháp. Đại biểu tiêu biểu cho trường phái trọng nông của Pháp đó chính là F.Quesnay – người đã đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nên lý luận về tái sản xuất. Học thuyết này được trình bày tập trung trong “Biểu kinh tế”(1752) và “Phân tích biểu kinh tế” (1766). Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế chính trị F.Quesnay đã phân tích quá trình tái sản xuất tư bản xã hội trong một sơ đồ khái quát, giản đơn nhưng có sức tổng hợp cao, vô số những hành vi lưu thông cá biệt được tổng 3
  4. hợp lại thành một sự vận động phổ biến (quy luật) có tính chất xã hội. Các Mác đánh giá rất cao “Biểu kinh tế”, coi đó là tư tưởng thiên tài Để nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội F.Quesnay đã áp dụng khá thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học. “Biểu kinh tế” được nghiên cứu trên những giả định sau: - Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, bởi như Mác phân tích sau này nghiên cứu tái sản xuất giản đơn là nghiên cứu yếu tố hiện thực của tích lũy, của tái sản xật mở rộng - Lấy tư bản hàng hóa làm điểm xuất phát, sau này Các Mác cũng đã làm như vậy - Không tính đến biến động về giá cả ( giá cả bằng giá trị) - Không tính đến ngoại thương, đây là giả định cần thiết mà sau này J.Sismondi và phái dân túy Nga đã không hiểu khi phân tích lý luận tái sản xuất - Tái sản xuất là quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật và giá trị. Quá trình lưu thông sản phẩm gắn với lưu thông tiền tệ, tiền tệ trở về điểm xuất phát ban đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất. - Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi giữa ba giai cấp: Giai cấp sở hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất - Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm 7 tỷ Frăng, trong đó 5 tỷ là sản phẩm nông nghiệp, 2 tỷ là sản phẩm của giai cấp không sản xuất. Trong 5 tỷ sản phẩm nông nghiệp có :( 1 tỷ để bù đắp tư bản ứng trước đầu tiên, 2 tỷ để bù đắp khoản ứng ra hằng năm, 2 tỷ sản phẩm thuần túy nộp cho giai cấp sở hữu ) - Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp có ( 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật liệu, 1 tỷ bù đắp tư liệu tiêu dùng) 4
  5. - Để lưu thông 7 tỷ sản phẩm trên, giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền mặt với tư cách là tiền tô để trả cho giai cấp sở hữu “ Biểu kinh tế” của F.Quesnay phân tích quá trình vận động của tổng sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn được thể hiện thông qua 5 hành vi: + Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô để mua nông phẩm của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ nông phẩm ra khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu + Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô còn lại để mua một tỷ hàng công nghệ của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ trong hai tỷ sản phẩm công nghiệp đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu. + Hành vi 3: Sau khi nhận một tỷ tiền của giai cấp sở hữu, giai cấp không sản xuất đem tiến đó mua tư liệu sinh hoạt ( nông phẩm) của giai cấp sản xuất. Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được 2/5 số sản phẩm của mình. + Hành vi 4: Giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền vừa thu được để mua TLSX của giai cấp không sản xuất, vậy là giai cấp không sản xuất đã thực hiện xong hai tỷ công nghệ phẩm + Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền vừa nhận được để mua nguyên liệu của giai cấp sản xuất. Kết quả 5 hành vi trên là giai cấp sản xuất đã bán được 3 tỷ nông phẩm, 2 tỷ còn lại dùng để bù đắp chi phí hằng năm( tư bản lưu động) và thu về được 2 tỷ tiền mặt để trả cho giai cấp sở hữu với tư cách tiền tô. Và như vậy quá trình tái sản xuất năm sau đã đầy đủ các yếu tố để diễn ra một cách trôi chảy… “Biểu kinh tế” được đánh giá là một trong những cống hiến to lớn đối với lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại. khi nhận xét về “Biểu kinh tế” C.Mác đã khẳng định những công lao to lớn của F.Quesnay đó là: 5
  6. - Đã sử dụng khá thành thạo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đã đưa ra những giả định cơ bản là đúng vì chỉ trên cơ sở những giả định đó mới nghiên cứu quá trình tái sản xuất tư bản xã hội - Đã phân tích sự vận động của tổng sản phẩm xã hội trên cả hai mặt giá trị và hiện vật, nghiên cứu sự vận động của sản phẩm kết hợp với sự vận động ngược chiều của tiền tệ. - Phân tích sự lưu thông tiền tệ phải theo quy luật tiền bỏ vào lưu thông phải quay về điểm xuất phát ban đầu, vì nếu tiền không quay về điểm xuất phát ban đầu thì quá trình tái sản xuất sẽ không diễn ra Mặc dù có những đóng góp to lớn cho sư phát triển của khoa học kinh tế song “Biểu kinh tế” của F.Quesnay cũng còn bộc lộ một số hạn chế : - Gán cho giai cấp sở hữu một chức năng kinh tế là tạo ra cú huých đầu tiên để quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội được tiến hành( dùng tiền tô để mua hàng của giai cấp không sản xuất và sản xuất) - Phân chia xã hội thành ba giai cấp trên cơ sở lý luận của sản phẩm thuần túy là không đúng. Ông cho rằng chỉ có lĩnh vực nông nghiêp là lĩnh vực sản xuất còn các lĩnh vực khác là lĩnh vực không sản xuất. Khái niệm giai cấp không sản xuất của ông rất tầm thường và không khoa học. Ông cũng cho rằng toàn bộ sản phẩm thuần túy tiêu dùng hết nên không thể tái sản xuất mở rộng được. Điều này gián tiếp F.Quesnay cho rằng dưới CNTB không có khủng hoảng kinh tế, và như thế CNTB tồn tại vĩnh viễn như là xã hội cuối cùng trong lịch sử. Một cái nhìn thiển cận, bảo thủ trì trệ của chủ nghĩa trong nông nói chung và của F.Quesnay nói riêng. 6
  7. - Không thấy được sự trao đổi trong nội bộ ngành công nghiệp, công nghiệp không tiêu dùng sản phẩm của mình cũng như không bù đắp chi phí tư liệu sản xuất của mình. Do vậy, họ không thể tái sản xuất. Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế song “ Biểu kinh tế” được coi là khởi thủy của học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội mà sau này C.Mác tiếp tục nghiên cứu phát triển. Cũng trên cơ sở học thuyết tái sản xuất của mình chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định rõ những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ ra sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển khác cung khá nổi tiếng với lý thuyết về bàn tay vô hình đó chính là Adam Smith (1723-1790). Ông cũng đã dề cập đến lý luận về tái sản xuất. Adam Smith một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Các.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của Adam Smith đó là phương pháp hai mặt: Một mặt, Adam Smith đi sâu tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng, quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô tả , liệt kê, thuất lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bề ngoài của đời sống kinh tế và do đó cũng thường dẫn đến những kết luận phi lý tầm thường. Hai phương pháp này của Adam Smith luôn sống bên nhau, quyện chặt vào nhau và thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Phương pháp luận có tính hai mặt vừa khoa học, vừa tầm thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này. Vế lý luận tái sản xuất, Adam Smith dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao động để xây dựng lý luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hóa bao gồm các thu nhập: tiền lương, lợi nhuận. địa tô. Theo ông tiền lương, lợi nhuận, 7
  8. địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào...tổng giá trị trao đổi hay giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ phận đó”. Như vậy tổng giá trị của hàng hóa chỉ có V+m, chỉ bằng giá trị mới sáng tạo ra, còn bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản xuất đã bị Adam Smith loại ra khỏi giá trị của hàng hóa. Ông coi giá trị của TLSX nằm trong tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Sai lầm của Adam Smith là ông đã lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm với giá trị mới sáng tạo ra; ông không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, không thấy được sự dịch chuyển giá trị cũ và sự sáng tạo ra giá trị mới. Adam Smith đã đã vấp phải vấn đề cần phải phân biệt trong lý luận, đó là hai hình thức lao động, một thứ cung cấp vật phẩm tiêu dùng, còn một thứ cung cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng (máy móc, công cụ). Lê nin cho rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. Như vậy Adam Smith đã cò một bước tiến dài so với những người trước ông. Ở ông đã có mầm móng thiên tài về sự phân chia nền sản xuất thành hai khu vực. Chính C.Mác đã bắt gặp “gợi ý” của Adam Smith và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản phẩm xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng Các Mác đánh giá cao Adam Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích lũy thì phải dành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận điểm này của Adam Smith nói rõ nguồn gốc của tích lũy tư bản là lao động. nhưng ông đã phạm sai lầm cho rằng việc tích lũy tư bản chỉ là việc biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản bất biến phụ thêm. Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith đã đề cập đến sản phẩm – chia làm hai nhóm TLSX và TLTD, giá trị sản phẩm gốc gồm có C+V+m phân chia nền sản xuất xã hội hai khu vực nhưng lí giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này 8
  9. phải chờ đến Mác mới giải quyết được. Có thể nói công lao to lớn nhất của Adam Smith là đaã đưa khoa học kinh tế chính trị thành một hệ thống. David Ricardo là một đại biểu kiệt xuất của khoa kinh tế chính trị tư sản. Các Mác coi ông là người đã hoàn thành lý luận của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Ông là nhà tiền bối lớn nhất của Mác. David Ricardo sống trong thời kỳ hoàn thành cách mạng công nghiệp ở Anh. Đó chính là điều kiện khách quan làm cho việc nghiên cứu của ông vượt qua được giới hạn mà AdamSmith dừng lại. Thế giới quan của ông có tính duy vật, tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông là chủ nghĩa duy vật máy móc. Là tư tưởng gia của giai cấp tư sản công nghiệp, David Ricardo coi khát vọng tăng thu nhập của giai cấp tư sản là một tiêu chuẩn kinh tế (ông xuất thân từ một người buôn chứng khoán), ông ít quan tâm đến lợi ích và vận mệnh của giai cấp vô sản và cho rằng phương thức sản xuất phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức có ợi nhát để tạo ra của cải. Ông đã có những giả định đúng, xem tiêu dùng là do sản xuất quyết định, muốn tái sản xuất mở rộng thì phải làm cho sản xuất vượt quá tiêu dùng. Sản xuất phát triển sẽ tạo ra thị trường Theo ông phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có hai mâu thuẫn chi phối đó là: tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm trong quá trình tích lũy tư bản và mâu thuẫn về kinh tế giữa các giai cấp trong xã hội. Ông không nhận thấy những mâu thuẫn khác bắt nguồn từ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. David Ricardo phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, ông khẳng định nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng phổ biến, vì lượng cầu thường là những lượng cầu có khả năng thanh toán. Lượng cầu đó được củng cố thêm bằng lượng cung hàng hóa và “ sản phẩm bao giờ cũng được mua bằng sản phẩm hay bằng những sự phục vụ, tiền chỉ làm thước 9
  10. đo khi thực hiện sự trao đổi đó”. Ông chỉ thừa nhận khủng hoảng sản xuất thừa cá biệt loại sản phẩm này hay loại sản phẩm kia, nhưng chủ nghĩa tư bản có thể điều chỉnh được mất cân đối chỉ là tạm thời. Lý luận về thực hiện tổng sản phẩm xã hội của David Ricardo là điểm yếu nhất trong học thuyết kinh tế của ông. Ông chưa tiến lên một bước nào so với các nhà kinh tế trước đó. Ông mất năm 1823 nên không được chứng kiến cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên của chủ nghĩa tư bản diễn ra năm 1825. Mác viết “lịch sử có thể tha thứ cho ông” Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi đáng kể về kinh tế xã hội ở các nước tư bản Tây Âu. Giai cấp tư sản và vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội tư bản. Sản xuất bằng máy móc ra đời, làm cho sự phụ thuộc của công nhân vào nhà tư bản từ hình thức trở thành thực tế. Cạnh tranh vô chính phủ, phân hóa giai cấp, sự bần cùng hóa và thất nghiệp của giai cấp vô sản ngày càng tăng. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản xuất hiện mà đại biểu tiêu biểu phải kể đến đó là S.Sismondi. Mác coi J.Sismondi là đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp. J.Sismondi cho rằng mục đích của sản xuất là tiêu dùng: sản xuất phải phù hợp với thu nhập và thu nhập phải phù hợp với tiêu dùng chính vì vậy sản xuất phải phù hợp với tiêu dùng; nếu sản xuất vượt quá tiêu dùng (tiêu dùng không đầy đủ) thì một bộ phận hàng hóa sẽ không thực hiện được giá trị nên dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Khác với quan điểm của Ricardo ông cho rằng khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan chứ không phải cục bộ ngẫu nhiên. Chính vì vậy J.Sismondi đã đi tìm nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Ông đưa ra tiền đề lý luận, tiêu dùng đóng vai trò quyết định sản xuất, nhu cầu quyết định sản xuất, sản xuất tư bản chủ nghĩa tách rời nhu cầu vì sản 10
  11. xuất phụ thuộc động cơ thu lợi nhuận tối đa, vì sự phát triển của công nghiệp cơ khí. Từ đó ông khẳng định, nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản càng phát triển , sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm sút (tiêu dùng không đầy đủ), nguyên nhân tiêu dùng không đầy đủ ( lạc hậu so với sản xuất ), là do sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến phá sản những người sản xuất nhỏ. Do vậy làm cho thu nhập giảm, tiêu dùng giảm, kéo theo tình cảnh điêu đứng của những người vô sản thất nghiệp, tiền lương thấp làm giảm nhu cầu tiêu dùng mặt khác trong giai cấp tư sản cũng có khuynh hướng hạn chế tiêu dùng, tăng tích lũy. Từ đó S.Sismondi kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng. J.Sismondi cũng đã đưa ra những con đường, biện pháp để tránh khủng hoảng kinh tế.Theo ông, khủng hoảng không nổ ra thường xuyên là nhờ có ngoại thương, nhưng đó là lối thoát tạm thời, lối thoát thứ yếu là các nhà tư bản tiêu dùng nhiều hơn, lối thoát cơ bản là phát triển sản xuất nhỏ. Vì sản xuất nhỏ là sản xuất vừa phải, dẫn đến thu nhập sản xuất nhỏ tăng, do đó sản xuất ăn khớp nhu cầu tiêu dùng. Như vậy nghiên cứu lý luận khủng hoảng kinh tế của J.Sismondi có thể nhận thấy các vấm đề sau: - Điều hợp lý ở S.Sismondi là ông đã khẳng định khủng hoảng kinh tế là tất yếu, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ có sản xuất thừa đó là kết quả của mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng - Do đồng nhất sản xuất với thu nhập nên ông không phân biệt được sự khác nhau giữa tư bản và thu nhập quốc dân, không phân biệt được tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân và do đó không thấy được vai trò tích lũy sản xuất. 11
  12. - Ông xem xét khủng hoảng theo quan điểm sản xuất nhỏ, quan điểm tiểu tư sản, giải thích sự giảm sút của thị trường do suy đồi của nền sản xuất nhỏ. Sở dĩ như vậy là vì ông không hiểu nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế - đó là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Kế thừa có phê phán những thành tựu tư tưởng nói chung và lịch sử các học thuyết kinh tế nói riêng Mác đã làm nên một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị trong đó có lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội. Mác là người đầu tiên vạch trần bản chất và chỉ ra tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Bằng việc vận dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học một cách nhuần nhuyễn trong phân tích các vấn đề kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản Mác đã xây dựng lý luận tái sản xuất xã hội một cách khoa học và triệt để. Mác đã gạt bỏ những sai lầm của A.Smith và Quesney khi đưa ra các giả định dựa trên hai nguyên lý : Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm ba bộ phận C+V+m (xét về mặt giá trị) tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng ( xét về mặt hiện vật) ; phân chia nền sản xuất thành hai khu vực là sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Mác đưa ra những giả định khoa học: - Xã hội tư bản là một xã hội thuần tuý, tức là ở đó chỉ có 2 giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản, chỉ có kinh tế tư bản mà không có các thành phần kinh tế khác. - Giá trị của tư bản bất biến chuyển hết vào sản phẩm trong thời gian 1 năm. - Giá cả bằng giá trị: tức là không tính đến sự lên xuống của giá cả quanh giá trị dưới tác động của cung cầu. - Không có ngoại thương, coi thế giới tư bản là một khối thống nhất. - Tỷ suất giá trị thựng dư hay trình độ bóc lột không đổi (là 100%) và cấu tạo hữu cơ của tư bản không thay đổi giữa năm này với năm khác. 12
  13. Nhờ những giả định KH trên, C.Mác đã khắc phục sai lầm của A.Smith là đồng nhất giá trị HH với thu nhập trong công thức tam vị nhất thể, khiến cho không thể tái SX giản đơn vì C không được bù đắp. Mác cũng rút ra các quy luật hay điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội của tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Thông qua lý luận về tái sản xuất xã hội Mác đã chỉ ra tính chất chu kỳ, tính tất yếu của khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu lý luận tái sản xuất xã hội của Mác có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nhận thức về cuộc khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn hiện nay, đồng thời kiên định với những nhận định và dự báo khoa học, cách mạng của Mác về bản chất và tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Thực chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế Khủng hoảng kinh tế là sự biến động và làm gián đoạn quá trình tái sản xuất xã hội, phá hoại các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế. Từ đầu thế kỷ XIX khi đại công nghiệp cơ khí xuất hiện, quá trình tái sản xuất của CNTB bị lâm vào những cuộc khủng hoảng kinh tế một cách chu kỳ. Khủng hoảng kinh tế TBCN là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Biểu hiện của nó là hàng hoá sản xuất không tiêu thụ được, công nhân bị thất nghiệp, xí nghiệp phải đóng cửa, thị trường xã hội rối loạn. “Thừa” hàng không có nghĩa là đã bão hòa với nhu cầu xã hội mà chỉ thừa so với sức mua của quần chúng lao động. Khả năng khủng hoảng kinh tế đã tiềm tàng trong sản xuất hàng hoá giản đơn. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện thực. Nguyên nhân cơ bản sâu xa của khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ 13
  14. nghĩa về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Những biểu hiện chính của mâu thuẫn đó gồm: 1. Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp với tính chất tự phát vô chính phủ của sản xuất xã hội nhất là trong giai đoạn tự do cạnh tranh. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có sự can thiệp, điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản thông qua các kế hoạch và chương trình kinh tế nhưng nền tảng của nền kinh tế của xã hội tư bản vẫn không thay đổi. Do đó, các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế vẫn bị phá vỡ vì nó phục tùng trước hết lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền. Nhà nước tư sản hiện đại phải phục tùng ý chí của giai cấp tư sản. 2. Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rông sản xuất vô hạn của chủ nghĩa tư bản và sức mua có hạn của quần chúng 3. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Đặc điểm của sản xuất TBCN là sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất thì tập trung trong tay giai cấp tư sản còn người công nhân ngoài sức lao động của mình không còn gì để kiếm sống. Sự tách rời 2 yếu tố đó của sản xuất biểu hiện rõ rệt trong khủng hoảng kinh tế. Lúc này tư liệu sản xuất không được sử dụng còn người lao động không có việc làm. Khủng hoảng luôn là bạn đồng hành của kinh tế tư bản chủ nghĩa có tính chu kỳ với biên độ ngày càng dầy hơn. Bất kỳ khủng hoảng nào cũng chỉ xuất hiện khi bị mất thăng bằng, bị mất cân đối giữa những phần cấu thành sự thống nhất. Trong phạm trù kinh tế thì khủng hoảng xuất hiện khi thăng bằng giữa cầu và cung của hàng hóa hoặc dịch vụ bị mất. Có bao nhiêu lý thuyết về kinh tế, thì có bấy nhiêu loại khủng hoảng kinh tế. Và gần như tất cả các lý thuyết đều nói là không thể tránh khỏi khủng 14
  15. hoảng kinh tế được. Nó là một phần của hệ thống kinh tế và sẽ chỉ biến mất khi chúng ta xóa bỏ luật lệ kinh tế theo kiểu mẫu thị trường và kế hoạch. Trường phái tự do chủ nghĩa khẳng định rằng kinh tế có tính chất chu trình, có thời kỳ phát triển và đổ vỡ, bởi vì nhu cầu tiêu dùng và đầu tư có dạng sóng. Còn chủ nghĩa Mác khẳng định rằng khủng hoảng tài chính là thuộc tính cần thiết của chủ nghĩa tư bản, vì mục tiêu chính trong hệ thống của chủ nghĩa tư bản đã khởi sự là phải thu lợi nhuận. Mô tả dưới dạng sơ đồ thì nó thể hiện câu chuyện như sau: mức độ sản xuất hàng hóa tăng lên và vượt nhu cầu tương ứng khả năng thanh toán thực tế, dẫn tới chuyện phải cho vay tiền để mua hàng hóa với mục tiêu tăng cầu. Nợ nần dần dần tích lũy, tiền-hàng hóa không cho vay được nữa và sự sản xuất rút ngắn lại vì không cần thiết. Bắt đầu qúa trình sa thải nhân viên-công nhân với quy mô lớn, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, mức độ sung túc trong cuộc sống và sinh hoạt sụt giảm. Chu kỳ như thế này của hệ thống kinh tế chủ nghĩa tư bản là định lý. Những thời kỳ phát triển mạnh mẽ và suy sụp chuyền từ tay nọ sang tay kia. Các nhà bác học đã cố gắng tìm hiểu lý do của những khủng hoảng từ lâu, nhưng chưa có kết qủa. Mỗi trường hợp là một câu chuyện khác nhau.“Theo bản chất của vòng tuần hoàn công nghiệp, thì một khi vòng tuần hoàn đã được người ta phát động, tất nhiên nó sẽ được tiếp tục cứ lặp đi lặp lại mãi theo chu kỳ. Ở thời kỳ tiêu điều, sản xuất giảm xuống đến mức mà nó đã đạt được trong vòng tuần hoàn trước, và đó lại là một nền sản xuất mà bây giờ người ta đã có một cơ sở kỹ thuật đích đáng. Trong thời phồn vinh – tức là thời kỳ trung gian – nền sản xuất tiếp tục phát triển trên cơ sở đó. Trong thời kỳ sản xuất quá thừa và đầu cơ, việc sản xuất đã huy động các lực lượng sản xuất đến mức tối đa, đến mức vượt ra 15
  16. khỏi các giới hạn tư bản chủ nghĩa của quá trình sản xuất” (C. Mác : tư bản tiếng Nga, Mạc tư khoa, 1955 q.III tr 505) Như vậy, Các cuộc khủng hoảng đều diễn ra theo một trình tự đại thể như nhau, cho dù lĩnh vực và quốc gia hứng chịu đầu tiên, mức độ mạnh yếu, phạm vi lan tỏa, độ dài thời gian có thể khác nhau. Tóm lại, khủng hoảng kinh tế lặp đi lặp lại như một quy luật khách quan, vận hành theo một cơ chế đại thể như nhau với một số khác biệt tùy theo bối cảnh từng nước và từng thời kỳ. Cái khác căn bản là ngày nay, dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, tính tùy thuộc giữa các quốc gia quá chặt chẽ, đứng trước hiểm họa chung các nước đều phải cụm lại đối phó. Do đó, khủng hoảng đỡ nghiêm trọng hơn và không đưa tới chiến tranh thế giới. Khủng hoảng kinh tế tác động tới nước ta và những vấn đề cần quan tâm Về mặt nhận thức, theo nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan cần làm rõ hai điều Một là, hiện nay có hai luồng ý kiến về tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến kinh tế nước ta. Một luồng cho rằng, tác động đó sẽ có độ trễ và không lớn do nước ta hội nhập chưa sâu; luồng ý kiến thứ hai cho rằng, tác động đó rất nhanh và khá sâu. Có lẽ, cách đề cập thứ hai chuẩn xác hơn, và thực tế vừa qua đã chứng minh như vậy. Thực tế là, ngày nay không có bất kỳ nền kinh tế nào có thể tách biệt hoàn toàn với kinh tế thế giới, vả lại nước ta lại tùy thuộc quá nhiều vào kinh tế thế giới cả ở đầu vào (vốn, máy móc, thiết bị, nguyên – nhiên – vật liệu nhập khẩu) lẫn đầu ra (xuất khẩu); nay lại hội nhập đầy đủ với kinh tế thế giới. Điều này khác hẳn thời kỳ nổ ra cuộc khủng hoảng khu vực cuối những năm 90 thế kỷ trước. 16
  17. Hai là, một số người cho rằng, những khó khăn của nền kinh tế nước ta đều do quá trình hội nhập kinh tế thế giới gây ra. Đúng như ta đã lường trước, một khi hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới thì tất yếu ta sẽ chịu tác động của nó, cả về chiều thuận lẫn chiều nghịch. Lạm phát cao một phần do điều này, kinh tế suy giảm một phần cũng do tác động của khủng hoảng toàn cầu. Nói như vậy không có nghĩa là mọi chuyện đều do hội nhập, mà một phần không nhỏ còn do sự yếu kém vốn có của nền kinh tế, cùng những bất cập trong điều hành nền kinh tế thị trường lại hội nhập đầy đủ với kinh tế thế giới. Với tư cách là những người nghiên cứu lý luận về kinh tế chính trị khi đề cập đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay cần đề cập trên cả hai bình diện, lý luận và thực tiễn, trước mắt và lâu dài. Về lý luận có mấy vấn đề đáng quan tâm: Thứ nhất, như trên đã nói, khủng hoảng chu kỳ là cơ cấu đồng hành với chủ nghĩa tư bản và đây là quy luật bất biến. Cuộc khủng hoảng lần này cũng không nằm ngoài quy luật đó, nó đánh dấu sự thất bại của lý thuyết chủ nghĩa tự do mới tuyệt đối hóa sức mạnh vạn năng của thị trường, song chắc rằng chưa phải là sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản nói chung và cơ chế thị trường nói riêng. Kinh nghiệm cho thấy, cứ sau mỗi cuộc khủng hoảng những nhân tố, doanh nghiệp kém hiệu quả lại bị loại trừ; chủ nghĩa tư bản lại đổi mới cơ cấu và cơ chế, lấy lại sức bật mới. Đồng thời, sau mỗi cuộc khủng hoảng luận thuyết kinh tế cũ được điều chỉnh hoặc được thay bằng luận thuyết mới. Lần này người ta nói nhiều đến vai trò điều tiết của nhà nước và trên thực tế ở khắp mọi nơi nhà nước đều phải ra tay. Thực ra không phải ngày nay mà từ trước tới nay dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dù tự do hay độc quyền, nhà nước vẫn điều tiết các hoạt 17
  18. động sản xuất – kinh doanh bằng cách này hay cách khác, thậm chí có khi, có nơi doanh nghiệp quốc doanh chiếm vị trí khá quan trọng, do đó không nên coi sự can thiệp của nhà nước chỉ là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vấn đề chỉ là giai cấp nào là giai cấp thống trị nhà nước này hay nhà nước khác. Thứ hai, liên quan tới vấn đề trên, một đề tài mang tính thời sự nữa là: xác định rõ chức năng của thị trường và của Nhà nước trong điều kiện nước ta đã chuyển sang thể chế kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế thế giới; phương cách mà nhà nước điều tiết nên như thế nào trong hoàn cảnh đó? Dù sao đi nữa thì cũng không thể phó mặc hoàn toàn cho "bàn tay vô hình" của thị trường, mặt khác thật là sai lầm lớn nếu trở lại cơ chế hành chính mệnh lệnh, bao cấp, xin – cho, không đếm xỉa tới các quy luật khách quan của thị trường. Thứ ba, khủng hoảng đồng hành với chủ nghĩa tư bản hay là quy luật của sản xuất hàng hóa? Các nước xã hội chủ nghĩa dưới thời kế hoạch hóa tập trung có tránh được khủng hoảng không? Các nước chủ trương cải cách và mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa có bị khủng hoảng không? Về mặt thực tiễn, cần tính đến các tác động ngắn hạn cũng như tác động trung và dài hạn. Về tác động ngắn hạn đã được bàn thảo nhiều và đang được xử lý.Những tác động dài hạn là điều đáng được bàn nhiều hơn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Về lý luận, như trên đã nói, cần làm rõ "cơ chế vận hành" của tình trạng suy giảm, suy thoái, thậm chí khủng hoảng kinh tế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa sự điều tiết của thị trường và nhà nước trong điều kiện thể chế thị trường và hội nhập. Bên cạnh đó, tác động của cuộc khủng hoảng lần này đặt ra vấn đề về sự cần thiết xử lý thỏa đáng các mối quan hệ sau: 18
  19. - Mối quan hệ giữa tốc độ với chất lượng, hiệu quả; giữa phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu. Đứng trước nguy cơ bị tụt hậu ngày càng xa về trình độ phát triển kinh tế, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", đương nhiên nước ta cần phát triển nhanh. Vấn đề chỉ là bằng giá nào và nên xử lý thế nào mối tương quan giữa yêu cầu "nhanh"và yêu cầu "bền vững"? Kinh nghiệm thế giới và bản thân nước ta cho thấy, chất lượng, hiệu quả tăng trưởng mới có ý nghĩa quyết định và lâu bền. Bản thân khái niệm "kinh tế" (economy) đã có nghĩa là sản xuất ra nhiều của cải nhất với chi phí ít nhất. Từ nhận thức như vậy, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề về cơ cấu đầu tư, cơ sở sản xuất, cơ chế thị trường… Để bảo đảm chất lượng và hiệu quả tăng trưởng thì hệ số sử dụng đồng vốn mới quan trọng chứ không chỉ là hệ số đầu tư so với GDP. Vừa qua, kinh tế nước ta phát triển chủ yếu theo chiều rộng, thậm chí có thể coi là một nền kinh tế tiêu hao. Nhân tố vốn chiếm tới 57,5% tăng trưởng, nhân tố lao động chiếm 20%, trong khi ở các nước trong khu vực tỷ lệ đó là 35% – 40%. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP quá cao, trong nhiều năm trên 40%, năm 2007 lên tới 45,6%. Trong khi đó, chỉ số ICOR lại kém dần: 2001 – 2005 là 4,89; 2006 là 5; 2007 là 5,4; 2008 là 6,8 và dự kiến kế hoạch năm nay là 6,1. Trong khi các nước đang hướng tới việc chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất sao cho hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn, nhất là tiết kiệm năng lượng, nếu ta không thay đổi mạnh mẽ thì sự tụt hậu về chất lượng tăng trưởng ngày càng xa hơn. - Mối quan hệ giữa nhân tố bên trong với nhân tố bên ngoài, giữa nội lực với ngoại lực. Từ lâu ta đã nhấn mạnh "nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng", song như trên đã nói, cho tới nay nền kinh tế nước ta vẫn phụ thuộc quá 19
  20. nặng vào bên ngoài ở cả đầu vào lẫn đầu ra. Vốn nước ngoài hiện nay chiếm trên 30% tổng số vốn xã hội; kim ngạch nhập khẩu lên tới 90,2% GDP vào năm 2007. Còn kim ngạch xuất khẩu năm 2007 chiếm tới 76,8% GDP; nếu cộng cả xuất lẫn nhập khẩu thì bằng 167%. Đó là chưa kể cơ cấu rất không hợp lý: nhóm nông – lâm – thủy sản chiếm tới 20,57%, dầu thô chiếm 16,52% và than chiếm 2,21%. Sản phẩm chế biến tuy chiếm 37,6% song chủ yếu là gia công, lắp ráp. Sản phẩm điện tử, vi tính chỉ chiếm 4,21% mà cũng chỉ là lắp ráp, gia công. Cuộc khủng hoảng lần này cho thấy, nước nào tùy thuộc quá nhiều vào xuất khẩu càng bị tác động nhiều. Tuy trong giai đoạn hiện nay nước ta vẫn phải dành ưu tiên cao cho xuất khẩu, còn phải nhập khẩu nhiều, song chiến lược trung và dài hạn cần cơ cấu lại theo hướng: giảm tỷ trọng xuất – nhập khẩu trong GDP và phấn đấu xây dựng một cơ cấu tiến bộ; nếu không kinh tế nước ta sẽ luôn luôn kém hiệu quả, sẽ tụt hậu lâu dài, đồng thời khó bề trụ vững trước những sóng gió trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thị trường trong nước không nhỏ, chẳng bao lâu sau sẽ lên tới 100 triệu dân với thu nhập ngày càng cao, không thể không tăng cường và chấp nhận cạnh tranh ngay trên sân nhà. Bên cạnh đó, hơn bao giờ hết cần đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa phương tiện thanh toán và dự trữ ngoại tệ để duy trì thế cơ động linh hoạt. Về mặt chính trị có mấy vấn đề đáng lưu ý: - Trong hoàn cảnh ngày nay ít có khả năng khủng hoảng đưa tới chiến tranh để phân chia lại thị trường, xu hướng chủ yếu sẽ là tìm cách dàn xếp mâu thuẫn, dung hòa lợi ích để tránh sự sụp đổ toàn hệ thống. Điều đó càng củng cố nhận định của Đảng ta rằng, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, trong vài thập kỷ tới ít có khả năng nổ ra chiến tranh thế giới; hòa bình và hợp tác và phát triển là xu thế lớn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2