intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo thực tập: Phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước - Tăng Tùng Lâm

Chia sẻ: Tang Tung Lam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:96

280
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài báo cáo thực tập "Phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước" do sinh viên Tăng Tùng Lâm để nắm bắt được quan niệm của người dân nới đây về sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. Từ đó thấy rõ vai trò lao động của người phụ nữ trong gia đình, bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới diễn ra như thế nào nhằm góp phần để có cái nhìn đúng hơn về người phụ nữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo thực tập: Phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước - Tăng Tùng Lâm

  1. I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong lịch sử  phát triển xã hội, loài người đã biết đến chế  độ  mẫu  hệ, lúc đó quyền lực trong dòng tộc thuộc về người phũ nữ. Xã hội phát  triển, thay đổi, chế độ mẫu hệ dần bị thu hẹp lại và được thay thế bằng   chế  độ  phụ  hệ, từ  đó quyền lực thuộc về  nam giới. Và trong sự  phát  triển, chính nhờ sự mạnh mẽ về thể chất, sự cứng rắn về tinh thần của   người đàn ông đã góp phần củng cố  cho địa vị  thống trị  của họ. Thế  những, xã hội dần có nhiều sự  thay đổi, sức mạnh về  thể  chất không  còn chiếm  ưu thế  tuyệt đối nữa mà đồng thời xã hội cần những công  dân có trí tuệ, có sức mạnh tư  duy, đó là những đặc điểm mà phụ  nữ  không hề thua kém nam giới.Trong những năm gần đây trên thế giới, vai  trò và vị  trí của người phụ  nữ  được nâng lên kể. Phụ  nữ  đã có quyền  bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do học hành, được tham gia vào  các hoạt động của xã hội theo khả  năng của mình, có được quyền bỏ  phiếu, ứng cử...   Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2002, hàng  năm nền kinh tế toàn cầu đã bỏ  qua khoảng 11 tỉ  USD Mỹ từ thu nhập   của phụ  nữ  do họ  làm những công việc gia đình mà không được tính  công. Thực tế, vô hình chung, công việc gia đình được coi như là nhiệm  vụ  riêng của người phụ  nữ, đó là những “lao động không công”, không  được trả  lương và không được xã hội ghi nhận. Sự  bất bình đẳng này  tồn tại ở mức độ này hay mức độ khác và không ngoại trừ một quốc gia  nào. 1
  2. Tại Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế  ­ xã hội   chuyển từ tự cung, tự cấp, kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường sản  xuất hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước, theo hướng  xã hội chủ  nghĩa. Điều đó có  ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động  kinh tế và đời sống xã hội nói chung. Nhờ có sự chuyển biến định hướng   đúng đắn có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, đời sống nhân dân  được cải thiện, nâng cao hơn. Cơ  chế  thị  trường đi sâu vào mọi khía  cạnh của đời sống, các mối quan hệ của con người đang có sự  thay đổi  lớn. Mối quan hệ  giữa các thành viên trong gia đình cũng chịu những sự  tác động từ sự thay đổi đó. Gia đình vốn được coi là hạt nhân cơ bản của xã hội. Nghị quyết hội   nghị  Trung  ương V đã đặt vấn đề  gia đình  ở  một tầm quan trọng trong  sự nghiệp xây dựng văn  hóa và phát triển về mọi mặt của đất nước. Đó  là “Phải giữ  gìn và phát huy những những đạo đức tốt đẹp vốn có của   gia đình Việt Nam nhằm tạo ra một lối sống lành mạnh, coi trọng xây  dựng gia đình văn hóa và xây dựng mối quan hệ khăng khít gia đình, nhà  trường và xã hội”. Trong đó, mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước  ta là tăng cường sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa  và xã hội của phụ  nữ  nhằm nâng cao vai trò, vị  trí của người phụ  nữ  trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Theo chỉ thị 37/CT­TW   ngày 16­05­1994 khẳng định: “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý  Nhà nước, quản lý kinh tế  ­ xã hội là một yêu cầu quan trọng để  thực  hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài  năng, trí tuệ và nâng cao địa vị cho phụ nữ.” Tuy nhiên, bản thân xã hội   của nước ta với các yếu tố truyền thống, đặc biệt là tư  tưởng Nho giáo  vẫn là một nhân tố đáng kể tác động trực tiếp đến quan niệm và hành vi   ứng xử của người dân trong cuộc sống. Các chuẩn mực xã hội và những  2
  3. lễ  giáo phong kiến khiến cho người phụ  nữ luôn bị  ràng buộc trong gia  đình, rơi vào địa vị phụ thuộc, luôn sống bó hẹp trong “tam tòng tứ đức”  và có thân phận thấp hèn, không được bình đẳng với nam giới. Nhiều  nơi phụ  nữ  bị  đối xử  bất công, luôn bị  lép vế, lao động cực nhọc, thức  khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong gia đình, không được tham gia   vào các công việc trong xã hội. Quan niệm trọng nam khinh nữ  và tư  tưởng coi thường phụ  nữ  vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều hình thức  khác nhau. Chế  độ  gia trưởng  và sự  bất bình đẳng thường  là những  nguyên nhân dẫn đến sự  phụ  thuộc trong cuộc sống gia đình của người  phụ nữ. Bình đẳng giới là một đòi hỏi cấp thiết và thiết thực nhằm đem lại   sự  giải phóng cho phụ  nữ, tạo cho họ  có nhiều cơ  hội cùng nam giơi   tham gia hoạt động xã hội, có được vị trí và chỗ đứng cá nhân ở ngoài xã  hội và bên trong gia đình. Sự  phân công lao động hợp lý các công việc  trong gia đình không những là chìa khóa để đảm bảo cho sự ổn định bền  chặt, êm ấm của gia đình, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của  cả  nam giới và nữ giới về  mọi mặt xã hội. Trong lịch sử  phát triển của  xã hội loài người, bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về  giới cũng đều cản   trở sự phát triển bền vững, tạo nên xung đột xã hội. Vì vậy, vấn đề bình   đẳng giới mang ý nghĩa hết sức sâu sắc về kinh tế, văn hóa, chính trị. Thông qua việc nghiên cứu đề tài về “ Thực trạng sự phân công lao   động giữa vợ và chồng trong gia đình” qua khảo sát tại thôn Đồng Vang  ­  xã Kim Long  ­ huyện Tam Dương ­ tỉnh Vĩnh Phúc, để  thấy được  quan niệm của người dân nới đây về sự phân công lao động giữa vợ và  chồng trong gia đình. Từ đó thấy rõ vai trò lao động của người phụ nữ  trong gia đình, bất bình đẳng giữa nam giới và nữ  giới diễn ra như thế  nào nhằm góp phần để  có cái nhìn đúng hơn về  người phụ  nữ. Thêm  3
  4. nữa, nó còn đề ra những biện pháp và khuyến nghị để nâng cao hơn vai   trò của người phụ  nữ, phát huy hết tiềm năng của người phụ  nữ  góp  phần xây dựng một xã hội ngày càng công bằng văn minh. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà  nước” (Engels, 1884) đã mô tả sự phân công lao động theo giới gắn liền  với các kiểu hôn nhân và gia đình, các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất   khác nhau. “Giới tính thứ hai” (Simone De Beauvoir, 1949) đã giải thích  các nguyên nhân dẫn đến “địa vị hạng hai” của phụ nữ và lên tiếng đấu   tranh nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng nam – nữ trên thế giới. “Sự  huyền bí của nữ  tính” (Betty Friedan, 1963) đã chỉ  ra sự  khốn khổ  và   thất vọng của người phụ nữ nội trợ khi họ bị phụ thuộc vào nam giới.   “Vai trò của phụ  nữ  trong phát triển kinh tế” (Boserup, 1970) đã xác  định một cách có hệ thông và ở phạm vi thế giới sự phân công lao động   giữa vợ và chồng trong nền kinh tế nông nghiệp... “Phân công lao động  theo giới trong gia đình nông dân” (Lê Ngọc Văn, 1997) đã chỉ  ra mô   hình phân công lao động theo giới  ở  khu vực nông thôn trong thời kỳ  kinh tế  thị  trường. Vũ Tuấn Huy và Deborah S. Carr với nghiên cứu:  “Phân công lao động nội trợ trong gia đình” (2000) đã khẳng định sự bất  bình đẳng trong phân công lao động nội trợ ­ nơi phụ nữ đảm nhận chủ  yếu. Các tác giả  cũng chỉ  ra sự  tác động của các yếu tố  nghề  nghiệp,   việc làm, số con, định hướng tâm thế nghề nghiệp có liên quan đến văn  hóa và xã hội hóa. Cuốn sách: “Xu hướng gia đình ngày nay” (Vũ Mạnh  Lợi, 2004) đã đưa ra mô hình phân công lao động giữa vợ và chồng theo   chu trình hôn nhân và tập trung vào việc so sánh mô hình đó. Mô hình đó   chỉ ra rằng việc nội trợ trong gia đình là việc của hầu hết phụ nữ trong   giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân, việc tham gia vào công việc nội trợ  4
  5. của nam giới có xu hướng tăng lên trong giai đoạn tiếp theo của cuộc   sống gia đình.  Tóm lại, từ khi có sự xuất hiện của sự phân công lao động theo giới   đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về  vấn đề  này. Tuy nhiên mỗi   công trình nghiên cứu, mỗi đề  tài khoa học lại nghiên cứu  ở  mỗi khía  cạnh khác nhau của vấn đề. Để  góp phần vào công cuộc nghiên cứu  này, đề  tài “Sự  phân công lao động giữa vợ  và chồng  ở  huyện Tam  Dương – tỉnh Vĩnh Phúc” được nghiên cứu trên cơ  sở  kế  thừa có chọn   lọc các công trình nghiên cứu của các tác giả  đi trước hy vọng sẽ  góp  phần nào cho lĩnh vực nghiên cứu về  phân công lao động theo giới  ở  Việt Nam. Thế giới ngày nay tốt đẹp hơn so với khi bắt đầu bước vào thế  kỷ  20. Tuy mù chữ, nạn bệnh tật và bạo lực vẫn còn gây đau khổ cho rất  nhiều người trên thế giới nhưng cũng đã có nhiều tiến bộ­ sự phổ cập  của giáo dục và tình trạng biết đọc biết viết, những tiến bộ trong khoa   học và y họcdã loại trừ hoặc kiểm soát được nhiều dịch bệnh, sự  trao  đổi thông tin tự do hơn trên khắp thế giới đã khiến những kẻ đi áp bức   phải trả giá đắt hơn nếu muốn áp bức người khác. Một tiến bộ khác nữa là phụ nữ có tiếng nói hơn trong cuộc sống cá  nhân cũng như ngoài cộng đồng. Trong thế  kỷ 20, phụ nữ đã có quyền  bỏ  phiếu và nắm giữ  các vị  trí dân cử   ở  hầu hết các nước ­ cho dù   nhiều khi chỉ  là trên nguyên tắc. Với tư  cách là người lao động, họ  được pháp luật dành cho sự  bảo vệ  đặc biệt khi những điều luật đó  được xem là cần thiết. Họ  ngày càng có nhiều khả  năng tiếp cận đến  dịch vụ y tế và giáo dục. Họ đang tập hợp nhau lại một cách hữu hiệu  cả ở trong nước và quốc tế­ để xác định quyền của phụ nữ như những   5
  6. quyền con người và việc đưa vấn đề  giới vào quá trình hoạch định  chính sách phát triển. Đổi mới kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã tác động mạnh mẽ  tới cơ cấu và sự phân công lao động nam­ nữ trong gia đình. Quy mô gia  đình đang có xu hướng hạt nhân hoá nhưng các yêu cầu xã hội đối với   chức năng gia đình lại tăng lên. Gia đình vừa phải đảm bảo đời sống  vật chất (chức năng kinh tế) và tinh thần (chức năng duy trì tình cảm)   cho các thành viên của mình, vừa phải tích cực tham gia các hoạt động  kinh tế xã hội của cộng đồng. Vai trò của gia đình trong việc tạo công  ăn việc làm, tăng thu nhập và lành mạnh hoá các quan hệ  xã hội luôn  được nhấn mạnh trong các văn bản, đánh giá và các nghiên cứu chính  thức của các cá nhân và tổ chức. Nghiên cứu sự  phân công lao động theo giới trong gia đình vùng  nông thôn thời kỳ  công nghiêp hoa ­ hiên đai hoa đ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ất nước  sẽ  giúp  chúng ta nắm bắt được sự  biến đổi của gia đình, của kinh tế  hộ, sự  biến đổi khuôn mẫu gia đình truyền thống đến hiện đại. Các khu vực nông thôn nằm giữa khu thành thị  và nông thôn nên   những biến đổi về  kinh tế  và văn hoá  ở  đây phức tạp và nhiều chiều   hơn các khu vực khác. Sự  biến đổi đó tác động đến sự  phân công lao  độngtrong các gia đình làm thay đổi mối quan hệ xã hội trong đó có mối  quan hệ  giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là mối quan hệ  giới. Vai trò của người phụ  nữ  bước đầu được chú trọng nhiều hơn   trong các đề tài nghiên cứu về gia đình và phụ nữ. Có thể kể ra một số  bài viết và đề tài sau: - “Đưa vấn đề  giới vào phát triển thông qua sự  bình đẳng giới vế  quyền, nguồn lực và tiếng nói” (Báo cáo nghiên cứu chính sách của  ngân hàng Thế  giới, NXB Văn hoá ­ Thông tin, Hà Nội 2001). Báo cáo  6
  7. nhằm mục đích nâng cao sự  hiểu biết về  mối quan hệ  giữa vấn  đề  giới, chính sách công và sự  phát triển góp phần thúc đẩy sự  bình đẳng   giới. Báo cáo đề xuất một chiến lược 3 phần để nâng cao sự bình đẳng  giới. Báo cáo đề cập đến việc phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc  theo giới thông qua việc tiếp cận các nguồn lực về  kinh tế  và chính  sách xã hội. - “Phụ  nữ  và  nam  giới   và cải  cách  kinh tế   ở   nông thôn”  được   nghiên cứu bởi trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình vào năm 1995.   Đề  tài đã đề  cập  đến sự  phân công lao động theo giới trong gia đình  nông dân trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế  cũng như  các vấn đề  xã hội đặt ra xung quanh mối quan hệ  giữa hiệu quả  kinh tế với tính  công bằng và sự  bình đẳng giới từ sự phân công lao động đó. - Giáo sư  Lê Thi, “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt   Nam” trung tâm nghiên cứu về  gia đình và phụ  nữ lại khẳng định mục  tiêu của việc nghiên cứu giới nhằm tạo nên sự phát triển tốt đẹp và sự  phân công hợp lý giữa hai giới nam và nữ không chỉ trong lao đọng sản   xuất  ở  các ngành nghề  mà còn trong các hoạt động tổ  chức, xây dựng  cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái.  Ở  cả  hai lĩnh vực hoạt động­  gia đình và xã hội ­ đều cần có sự tham gia và phát triển tài năng trí tuệ  của cả  hai giới, phù hợp với đặc điểm về  giới của họ, góp phần tạo   nên sự hài hoà trong từng gia đình. - Đề  tài nghiên cứu “Sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở  nông thôn  và vai trò của người phụ nữ” được thực hiện bởi trung tâm nghiên cưú   phụ  nữ  vào năm 1989. Nội dung chủ  yếu cho thấy tầm quan trọng và  khả  năng phát triển kinh tế  hộ  gia đình  ở  nông thôn. Trong đó phụ  nữ  nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp thu nhập, đóng   7
  8. góp thời gian lao động sản xuất cho gia đình và xã hội. Song chưa nhấn  mạnh đến sự phân công lao động theo giơi trong các gia đình nông thôn. ́ Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu  về  vai trò của người   phụ nữ và nam giới trong đời sống gia đình như : - “Hình  ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ 21” trung   tâm nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển, NXB thế  giới, Hà Nội 2000 - “Gia đình và địa vị  người phụ  nữ  trong xã hội” trung tâm nghiên   cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển, NXB khoa học xã hội  1995. - “Người phụ nữ và gia đình Việt Nam hiện nay” trung tâm nghiên  cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, NXB khoa học xã hội 1991 - “Nghiên cứu và đào tạo giới  ở Việt Nam” NXB khoa học xã hội   1999 - “Vai trò của nam chủ  hộ  ngư  dân ven biển” tạp chí xã hội học   1998 - “Vai trò của người cha” tạp chí xã hội học 2002. Nhìn chung, bức tranh phân công lao động giữa hai giới đã được   dựng lên khá rõ nét ở nhiều góc độ và hình thức nghiên cứu phong phú,  nhưng dường như  các đề  tài mới chỉ  tập trung vào việc phân tích sự  thay đổi vị trí, vai trò của người phụ nữ thông qua các hoạt động sống  của gia đình nói chung. Đời sống không ngừng biến đổi, vì thế  sự  phân công lao động gia  đình nói chung và sự phân công lao động các công việc nội trợ trong các   gia đình nói riêng cũng cần sự biến đổi, để tạo nên một môi trường xã   hội phát triển  ổn định và bền vững. Trong báo cáo này, người viết cố  gắng nhìn nhận vấn đề từ cả hai góc độ  quan điểm của những phụ nữ  8
  9. và nam giới trong việc xem xét sự phân công lao động trong gia đình để  thấy được các nhân tố   ảnh hưởng đến sự  tham gia vào các công việc   gia đình của cả hai giới, hy vọng đưa ra những khuyến nghị hướng tới   sự  phát triển toàn diện của cả  hai giới trong mối tương quan với gia   đình và xu thế biến đổi mới hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu. Sự phân công lao động theo giơi trong gia đình vùng nông thôn th ́ ời   kỳ công nghiêp hoa ­ hiên đai hoa đ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ất nước. 4.  Khách thể phạm vi nghiên cứu. 4.1. Khach thê nghiên c ́ ̉ ưu ́. ́ ộ gia đình tại xã Kim Long ­ huyện Tam Dương ­ Vinh Phuc. Cac h ̃ ́ 4.2. Pham vi nghiên c ̣ ưu ́. ̣ 4.2.1.Pham vi không gian . Xã Kim Long ­ huyện Tam Dương ­ Vinh Phuc. ̃ ́ ̣ 4.2.2.Pham vi th ơi gian ̀ . Điêu tra t ̀ ừ ngay 1 thang 12 đên ngay 3 thang 12 năm 2014. ̀ ́ ́ ̀ ́ 4.2.3. Phạm vị nội dụng nghiên cứu. Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình 5. Câu hỏi nghiên cứu: ­ Thực trang phân công lao đông theo gi ̣ ̣ ơi trong gia đinh vung nông ́ ̀ ̀   ̣ thôn hiên nay như thê nao? ́ ̀ 9
  10. ­ Sự  phân công lao động giữa vợ  và chồng trong công việc nội trợ  diễn ra như thế nào? ­ Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong công việc chăm sóc   các thành viên trong gia đình và con cái diễn ra như thế nào? ­ Sự  phân công lao động giữa vợ  và chồng trong các công việc lao  động sản xuất diễn ra như thế nào? ­ Sự  phân công lao động giữa vợ  và chồng trong công việc quyết  định các việc lớn trong gia đình, tham gia các hoạt động cồng động  và dòng họ? 6. Giả thuyết nghiên cứu: ­ Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình cơ bản dựa  trên mô hình phân công lao động truyền thống: Người vợ đảm nhận   những công việc thiết yêu của gia đình là nội trợ, một phần công  việc nông nghiệp. ­ Người vợ  đảm nhận vai trò chính trong việc chăm sóc con cái và  gia đình  ­ Người chồng đảm nhận chính các công việc sản xuất,  ­ Người chồng đại diện cho gia đình tham gia các hoạt động trong  dòng họ hay đoàn thể.  ­ Yếu tố  kinh tế, văn hóa, học vấn, nghề  nghiệp, tuổi tác  động  mạnh mẽ  đến sự  phân công lao động giữa vợ  và chồng trong gia  đình. 10
  11. 7. Khung lý thuyết: Điều kiện kinh tế­văn hoá­xã hội Các yếu tố thuộc  Nhận thức về vai  về cấu trúc gia  trò giới của người  đình(độ dài hôn  vợ và người chồng. nhân, nhóm tuổi). Sự  phân công lao động theo giới trong  gia đình Các công việc nội  Công việc chăm   Việc quyết định các  công việc lớn trong  trợ: đi chợ,nấu  sóc các thành viên  gia đình và đại diện  nướng, giặt giũ,  trong gia đình và  gia đình tham gia các  dọn dẹp nhà cửa. giáo dục con cái. hoạt động trong dòng  họ và đoàn thể. Biến đổi phân công lao động trong  gia đình 11
  12. 8. Phương pháp nghiên cứu. 8.1. Phương pháp luận . 8.1.1 Phương pháp luận của xã hội học Mac­ Lênin ́ . Trong quá trình nghiên cứu, đề  tài đã vận dụng một cách cụ  thể  phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy  vật lịch sử  của Triết học Mác­Lênin. Quy luật biện chứng trong các  mối quan hệ xã hội yêu cầu nghiên cứu phải xem xét mối quan hệ giữa   vợ và chồng trong các vai trò mà họ đảm nhiệm trong gia đình Nghiên cứu quy luật phát triển của sự  vật hiện tượng phải  đặt  trong mối quan hệ  tương tác lẫn nhau và trong hoàn cảnh, môi trường  cụ  thể  trong xã hội của chính nó để  lý giải vì sao bất bình đẳng giới   vẫn còn tồn tại trong việc phân công lao động trong các gia đình ở nông  thôn, nông thôn mới hiện này. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng một số phương pháp luận, một số  lý thuyết của chuyên ngành Xã hội học cũng như một số chuyên ngành  khác để có cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu. Như vậy, lấy chủ nghĩa Mác­Lênin làm nền tảng cùng với việc vận   dụng triệt để nhưng lý thuyết, lý luận làm cơ sở để nghiên cứu. Đề  tài   đã có được thực hiện một cách khách quan, khoa học, khắc phục được  những thiếu sót từ đó tăng thêm tính chặt chẽ, logic của đề tài. 8.2. Cơ sở ly luân. ́ ̣ 8.2.1 Lý thuyết vị thế ­ vai trò Lý thuyết xã hội học về  vị thế vai trò cho phép nghiên cứu hành vi của   con người trong hệ  thống của những cấp độ  “cá nhân ­ nhóm xã hội ­ xã   hội”. Nó cho phép mở ra cơ chế cụ thể những liên hệ qua lại và tương tác  12
  13. của nó với những yếu tố  cơ  cấu xã hội khác và với xã hội nói chung. Lý   thuyết này không chỉ  mở  ra sự   phụ  thuộc của các cá nhân và hành vi của   họ  với xã hội và cơ  cấu xã hội với môi trường xung quanh mà còn chú ý  đến thế giới nội tâm của cá nhân khi xác định hành động và hành vi. Nhưng  lý thuyết vị  thế  ­ vai trò chủ  yếu phân tích hành vi của các cá nhân chứ  ít  hướng vào phân tích hành vi của nhóm xã hội với tư cách là một chỉnh thể. Cần thấy rằng sự phân công lao động theo giơi trong gia đình vùng nông ́   thôn hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế  thị  trường thời   kỳ công nghiêp hoa ­ hiên đai hoa đ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ất nước, do đó, nó không đơn thuần bị  quy định bởi vị thế ­ vai trò cá nhân của mỗi cá nhân mà còn bị qui định bởi   các yếu tố   ở  cấp độ  vĩ mô như  những biến đổi về  chính sách phát triển   kinh tế, cơ chế thị trường và những thay đổi trong hệ giá trị văn hoá, trong   thiết chế xã hội, cơ cấu xã hội. 8.2.2 Lý thuyết về cơ cấu ­ chức năng Sử dụng cách tiếp cận cơ cấu­ chức năng trong việc làm rõ vị trí, vai trò  của các thành viên trong gia đình để thấy được mối quan hệ tương tác giữa   các thành tố  của cơ  cấu đó, đặc biệt là cơ  cấu vai trò giới. Thông qua sự  tương tác này chúng ta sẽ đánh giá được việc thực hiện các chức năng của   gia đình trong điều kiện hiện nay. 8.2.3 Quan điểm xã hội học về cách tiếp cận giới tính - Quan điểm của lý thuyết giới và phát triển Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị  xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh cụ thể. Nói cách khác,   giới đề cập đến những khác biệt giữa nam và nữ do xã hội qui định. Do đó   giới không phải là do tự nhiên sinh ra, mà là sản phẩm của xã hội. Các nhà   13
  14. khoa học cho rằng giới là cấu trúc xã hội hay nói cách khác giới là do xã   hội tạo nên. “Cách tiếp cận giới và phát triển cho rằng nếu chỉ chú trọng đến phụ nữ  một cách tách biệt sẽ bỏ qua một thực tế là nam giới có vị thế áp đảo đối   với phụ nữ. Vì vậy các lý thuyết giới và phát triển thường nhấn mạnh nội   dung bản sắc xã hội của mối tương quan giới, về tính hợp pháp của các vai  trò giới đã được gán cho cả phụ nữ và nam giới”. - Lý thuyết vai trò giới Vai trò giới được định nghĩa là những hành vi, những quan điểm được   trông đợi trong một xã hội đối với mỗi giới. Những vai trò này bao gồm các   quyền và trách nhiệm được chuyển hoá đối với từng giới trong một xã hội   cụ thể. Lý thuyết vai trò giới xuất phát từ những nguồn gốc sinh học mà nó xác   định sự  khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Những nguồn gốc sinh học này  tạo nên nguyên liệu thô, từ đó tổ chức nên những hành vi cụ thể, được gọi  là những vai trò giới. Các vai trò này hình thành thông qua quá trình xã hội   hoá. Những vai trò này hướng dẫn các hành vi của hai giới được xem là phù   hợp với những mong đợi của xã hội. Đó chính là thể hiện sự phân công lao   động theo giới. - Lý thuyết chức năng giới Lý thuyết này cho rằng nam giới được gán cho chức năng chuyên môn   (công cụ, nghề  nghiệp) để  tạo ra của cải vật chất, còn phụ  nữ  có chức  năng biểu đạt (văn hoá, tình cảm) để tạo ra của cải tinh thần. Emile Durkheim nhà xã hội học người pháp là một trong những đại diện  tiêu biểu của lý thuyết này. Theo ông, chức năng giới được qui định một   cách tự  nhiên sinh học, “bẩm sinh” “vốn có”. Do vậy, sự  phân công lao   động trong xã hội phải tôn trọng và tuân theo sự   hợp lý của tự  nhiên,nếu  14
  15. khác đi là có “vấn đề”, là “không bình thường”. Ngay cả sự khác biệt đến   mức bất bình đẳng giữa nam và nữ về lao động, việc làm và thu nhập cũng   được một số tác giả thuộc trường phái chức năng cho là cần thiết và “hợp   lý” để đảm bảo trật tự của hệ thống gia đình và xã hội. Sự phân công lao động theo giới là hình thức tổ  chức lao động trong xã   hội có từ rất lâu đời nhưng điều đó không có nghĩa là nó không bị biến đổi.  Như  Mac và Ănghen đã nh ́ ận xét “Sự  phân công lao động cũng phát triển,   lúc đầu chỉ là phân công lao động trong hành vi tình dục và về sau sự phân  công lao động tự   hình thành hoặc hình thành một cách tự  nhiên do những   thiên tính bẩm sinh, do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên...” Quan điểm giới và sự  phát triển hiện nay không chỉ  nhấn mạnh đến  tương tác vai trò của mỗi giới mà còn nhấn mạnh đến vai trò chủ  thể  của   người phụ  nữ  trong việc hoạch định thực hiện và đánh giá các mục tiêu  phát triển kinh tế,văn hoá, xã hội và sự  tiến bộ  của mỗi giới trong sự   ổn   định và phát triển xã hội. Do đó, nó đòi hỏi sự  xác định mục tiêu và biện  pháp thích hợp đáp ứng nhu cầu của mỗi giới, trong đó tạo cơ hội cho phụ  nữ  phát huy năng lực của mình, phát triển toàn diện, bình đẳng với nam  giới cùng sự phát triển xã hội bền vững. Các lý thuyết, quan điểm xã hội học nêu trên đã bổ  xung cho nhau và  giúp cho chúng ta có một cách tiếp cận nghiên cứu tổng ­ tích ­ hợp về sự  phân công lao động theo giơi trong gia đình vùng nông thôn th ́ ời kỳ  công  ̣ ̣ ̣ ́ ất nước. nghiêp hoa ­ hiên đai hoa đ ́ 8.3. Phương pháp thu thập thông tin.  Để  thu thập thông tin xã hội học làm cơ  sở  cho việc phân tích các vấn  đề đặt ra, nghiên cứu này đã sử dụng một số phương pháp sau: 15
  16. 8.3.1 Phương pháp chọn mẫu. Để  phục vụ  cho quá trình thu thập thông tin trong quá trình nghiên  cứu, đề  tài đã sử  dụng phương pháp chọn mẫu với nguyên tắc chọn   mẫu là dung lưỡng mẫu được xác định trên cơ sở chọn ngẫu nhiên. Từ phương pháp này đề tài dự kiến chọn mẫu theo cách chọn ngẫu   nhiên 816 hộ  gia đình (chọn mẫu toàn bộ) trong huyện Tam Dương,   tỉnh Vĩnh Phúc để tiến hành thu thập thông tin cho quá trình nghiên cứu. 8.3.2 Phương pháp phân tích tài liệu. Đề tài sử dụng những tài liệu đó là các công trình khoa học, những   đề  tài nghiên cứu của các tác giả  đi trước để  phục vụ  cho công trình   nghiên cứu của mình. Các tài liệu đa phần là những công trình nghiên   cứu xã hội về gia đình và giới. Đồng thời đề  tài còn sử  dụng các thông tin trong các giáo trình, các  sách báo, tư liệu, tạp chí chuyên ngành, các thống kê xã hội, các thông  tin trên internet... trên tình thần tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, phát  triển. Báo cáo đã sử  dụng các tư  liệu, các thông tin kinh tế  xã hội và các   thông tin chuyên ngành từ  các công trình nghiên cứu có liên quan đến  vấn đề nghiên cứu như: các báo cáo chi tiết của cán bộ xã Kim Long ­   huyện Tam Dương ­ Vinh Phuc v ̃ ́ ề  tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội  của xã; tạp chí khoa học về phụ nữ; tạp chí xã hội học; các chuyên đề  nghiên cứu   của trung tâm  nghiên cứu   khoa  học  về   gia   đình  và phụ  nữ...nhằm củng cố những luận cứ về mặt lí thuyết và thực tiễn. 16
  17. 8.3.3 Phương pháp phỏng vấn câu truc. ́ ́ Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, đề tài đã sử dụng bảng hỏi để  tiến hành phỏng vấn cấu trúc trên 816 mẫu được chọn. Vì phương pháp  này là phương pháp thu thập thông tin định lượng cho ra các kết quả  nghiên cứu cụ  thể  nên phương pháp này thường xuyên được sử  dụng  trong các nghiên cứu khoa học. Các kết quả  nghiên cứu của đề  tài sẽ  là những khái quát về  thực  trạng vấn đề  nghiên cứu, đưa ra những con số  thống kế  cụ  thể nhằm  tạo nên tính khoa học cho đề tài nghiên cứu 8.3.4 Phương pháp phỏng vấn sâu. Để thu thập các thông tin định tính, đề tài nghiên cứu đã thực hiện 5  cuộc phỏng vấn sâu đối với người dân tại huyện Tam Dương, tỉnh   Vĩnh Phúc nhằm khai thác thông tin theo chiều sâu cho đề  tài nghiên  cứu. 8.3.5 Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Ngoài các phương pháp luận như  dựa trên nền tẳng của chủ  nghĩa   Mác­Lênin, các lý thuyết Xã hội học, các lý luận phân công lao động,  bình đẳng xã hội..., trên thực tế  đề  tài còn sử  dụng các phương pháp   nghiên cứu Xã hội học cụ thể để làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu. 8.3.6 Phương pháp quan sát. Qua   thực   tế   sinh   hoạt   và   làm   việc   tại   địa   phương   kết   hợp   với   phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi, tôi có sử  dụng các biện   pháp quan sát như nghe, nhìn trong khi đi phỏng vấn để qua đó thu thập  thông tin về  các hiện tượng liên quan tới mục tiêu nghiên cứu của đề  tài. Đồng thời quan sát thái độ  của người trả  lời nhằm đánh giá độ  chính xác của thông tin thu được. 17
  18. Các vấn đề đạo đức và các cảnh báo về dữ liệu Kết   quả   nghiên   cứu   được   thu   thập   thông   tin   từ   thực   địa   bằng  phương pháp phỏng vấn sâu và phỏng vấn cấu trúc do tác giả  và đoàn   nghiên cứu thu thập thông tin. Cảnh báo dữ  liệu: Dữ  liệu có thể  bị  sai lệch do điều tra viên lần  đầu tiên 9. Hệ khái niệm.  9.1. Khai niêm lao đông. ́ ̣ ̣   Lao động là một thiết chế  xã họi trong đó hoạt động con người  được định hướng, được tổ chức, sắp xếp nhằm tạo ra những sản phẩm  đáp ứng nhu cầu cá nhân, của nhóm và của xã hội. (Lê Ngọc Hùng – tập  bài giảng XHH Lao động).   Xã hội học xem xét “lao động” với tư  cách là hiện tượng xã hội   nảy sinh, biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Trong đề tài này  “lao động” được nhìn nhận trong sự  liên quan với quan hệ  giữa vợ  và  chồng trong gia đình dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế ­ xã  hội của đất nước. Nó hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và ràng buộc lẫn   nhau giữa các thành viên trong gia đình. 9.2. Khai niêm phân công lao đông. ́ ̣ ̣ Khái niệm phân công lao động được hiểu từ  hai góc độ  khoa học  liên quan đến khái niệm chức năng theo quan niệm kinh tế  học bắt  nguồn từ A. Smith “phân công lao động là sự chuyên môn hóa nhiệm vụ  lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát triển xã hội, củng  cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội. Phân công lao  động không đơn thuần là sự  chuyên môn hóa lao động mà thực chất là  18
  19. quá trình gắn liền với sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội và bất bình  đẳng xã hội” Trong tác phẩm “Sự phân công lao động xã hội” (1893) E. Durkheim  đã chỉ  ra rằng phân công lao động không chỉ  có ý nghĩa thuần túy kinh   tế, để làm giàu và nâng cao năng suất, hiệu quả lao động mà phân công  lao động còn thực hiện chức năng to lớn hơn, quan trọng hơn đối với   cuộc sống con người. Đó là việc tạo ra sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập   xã hội kiểu mới trong xã hội hiện đại. Với trình độ phân công lao động  ngày một cao, vai trò nhiệm vụ càng bị phân hóa và chuyên môn hóa sâu  sắc thì các cá nhân ngày càng phải tương tác với nhau. Sự  phụ  thuộc   lẫn nhau cùng với cùng với các trách nhiệm, nghĩa vụ  được chia sẻ  do   sự phân công lao động đã tạo ra gắn kết các cá nhân và các nhóm xã hội  lại với nhau. Trong xã hội hiện đại, sự  đoàn kết xã hội chủ  yếu nảy   sinh từ sự đa dạng, phong phú của cách suy nghĩ và kiểu hành vi xã hội  mà những khuân mẫu hành động đó được các cá nhân tán đồng chia sẻ.  Sự phân công lao động trong xã hội có thể xảy ra trên cơ  sở  khác nhay   về đặc điểm tự nhiên của chủ thể lao động, cũng như dựa vào các đặc   điểm, yêu cầu phát triển của nền kinh tế ­ xã hội. Sự khác biệt giữa nam và nữ dẫn đến sự phân công lao động nam –  nữ  trong xã hội và gia đình. Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình của  chế  độ  tư  hữu và Nhà nước”, Mac và Anghen đã nhận xét “Sự  phân  công lao động là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, chỉ tồn tại giữa nam và  nữ, lúc đầu đó chỉ  là sự  phân công lao động trong hành vi tình dục, về  sau sự  phân công lao động chuyển thành sự  phân chia phạm vị  hoạt  động theo giới một cách tự nhiên và đã dẫn đến sự sở  hữu có tính đặc   trưng theo giới, mỗi giới làm chủ  trong lĩnh vực hoạt động của riêng  mình”. Trong các xã hội, sự phân công lao động theo giới biểu hiện qua   19
  20. sự phân chia khu vực lao động nghề nghiệp. Ngoài ra, sự phân công lao  động theo giới còn thể hiện trong cách tổ chức cuộc sống gia đình. “Phân công lao động trong gia đình” là sự đảm nhiệm các công việc  trong gia đình của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình nhằm  thực hiện những chức năng của gia đình trong chăm sóc, giáo dục...  đảm bảo cho sự  tồn tại và phát triển  ổn định của gia đình. Sự  phân  công lao động trong gia đình chủ  yếu dựa trên 3 nhóm công việc: các  công việc tạo thu nhập, các công việc tái tạo sức lao động và các hoạt  động nhằm duy trì mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình với họ  hàng, cộng đồng... Phân công lao động theo vợ chồng là yếu tố  hình thành vai trò giới  trong gia đình và xã hội. Phụ nữ có vai trò biểu đạt tình cảm, nam giới  có vai trò là công cụ tạo ra thu nhập. Theo thuyết chức năng, lao động   của phụ  nữ  có chức năng tình cảm và lao động của nam giới có chức  năng tư duy và hành động giải quyết vấn đề. 9.3. Khái niệm “gia đình”. Gia đình là một tập thể  xã hội có từ  hai nguời trở  lên trên cơ  sở  huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau. Gia đình là   một cơ chế trung tâm của tất cả con người, là thiết chế xã hội đặc biệt  tập hợp nhau về thân phận, vai trò, chuẩn mực và lương tri để  đạt tới  các mục tiêu xã hội quan trọng. Các mục tiêu này bao gồm cả sự kiểm  soát xã hội về  sinh đẻ, xã hội hoá của xã hội mới và vị  trí của trẻ  em  trong xã hội rộng lớn. Gia đình mang dấu  ấn của xã hội và đến lượt  mình gia đình cũng đóng góp chủ yếu cho việc gìn giữ xã hội. Các mối  quan hệ  trong gia đình được sử  dụng là sự  nối kết, hợp đồng, sự  gắn  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2