Báo cáo: Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp
lượt xem 26
download
Bài điều kiện được trình bày theo cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1 - Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, chương 2 - Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp và chương 3 - Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo: Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp
- LỜI NÓI ĐẦU Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của phần lớn các nước đang phát triển và xu thế chuyển một phần lương thực sang sản xuất nhiên liệu sinh học, thức ăn gia súc sẽ đẩy nhanh nhu cầu về lương thực, thực phẩm, làm tăng giá các nông sản này trong tương lai. Thêm vào đó, sự tăng trưởng kinh tế trên thế giới nói chung sẽ đẩy mạnh nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp khác như cao su, gỗ... cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm. Mặt khác, biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường sẽ dẫn đến sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu. Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành kinh tế cơ bản của Việt Nam với hơn 68% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm hơn 47% lao động xã hội và giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp vẫn chiếm gần 20% tổng sản phẩm trong nước. Vì vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là một trong những mục tiêu cơ bản nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam hình thành và phát triển góp phần thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam, một số hình thức đang phát triển và đạt hiệu quả cao như các trang trại, các vùng chuyên canh; một số hình thức mới hình thành và phát triển như khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng nông nghiệp; một số hình thức đang trong quá trình chuyển đổi để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường như hợp tác xã nông nghiệp, nông trường quốc doanh,… Trong bài điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp chúng em đã tìm hiểu một cách khái quát về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Bài điều kiện được trình bày theo cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương 2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Chương 3: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chúng em đã tham khảo và kế thừa số liệu, tư liệu từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau cũng như nhận được nhiều nhận xét, góp ý quý báu của các thành viên trong lớp, đặc biệt là sự góp ý, hướng dẫn của 1
- GS.TS Lê Thông. Nhóm chúng em xin trân trọng cảm ơn và mong được sự đóng góp nhiều hơn nữa để bài tập của chúng em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC MỤC LỤC.........................................................................................................................................2 CHƯƠNG I:.....................................................................................................................................1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP.......................................................1 I - TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI................................................1 1. Một số lý thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội...........................................................1 2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội...................................................................2 II. QUAN NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ Ý NGHĨA CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP .. .7 1. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.......................................................................7 2. Nguyên tắc của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp..................................................................11 3. Vai trò của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp..........................................................................12 II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP ....................16 1. Vị trí địa lí ..........................................................................................................................16 3. Các nhân tố kinh tế - xã hội ..............................................................................................18 III. TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM............................................................21 1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam............................................................21 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam...............................22 CHƯƠNG II:..................................................................................................................................31 CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP.........................................................31 I. TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP.................................................................................31 1. Khái niệm............................................................................................................................31 2. Đặc điểm:............................................................................................................................32 3. Ý nghĩa kinh tế - xã hội của việc nghiên cứu TCLTNN.....................................................32 II. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP ................................................32 1. Xí nghiệp nông nghiệp.......................................................................................................32 1.1 Hộ gia đình......................................................................................................................33 1.2 Trang trại..........................................................................................................................34 1.3. Hợp tác xã nông nghiệp..................................................................................................36 2
- 1.4. Đồn điền..........................................................................................................................37 1.5. Nông trường quốc doanh (NTQD)..................................................................................38 2.1. Khái niệm.........................................................................................................................39 2.2. Đặc điểm chủ yếu của TTHNN.......................................................................................39 3. Băng chuyền địa lí..............................................................................................................41 4. Vùng nông nghiệp..............................................................................................................43 CHƯƠNG III:.................................................................................................................................46 TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.....................................................................46 I. HỘ GIA ĐÌNH..........................................................................................................................46 II. TRANG TRẠI.........................................................................................................................47 III. HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP.....................................................................................48 IV. NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH (NTQD)....................................................................50 VI. CÁC VÙNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.............................................................................52 1.Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ....................................................................................53 2. Bắc Trung Bộ......................................................................................................................59 3. Duyên hải Nam Trung Bộ...................................................................................................65 4. Tây Nguyên........................................................................................................................72 5. Đông Nam Bộ.....................................................................................................................77 6. Vùng đồng bằng sông Hồng..............................................................................................83 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................91 3
- CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP I TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ XÃ HỘI. 1. Một số lý thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội Khái niệm tổ chức lãnh thổ (territorial organization) hay còn gọi là tổ chức không gian (spatial organization) được sử dụng khi đề cập đến vấn đề tổ chức lãnh thổ cả theo chiều thẳng đứng và chiều ngang. Khái niệm tổ chức lãnh thổ đã được dùng ở các nước phương Tây từ cuối thế kỉ XIX, được phát triển về mặt lí luận thông qua các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ. 1.1. Lí thuyết khu vị luận công nghiệp của A.Weber Mô hình tổ chức không gian công nghiệp ra đời trong thế kỉ XIX, được A.Weber là một đại diện tiêu biểu đưa lên thành lí thuyết "Khu vị luận công nghiệp". Tư tưởng chủ đạo của ông là coi thành phố là những nút hay trọng điểm lãnh thổ. Sức lan tỏa ảnh hưởng của nó rất lớn. Xung quanh thành phố (nút) là các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều phục vụ cho một trung tâm. Lý thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa chưa mạnh và có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm ở những khu vực có nền kinh tế còn chậm phát triển. 1.2. Lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W.Christaller Vào đầu những năm 1930, W.Christaller (Mỹ) đã đưa ra lí thuyết phát triển các điểm trung tâm (1933). W.Christaller đã góp phần to lớn vào việc tìm ra quy luật phát triển của toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và phi sản xuất theo không gian, là ý tưởng cho việc nghiên cứu tổ chức không gian kinh tế xã hội sau này. Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự tác động của một cực hút, đó là thành phố.Thành phố là trung tâm đối vớitất cả các điểm dân cư còn lại trong vùng, đảm bảo cung cấp hàng hóa cho chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ.Ông cho rằng, thành phố có vai trò như những cực phát triển và là hạt nhân cho sự phát triển.Nó trở thành đối tượng để đầu tư, trên cơ sở sức hút và mức độ ảnh hưởng đến các vùng xung quanh thông qua bán kính tiêu thụ các sản phẩm. Lí thuyết trung tâm của W.Christaller đã được nhà bác học người Đức A.Losch bổ sung và phát triển. Công lao của W.Christaller và A.Losch ở chỗ đã khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố các thành phố và nông thôn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm dân cư trên những lãnh thổ mới 1
- khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống không gian, hay làm cơ sở xác định các nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất định. 1.3. Lí thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux (1950) Lí thuyết cực tăng trưởng của nhà kinh tế học người Pháp Francoi Perroux được đưa ra vào đầu những năm 1950. Ông quan niệm, một vùng không thể phát triển kinh tế đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian. Xu hướng chung là có một hoặc một vài điểm phát triển mạnh nhất, trong khi đó các điểm khác lại chậm phát triển hay bị trì trệ. Tất nhiên, các điểm phát triển nhanh là các điểm có lợi thế so với toàn vùng. Như vậy, lí thuyết cực phát triển chú ý đến những thay đổi trong phạm vi một khu vực của lãnh thổ làm phát sinh tăng trưởng kinh tế. Lí thuyết cực tăng trưởng được áp dụng tương đối rộng rãi ở châu Á, nhất là các nước ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy và có giá trị đối với các quốc gia cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Đây cũng là lí thuyết giải thích sự cần thiết của việc phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển có trọng điểm. 2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội Vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động của con người, trước hết là hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở lí thuyết kinh tế của Adam Smith và David Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của Thunen vào 1826, của Weber vào 1909 và một số tác phẩm khác, sau đó được phát triển về mặt lí luận và ứng dụng thực tiễn vào những năm 50 của thế kỉ XX tại các nước Châu Âu, Liên Xô (cũ) và Mỹ. Ở Liên Xô (cũ) tổ chức lãnh thổ được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của địa lí đã được nêu lần đầu tiên vào năm 1961 bởi Iu.G.Xauskin “lĩnh vực thực tiễn trực tiếp để tập trung nỗ lực của các nhà địa lí Xô Viết là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (ở đây bao gồm cả sơ đồ lãnh thổ và các dự án cải tạo và sử dụng các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên)”. Những quan niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp được trình bày trong các công trình của A.T.Khrutsov (1966, 1969, 1972).Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ sản xuất” được đưa vào trong các nghiên cứu của A.E.Probxt và M.G.Skolnicov vào giữa thập kỉ 60 của thế kỉ XX. Vào đầu thập kỉ 70, quan niệm về tổ chức không gian xuất hiện được đưa vào các công trình của các nhà địa lí Xô Viết. Nhưng có thể thấy rằng sợi dây xuyên suốt trong các nghiên cứu theo hướng này trong mấy thập kỉ qua là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (từ tổ chức lãnh thổ sử dụng tự nhiên, tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế đến tổ chức không gian cư trú nông thôn và đô thị,...) 2
- Các nhà khoa học Liên Xô (cũ) trước đây thường sử dụng khái niệm “phân bố lực lượng sản xuất”, nghĩa là phân bố sức sản xuất theo lãnh thổ. Nền tảng cơ sở lí luận của phân bố lực lượng sản xuất được bắt nguồn từ lí thuyết về chu trình năng lượng sản xuất của N.N.Koloxopxki và thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất của các nhà khoa học Xô Viết. Theo họ, phân bố lực lượng sản xuất được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau, phổ biến là trên các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chínhtỉnh. Họ coi phân bố lực lượng sản xuất là sự sắp xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng hay thực thể vật chất cụ thể, hay đó là các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên đã được sử dụng vào hệ thống dân cư. Các đối tượng này ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại với nhau trong một lãnh thổ xác định, nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật của lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó. Sách của E.B.Alaev "Địa lý kinh tế xã hội", (1983), đã đưa ra nhận thức chung của các nhà địa lý Liên Xô về định nghĩa tổ chức lãnh thổ: "Khái niệm tổ chức lãnh thổ xã hội trong nghĩa rộng của từ này bao gồm các vấn đề liên quan đến phân công lao động theo lãnh thổ, phân bố các lực lượng sản xuất, các sự khác biệt về vùng trong quan hệ sản xuất, mối quan hệ tương hỗ giữa xã hội và thiên nhiên, cũng như các vấn đề chính sách vùng về kinh tế xã hội. Ở một nghĩa hẹp hơn, nó bao gồm các phạm trù như tổ chức lãnh thổ hành chính của Nhà nước, quản lý vùng về sản xuất, sự hình thành các thành tạo lãnh thổ về tổ chức kinh tế, sự xác định các khách thể vùng của quản lý, sự phân vùng về kinh tế xã hội..." Các nhà khoa học Xô Viết sau này phát triển phân bố lực lượng sản xuất theo hướng tổ chức lãnh thổ. Theo Xauskin: Tổ chức xã hội theo lãnh thổ là tạo ra một hệ thống sử dụng đất đai do những tập đoàn người khác nhau. Hệ thống này làm cho các tập đoàn người ấy có thể cư trú được trên bề mặt trái đất, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phân bố các điểm dân cư, tái sinh sản nòi giống, phân bố các nguồn cung cấp nước và thực phẩm, các địa điểm sản xuất ra các công cụ lao động, quần áo, giày dép và các vật liệu khác cần thiết cho đời sống, phân bố xí nghiệp và khu vực chữa bệnh, nghỉ ngơi, khoa học, văn hóa, các nhà hát, rạp chiếu phim,... Các nhà khoa học phương Tây lại thường sử dụng thuật ngữ “tổ chức không gian kinh tế xã hội”. Khái niệm tổ chức không gian ra đời cuối thế kỉ XIX và đã phát triển thành một khoa học về “thiết lập” trật tự kinh tế, xã hội, môi trường trong phạm vi một lãnh thổ xác định. Quan niệm về tổ chức không gian (tổ chức lãnh thổ) cũng được coi trọng trong địa lí Mĩ vào 1970 – 1971.Ở Mĩ có các công trình lớn của R.Abler, 3
- J.Adams, P.Gould “tổ chức không gian, cách nhìn thế giới của các nhà địa lí” và của R.Morill “Tổ chức không gian xã hội”. Ở Anh, các quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội được phát triển theo hướng mô hình hóa, áp dụng các phương pháp định lượng. Có thể thấy tiêu biểu trong các công trình của Peter Haggett và các cộng sự “Phân tích không gian trong địa lí kinh tế” xuất bản năm 1965, “các mô hình địa lí” xuất bản năm 1967 và “Địa lí học: một sự tổng hợp hiện đại” xuất bản năm 1975. Theo Morrille (1970): Tổ chức không gian là khái niệm của loài người về sử dụng có hiệu quả không gian trên trái đất. Nhiều tác giả Pháp nhưP.Brunet, J.Monod, P.de Castelbazac (1980), Jean Paulde Gaudemar (1992),...cho rằng: tổ chức không gian là sự tìm kiếm một sự phân bố tối ưu về vùng, các hoạt động và tài sản để tránh những sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ có những chuyển biến mới hơn từ những năm 1990 đến nay với những nghiên cứu của Paul Krugman, các Báo cáo phát triển thế giới,.... Paul Krugman (nhà kinh tế học người Mỹ) là người đề xuất lí thuyết sau này được gọi tên là “địa lí kinh tế mới” (1991). Krugman phát triển lí thuyết về sự lựa chọn địa điểm của lao động và hãng kinh doanh, trong đó cốt lõi là hiệu quả kinh tế của quy mô lớn2. Theo Paul Krugman (1991): sản xuất có xu hướng tập trung vào những nơi “trung tâm” đông đúc dân cư và vốn. Để phát triển nền kinh tế và giảm thiểu chi phí vận chuyển, các công ty sản xuất có xu hướng tập trung vào những khu vực trung tâm vì tận dụng được lợi thế nhờ quy mô.Việc này sẽ dẫn đến dân cư sẽ càng di chuyển tới những “trung tâm” này.Sự hạn chế của tập trung hóa chính là ở chi phí vận chuyển.Chi phí vận chuyển tới người tiêu dùng sẽ cao nếu như các hãng tập trung hóa ở một khu vực nhất định trong quốc gia. Do đó, quyết định lựa chọn địa điểm sản xuất của các hãng phụ thuộc vào tương quan giữa việc tận dụng lợi thế quy mô và tiết kiệm chi phí vận chuyển. Giảm chi phí vận chuyển sẽ dẫn tới quá trình tập trung hóa và đô thị hóa2. Trong Báo cáo phát triển thế giới 2009 “Tái định dạng địa kinh tế” đã giải thích sự tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra không đồng đều, nhưng sự phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập. Khi các nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất sẽ tập trung cao hơn theo không gian. Đây cũng là những lí thuyết giải thích cho sự tập trung hóa và đô thị hóa ở các quốc gia. Báo cáo phát triển thế giới năm 2009 cho rằng: Các địa phương phát triển tốt nếu chúngthúc đẩy sự chuyển đổi của các khía cạnh địa kinh tế: mật độ dày hơn khi các thành phố phát triển, khoảng cách ngắn hơn khi công nhân và doanh nghiệp di chuyển đến gần khu trung tâm hơn và có ít sự chia cắt hơn khi các quốc gia giảm bớt các biên giới kinh tế và tiến vào thị trường thế giới để tận dụng quy mô kinh tế và buôn bán các sản 4
- phẩm chuyên biệt. Sự chuyển đổi của 3 khía cạnh địa kinh tế này (mật độ, khoảng cách và sự chia cắt) là then chốt cho sự phát triển. Như vậy, phát triển kinh tế sẽ tập trung cao hơn theo không gian, nhưng phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập mang lại cho người dân mức sống đồng đều hơn giữa các vùng với các chính sách phù hợp đối với mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, lí luận về tổ chức lãnh thổ như là một trong những nội dung nghiên cứu cơ bản của địa lí học được đưa vào khá sớm, từ những năm 1970. Công việc này thu hút nhiều công sức đóng góp của các nhà địa lí, các nhà kinh tế vùng và của các nhà kế hoạch cũng như các Bộ, ngành. Trong nhiều năm, hướng nghiên cứu được thể hiện qua việc lập tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất của từng ngành và của các cấp lãnh thổ trong cả nước. Kết tinh của các nghiên cứu theo hướng này là các công trình 70.01, lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất Việt Nam thời kì 1986– 2000 (tổng sơ đồ I) và chuẩn bị nội dung cho Tổng sơ đồ II (giai đoạn 1991 – 2005); “Dự thảo đề cương báo cáo tổng kết công tác phân vùng quy hoạch và phân bố lực lượng sản xuất cả nước trong 5 năm qua và phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới”. Tổ chức lãnh thổ được coi trọng bằng những cách nhìn mới nhằm mục tiêu phát triển bền vững, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát triển vùng, đảm bảo sự công bằng xã hội ngay cả trong việc giảm sự chênh lệch giữa các đồng bằng, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Các kết quả nghiên cứu liên ngành dưới sự chỉ đạo của Nhà nước được thể hiện ở việc lập các bản đồ quy hoạch tổng thể phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ lớn như tổ chức lãnh thổ quốc gia Việt Nam và mô hình không gian của Việt Nam. Những nhiệm vụ chính của tổ chức lãnh thổ là phân bổ lạinguồn vốn và tài sản quốc gia, sửa chữa lại sự mất cân đối giữa các vùng, sử dụng hợp lí nhất các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội và giải quyết công ăn việc làm... Đi đầu trong nghiên cứu tổ chức lãnh thổ là GS. Lê Bá Thảo. Trong báo cáo “Địa lí học Việt Nam và thử nghiệm tổ chức lãnh thổ”, Ông cho rằng: Về khía cạnh địa lí, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động của địa lí học có chủ ý (géographie volontaire) hướng tới một sự công bằng về mặt không gian. Như vậy, tổ chức không gian kinh tế xã hội được xem như nghệ thuật kiến thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức không gian là xác định được sức chứa của lãnh thổ, tìm kiếm quan hệ tỉ lệ hợp lí và liên hệ chặt chẽ trong phát triển kinh tế xã hội giữa các ngành và giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng cũng như đảm bảo mối quan hệ giữa các vùng trong một quốc gia có tính tới mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hòa giữa các đối 5
- tượng trong lãnh thổ mà tạo ra một giá trị mới lớn hơn, làm cho sự phát triển hài hòa và bền vững hơn. Tổ chức không gian kinh tế xã hội dưới góc độ chính sách, xem như là một trong những hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối ưu hóa các mối quan hệ hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với nhau và giữa các cực với các không gian còn lại, nhằm làm cho lãnh thổ phát triển bền vững, tạo được sự ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề cho tăng trưởng, cho phát triển. Từ những quan niệm trên có thể hiểu "Tổ chức không gian kinh tếxã hội là sự "sắp xếp" và "phối hợp" các đối tượng trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế, chính trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao và nâng cao mức sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của một lãnh thổ". Tổ chức lãnh thổ là "sự tìm kiếm trong khung cảnh địa lý quốc gia, sự phân bố tốt nhất vùng và các hoạt động tùy thuộc vào các tài nguyên tự nhiên". Tổ chức lãnh thổ là một chính sách kinh tế dài hạn nhằm cải thiện môi trường trong đó diễn ra cuộc sống và các hoạt động của con người. Tổ chức lãnh thổ là một hành động của địa lý học có chủ ý hướng tới một sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực, và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa quần cƣ nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống. Các nút, các cực là: thành phố, thị trấn, làng xóm là những điểm trồi, những nơi tập trung dân cư, các cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở dịch vụ kỹ thuật. Đó là các trung tâm dân cư kinh tế, đặc trưng bởi độ "đông đặc" hay mật độ dân số, mật độ xây dựng tương đối cao. Với cách nhìn của tổ chức lãnh thổ thì lãnh thổ là một hệ thống trong đó có các cực, dải và không gian bề mặt, 3 yếu tố này có quan hệ, có sức hút, lan tỏa và ảnh hƣởng lẫn nhau. Sự khác nhau giữa các nút: thường thì các nút (cực) đa chức năng hay khác nhau vềsố lượng các chức năng, thang bậc các trình độ cao hay thấp, tính phức tạp nhiều hay ít, ý nghĩa lớn hay nhỏ, phạm vi ảnh hưởng rộng hay hẹp. Các mốc cũng khác nhau về tiềm năng phát triển. Giữa các trung tâm, các nút có những liên hệ chức năng: chúng trao đổi hoạt động, biểu hiện qua các dòng người, dòng sản phẩm, dòng dịch vụ, dòng tiền tệ và dòng thông tin. Các nút, các dải nằm trong một mạng lưới, mà các chỗ hổng được lấp đầy, bằng những bề mặt, với tất cả hoạt động diễn ra ở đó, trong một hệ thống các quan hệ chức năng có thang bậc, tạo thành một hệ thống tổ chức không gian. 6
- Tổ chức không gian kinh tế xã hội gồm nhiều thành phần liên kết chặt chẽ với nhau. Phân theo ngành, tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội gồm: tổ chức lãnh thổ công nghiệp, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp và tổ chức lãnh thổ dịch vụ. Phân theo không gian, tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội gồm các đô thị, các trung tâm kinh tế, các tuyến lực,…và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một trong những hình thức của tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội. II. QUAN NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ Ý NGHĨA CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP 1. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 1.1. Các quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã có sức thu hút mãnh mẽ sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là nhà khoa học người Đức J.H.Von Thunen (1783 1850). Đầu những năm 1800, Ông đã đề xuất "lí thuyết vành đai giữa trung tâm và ngoại vi". Dựa trên các kết quả tính toán của mình, Thunen kết luận rằng trồng trọt chỉ đem lại lợi nhuận ở một khoảng cách nào đó tính từ thành phố.Nếu vùng sản xuất ở quá xa trung tâm thành phố thì chi phí vận chuyển sẽ rất cao, hay ở quá gần trung tâm đô thị thì giá địa tô chênh lệch cũng rất lớn. Cả hai trường hợp trên đều không thu được lợi nhuận tối đa. Một sản phẩm nông nghiệp thu được lợi nhuận tối đa sẽ có một khoảng cách tương ứng nhất định với nơi tiêu thụ. Khi chi phí vận chuyển biến thiên, trên vùng sản xuất nông nghiệp sẽ xuất hiện các vành đai sản xuất. Theo ông, xung quanh một thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các trung tâm khác) có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp theo nghĩa rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành đai 1 là thực phẩm tươi sống; vành đai 2 là lương thực, thực phẩm; vành đai 3 là vành cây ăn quả; vành đai 4 là vành lương thực và chăn nuôi; vành đai 5 là vành lâm nghiệp. Tùy theođiều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quymô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp. Mô hình 5 vành đai nông nghiệp thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ chức lãnh thổ. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp theo lí thuyết của Thunen cũng bộc lộ hạn chế. Đó là các vành đai nông nghiệp này mới chỉ được nghiên cứu trong sự tương tác giữa hai nơi ở cùng một thời điểm, mà trên thực tế có rất nhiều trung tâm cùng tồn tại và chúng đều có những tác động khác nhau lên sự xuất hiện của các vành đai nông nghiệp. 7
- Trong trường phái địa lí Xô Viết, Nhà địa lí N.N.Kôlôxôpxki đưa ra lí thuyết chu trình năng lượng sản xuất (năm 1947). Lí thuyết này cũng khẳng định tính liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất khép kín để có giải pháp phân bố chúng. Từ khai thác nguyên liệu ban đầu, nhiên liệu và việc sử dụng các nguồn năng lượng khác để sơ chế nguyên liệu sản xuất ra bán thành phẩm và các chi tiết, đến sản xuất thành phẩm dưới dạng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đến tiến bộ khoa học kĩ thuật giao thông vận tải, thương nghiệp phục vụ sự tiêu dùng của dân cư. Từ đó, xuất hiện những nhu cầu và khả năng mới liên quan ảnh hưởng tới tự nhiên, tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên. Chu trình năng lượng sản xuất của N.N.Kôlôxôpxki đã nêu một phương pháp nghiên cứu liên ngành có hiệu quả, cho phép nghiên cứu vùng một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Thực tiễn phân bố sản xuất trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm trước đây đã phần nào khẳng định ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng của lí thuyết chu trình năng lượng sản xuất. Trong lí thuyết này, khái niệm thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp là giáo sư tiến sĩ địa lí K.I.Ivanov. Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Tổ chức lãnh thổ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và việc tính toán điều kiện của địa phương" (1967), ông đãphát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki về các thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất và đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về phương diện lí thuyết, K.I.Ivanov xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng chuyền) trong việc tổ chức sản xuất của nhiều phân ngành nông nghiệp.Nhiều tư tưởng và quan niệm mới của ông đã được ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các hệ thống lãnh thổ. Qua các công trình của K.I.Ivanov, của V.G.Kriutokov và một số tác giả khác thì: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung hoá, liên hợp hoá và hợp tác hoá sản xuất; cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất”. Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta cũng được nhà khoa học quan tâm. Tác giả Lê Thông đã có cùng quan điểm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp với các nhà địa lí Nga, trong đó đã đưa ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp từ thấp đến cao, đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng hợp nông nghiệp, vùng nông nghiệp, băng chuyền địa lí trong nông nghiệp.... Các nội dung này cũng được đề cập đến trong “Địa lí kinh tế xã hội đại cương”, “Địa lí kinh 8
- tế xã hội Việt Nam”, “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam”.... Trong các giáo trình này, các tác giả đã phân tích những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã và đang phát triển ở Việt Nam như: trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, vùng nông nghiệp..... Theo tác giả Nguyễn Viết Thịnh: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là tổ chức các không gian nông nghiệp (các tiểu vùng nông nghiệp) trên cơ sở đánh giá tác động tổng hợp của các nhân tố tương đối tĩnh (các điều kiện sinh thái nông nghiệp) và các nhân tố động (với các mức độ động khác nhau) như dân cư, lao động, mạng lưới đô thị, kết cấu hạ tầng sản xuất và sinh hoạt, thị trường nông sản, chính sách phát triển,... nhằm: đánh giá đượcsự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp đã định hình, sự hợp lí và chưa hợp lí của nó; đưa một (hoặc 2, 3) phương án định hướng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, trong ra được đó phát hiện chính xác các địa bàn trọng điểm phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phát hiện các vùng khó khăn để đề xuất các chính sách phát triển phù hợp. Một khía cạnh khác của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng được tác giả Nguyễn Hiền đề cập đến, đó là chính sách định vị nông nghiệp. Theo tác giả: định vị nông nghiệp là lựa chọn được vùng chuyên môn hóa nông nghiệp thích ứng với các điều kiện tự nhiên. Để phát triển được các vùng chuyên canh nông nghiệp cần thiết phải có chính sách năng lượng, đào tạo chuyên môn nhân lực kĩ thuật và kinh doanh gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp có được thu nhập cao phải gắn với công nghiệp chế biến để phát triển chuyên môn hóa sâu, có giá trị cao, cạnh tranh được trên thị trường. Từ đây, sẽ hình thành các trung tâm, các đô thị, kéo theo là các kết cấu hạ tầng kĩ thuật và xã hội. Tác giả Ngô Doãn Vịnh cho rằng: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là cách thức phối hợp, kết hợp các đối tượng nông nghiệp trong một lãnh thổ xác định có tính tới mối quan hệ với các đối tượng thuộc ngành và lĩnh vực khác trong thế vận động và phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta phải có một tư duy mới về tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng. Rõ ràng, chúng ta không chỉ xem xét tổ chức lãnh thổ trong khuôn khổ khép kín, chỉ dựa vào những yếu tố sẵn có để phát triển, mà phải nhìn nhận được mối liên kết giữa các lãnh thổ khác nhau, những lợi thế so sánh và chuỗi giá trị toàncầu. Ngày nay, biên giới giữa các quốc gia không chỉ là biên giới đất liền, biên giới biển, biên giới trên không mà còn là biên giới của hàng hóa, dịch vụ và văn hóa.Các cường quốc sử dụng lí thuyết này để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình bằng cách phát 9
- triển thị trường hàng hóa dịch vụ mang đậm hàm lượng văn hóa ra các nước khác. Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiện nay không chỉ dựa vào những điều kiện sản xuất hiện có, mà phải đặt trong mối quan hệ với các khu vực xung quanh, đặc biệt là những nhu cầu của thị trường thì mới có thể phát triển bền vững được. Hay nói cách khác, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải kết hợp được những yếu tố sẵn có và những yếu tố bên ngoài để sản xuất một cách hiệu quả nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Từ các nội dung đã phân tích ở trên, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có thể được tổng quát như sau: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là sự sắp xếp vàphối hợp các đối tượng nông nghiệp trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng, kết hợp với nhu cầu thị trường trên một lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp lí nhất các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí và cơ sở vật chất kĩ thuật để đem lại hiệu quả cao về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. 1.2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một hình thức của tổ chức kinh tế xã hội. Theo K.I. Ivanov (1974), tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là hệ thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp trong nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở, quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp tác hóa, cho phép sử dụng hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh tổng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất. Vậy: Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp với tự nhiên, kinh tế, lao động là cơ sở đề hình thành các mối liên hệ qua lại theo không gian. Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong quá trình tổ chức lãnh thổ. Các đặc điểm không gian của sản xuất phần lớn bắt nguồn từ tính chất của việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có. Hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải là bất biến.Nói cách khác hình thái kinh tế xã hội nào thì có kiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tương ứng như thế.Hiện nay, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn bó mật thiết với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, một cuộc cách mạng phát triển rất mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp liên quan chặt chẽ với hệ thống lãnh thổ nông nghiệp.Đây là các phân hệ sản xuất và chế biến nông phẩm có mối quan hệ khắng khít với nhau. Hệ thống lãnh thổ nông nghiệp bao gồm: nhóm xí 10
- nghiệp liên quan trực tiếp đến đất đai và nhóm xí nghiệp liên quan gián tiếp đến đất đai và nhóm xí nghiệp có liên quan đến cả hai đặc điểm này tùy theo từng thời kì. Ở nhiều nước kinh tế phát triển đã hình thành các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp, trong đó phẩm biến rộng rãi nhất là các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến các sản phẩm chăn nuôi. Ví dụ như các hệ thống lãnh thổ sản xuất thịt sữa và các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến sữa ở các nước Tây Âu, Bắc Mĩ. Quá trình xuất hiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp mới và đang hoàn thiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp hiện có trong điều kiện hiện nay không chỉ tiêu biểu cho ngành chăn nuôi. Quá trình này, ngày càng xâm nhập sâu vào ngành trồng trọt, nhất là các phân ngành sản xuất các sản phẩm phải qua chế biến công nghiệp. Việc hình thành các hệ thống lãnh thổ trong ngành trồng trọt cũng dựa trên cơ sở chuyên môn hóa theo giai đoạn, tập trung hóa, hợp tác hóa và liên hợp hóa sản xuất. Các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp không những không mâu thuẫn, mà còn làm rõ thêm nội dung và cấu trúc của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp với tất cả các mối liên hệ qua lại phức tạp của chúng.Trong các loại hệ thống lãnh thổ thì các hệ thống lãnh thổ sản xuất vật chất đóng vai trò chủ đạo. Mặt khác, người ta coi các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp như một hệ thống động, phức tạp, có nhiều thông số bao gồm một số hệ thống nhỏ có mối liên hệ với nhau. Mỗi thành phần chủ yếu của hệ thống do các thành phần ở cấp thấp hơn chi phối. Đến lượt mình, thành phần này lại bị các thành phần cấp thấp hơn nữa quyết định… Từ đó muốn tìm tình trạng tối ưu của hệ thống thì phải xem xét các thành phần ở cấp thấp chứ không phải chỉ nghiên cứu những thành phần chủ yếu của nó. Như vậy, có thể khẳng định rằng việc phát hiện và dự báo các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp có quan hệ hữu cơ với nghiên cứu vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. 2. Nguyên tắc của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải phù hợp với điều kiện sinh thái có tính tới khả năng tài nguyên và yêu cầu thị trường Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các ngành sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cần nghiên cứu kĩ các điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chúng về phương diện sinh thái. Điều đó có nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được phân bố ở 11
- những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Như các loại cây công nghiệp và cây ăn quả cần những điều kiện sinh thái chặt chẽ hơn so với cây lương thực; mặt khác sản phẩm của nó đòi hỏi phải được chế biến mới nâng cao được giá trị sản phẩm. Do đó, nhóm cây này cần được phân bố tập trung, hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn để kết hợp tốt với phát triển công nghiệp chế biến, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất. Vì thế, việc phân bố cây trồng, vật nuôi cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không chỉ dựa vào thế mạnh của từng vùng, mà phải tính tới nhu cầu thị trường để giảm thiểu chi phí, tối đa hiệu quả.Thị trường có ý nghĩa quyết định sự lựa chọn địa điểm phân bố cơ sở sản xuất của các nhà đầu tư, các sản phẩm chính của nông nghiệp và quyết định đến hiệu quả và sự thành công của tổ chức lãnh thổ. Thỏa mãn yêu cầu về khả năng tài nguyên và yêu cầu của thị trường đó là sự thỏa mãn các yếu tố đáp ứng nhu cầu cả đầu vào và đầu ra nhằm đem lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cho con người. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo lợi ích cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao Điều quan trọng nhất của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất cho lãnh thổ và mang lại lợi ích cho cả cộng đồng, đặc biệt trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở những vùng khó khăn. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo có sự phù hợp giữa trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ Mỗi loại cây trồng, vật nuôi đều có những yêu cầu nhất định về các quy trình kĩ thuật như quy trình canh tác, kĩ thuật chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến… yêu cầu về máy móc, công cụ và yêu cầu về kĩ năng lao động, về trình độ nghiệp vụ quản lí. Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải dựa trên tính chất và đặc điểm công nghệ cũng như trình độ của người lao động để có cách thức tổ chức lãnh thổ hợp lí nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa các khâu trong quá trình sản xuất để đạt hiệu quả cao nhất. 3. Vai trò của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp 3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt lý luận, mà còn cả về mặt thực tiễn. 12
- Việc xem xét tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói chung và việc vạch ra các hình thức tổchức của nó theo lãnh thổ nói riêng trước hết tạo ra những tiền đề cần thiết nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của cả nước cũng như của từng địa phương. Trên thực tế, nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã hình thành các hình thức mới về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.Việc nhận thức chúng một cách đúng đắn là chiếc chìa khóa để sử dụng hợp lý hơn các điều kiện hiện có của đất nƣớc. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các ngành sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, cần nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chung về phương diện sinh thái. Điều đó nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được phân bố ở những nơi có điều kiện thích hợp nhất.Vì thế, việc phân bố vật nuôi, cây trồng cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. • Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo nên những điều kiện nhằm đẩy mạnh và làm sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp. Quá trình chuyên môn hóa trong nông nghiệp có tính chất đặc biệt.Đó là hiện tượng khách quan gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện nền sản xuất xã hội. Đồng thời, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp dựa vào sự tác động của các qui luật kinh tế khách quan trong các hình thái kinh tế, xã hội khác nhau, liên quan mật thiết nhất với trình độ phát triển của sức sản xuất và quan hệ sản xuất của một quốc gia. Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp là một trong những biểu hiện của phân công lao động xã hội. Trong khi chuyên môn hóa những nông phẩm nào đấy, một lãnh thổ giữ một địa vị nhất định trong sự phân công lao động xã hội. Địa vị này đƣợc xác định chủ yếu bởi sản phẩm hàng hóa sản xuất ra để thỏa mãn nhu cầu của xã hội.Dƣới ảnh hưởng của quá trình này, từng bộ phận lãnh thổ trong nƣớc đều chuyên môn hóa những nông phẩm nhất định. Từ đó, quá trình chuyên môn hóa ngày càng tiếp tục đƣợc đẩy mạnh và trở nên sâu sắc trên phạm vi toàn quốc. • Việc hoàn thiện các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp còn tạo ra cả những điều kiện nhằm nâng cao năng suất lao động. 13
- Việc nâng cao năng suất lao động là kết quả của hàng loạt các yếu tố gắn liền với sự thay đổi của ba thành phần thuộc quá trình lao động: phương tiện lao động, đối tượng lao động và lực lượng lao động. Một trong những con đường nâng cao năng suất lao động sử dụng tối ưu nguồn lao động tăng số lượng nông phẩm trên một đơn vị diện tích với chi phí ít nhất trên một đơn vị sản phẩm là việc xác định một cách khoa học các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. • Việc nghiên cứu các hình thức tổ chức nông nghiệp theo lãnh thổ góp phần vào công tác lập kế hoạch theo lãnh thổ. Trong hoàn cảnh hiện nay, việc lập kế hoạch phải linh hoạt.Tránh sự cứng nhắc, áp đặt. Thực chất đây là việc xác định một cách có căn cứ khoa học những mối quan hệ cần thiết giữa các ngành trong nền sản xuất xã hội, là việc đảm bảo sự cân đối giữa các yếu tố sản xuất (đất đai, máy móc, sức lao động...) và đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, từng đơn vị sản xuất tiến hành xây dựng kế hoạch sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình, đồng thời thỏa mãn sự cân đối nhất định giữa các ngành, giữa các yếu tố của sản xuất, giữa tích lũy và tiêu dùng. • Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn liền với việc giải quyết có hiệu quả vấn đề phân bổ lực lượng sản xuất theo lãnh thổ trong cả nước nói chung và trong từng vùng nói riêng. 3.2. Vai trò của sự lựa chọn các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đối với phát triển nông nghiệp Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng có nội dung rất rộng bao gồm về nhiều mặt, từ sản xuất chế bi ến và tiêu thụ sản phẩm. Tất cả những hoạt động đó diễn ra ở các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp, ở một số hình thức tổ chức lãnh thổ nhất định.Vì vậy, muốn có các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp trước hết phải hình thành nên các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp – tổ chức ra các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp.Trong hệ thống nông nghiệp có nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp khác nhau.Mỗi hình thức có vai trò, vị trí và thích hợp với những điều kiện sản xuất khác nhau.Vì vậy, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có vai trò rất quan trọng. Cụ thể: Lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp thích hợp cho phép khai thác một cách đầy đủ và hợp lí nhất các nguồn lực của nông nghiệp, làm cho sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, nếu lựa chọn các hình thức sản xuất kinh doanh nông nghiệp không thích hợp sẽ cản 14
- trở quá trình khai thác các nguồn lực, không đáp ứng yêu cầu thường xuyên và khắt khe của sản xuất nông nghiệp. Thực tế nền nông nghiệp nước ta cũng các nước xã hội chủ nghĩa những năm gần đây là những minh chứng sống động về sự chọn không thích hợp các loại hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Việc xóa bỏ tính độc lập của hình thức kinh tế hộ nông dân và thay vào đó là xây dựng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp kiểu cũ, các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của ngành cũng như của từng loại hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Nước ta đã và đang được đổi mới bằng việc lựa chọn và xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Một số nguyên tắc cơ bản khi lựa chọn và tổ chức các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: Đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của các loại hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp đã được lựa chọn.Đây là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất khi lựa chọn và tổ chức các loại hình sản xuất nông nghiệp.Vì hiệu quả là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hoạt động sản xuất của các loại hình sản xuất nhất định về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.Trong đó, hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn đánh giá cao hoạt động kinh tế, là mục tiêu trực tiếp của hoạt động sản xuất. Việc lựa chọn cũng như tổ chức các loại hình sản xuất có liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của chúng: + Hiệu quả kinh tế như việc sử dụng các nguồn lực và hiệu quả cuối cùng, được xem xét và đánh giá trong nhiều năm liên tục. + Hiệu quả xã hội được xem xét trên phạm vi rộng, liên quan đến các vấn đề xã hội, nhưng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp nhất là trong quá trình đổi mới các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước. + Hiệu quả môi trường có tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp. Vì sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với môi trường cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường nhân văn.Lựa chọn các loại hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với các điều kiện cụ thể đạt hiệu quả cao về môi trường cho phép giải quyết hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phân tích các nhân tố ảnh hưởng tìm ra loại hình thích hợp với các nhân tố và điều kiện cụ thể. Các nhân tố gồm: điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành sản xuất, trong đó lưu ý tới đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành và về quy mô sản xuất. 15
- Các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phải là tổ chức kinh tế tự chủ, là các đơn vị kinh tế độc lập, có quyền sở hữu, sử dụng tài sản, lựa chọn hình thức phương hướng sản xuất kinh doanh, chủ động tổ chức các hoạt động sản xuất và phân phối phù hợp với mục đích sản xuất nhẳm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao, quyền lựa chọn các đối tác hợp tác, liên kết, liên doanh có hiệu quả nhất. Phù hợp với các đặc điểm kinh tế, xã hội của nông nghiệp, nông thôn nước ta: do nông nghiệp nông thôn nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kĩ thuật còn thấp… Vì vậy, bên cạnh xây dựng các loại hình doanh nghiệp: đa thành phần, đa sở hữu, phải chú ý đến hoạt động của 10 triệu hộ nông dân, từng bước chuyển các hộ nông dân sang hình thức kinh tế trang trại. Lựa chọn các mô hình sản xuất nông nghiệp và tiếp tục chuyển đổi các doanh nghiệp nông nghiệp là yêu cầu cần thiết. Đảm bảo tính thống nhất trên 3 mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối của các hình thức sản xuất nông nghiệp. Sự thống nhất có tính nguyên tắc này cần được lưu ý không chỉ trong lựa chọn mà còn đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, nhất là đổi mới các doanh nghiệp từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP 1. Vị trí địa lí Vị trí địa lí có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của một lãnh thổ và vị trí địa lí như một yếu tố khác biệt có tác động đến tổ chức lãnh thổ lãnh thổ kinh tế xã hội nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, yếu tố vị trí địa lí càng được đánh giá cao khi lựa chọn các địa bàn để đầu tư, phát triển các lãnh thổ trọng điểm và tạo ra các mối liên kết liên vùng, liên khu vực. 2. Các nhân tố tự nhiên Các nhân tố tự nhiên thường được coi là yếu tố tiền đề, có tính vật chất để tổ chức lãnh thổ kinh tế. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất của nông nghiệp và nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. a. Đất đai Nông nghiệp có những đặc điểm đặc thù khác với các ngành sản xuất khác. Đặc điểm đầu tiên phải đề cập đến là đất đai được coi là tư liệu sản 16
- xuất quan trọng nhất của nông nghiệp. Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp lệ thuộc và số lượng và chất lượng của đất đai. Sự phân hóa lãnh thổ của đất trồng là nhân tố có ý nghĩa rất lớn đối với sự phân bố nông nghiệp. Trên thế giới, những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu đều là những vùng nông nghiệp trù phú. Do đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên hoạt động nông nghiệp phân bố trong phạm vi không gian rộng lớn. Trong nông nghiệp, không thể đầu tư (vốn, tư liệu sản xuất,…) quá nhiều trên một đơn vị diện tích, bởi vì làm như vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này khác hẳn trong sản xuất công nghiệp. Khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không thể bỏ qua các đặc điểm nói trên. Sự ra đời của một hoạt động xí nghiệp nào đó (đặc biệt trong ngành trồng trọt) trước hết phải gắn liền với tư liệu sản xuất hàng đầu này. Mặc dù sản xuất nông nghiệp trải rộng theo không gian, nhưng điều đó hoàn toàn không mang tính chất tùy tiện. Khi xác định quy mô, cơ cấu sản xuất của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, nhất thiết phải chú ý đến mối tương tác từ các đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. b. Khí hậu Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió và cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió nóng…có ảnh hưởng rất lớn với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ sản phẩm. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định, nghĩa là trong giới hạn cho phép. Những vùng có độ ẩm và lượng mưa phong phú, thời gian có ánh nắng mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn…sẽ cho phép trồng nhiều vụ trong năm với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng có khả năng xen canh, gối vụ cao. Tuy nhiên, để tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một cách hiệu quả cũng cần chú ý đến tính chất biến động thất thường của khí hậu, thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, sương muối…để giảm thiểu những tác hại của chúng đến năng suất của cây trồng và vật nuôi, tránh tác hại đến sản xuất nông nghiệp. c. Nguồn nước Nước ngọt là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu của nông nghiệp vì nước cần thiết cho sự sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi. Nó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Những nền nông nghiệp trù phú trên thế giới đều nằm ở những nơi có nguồn nước dồi dào. Ngược lại nông nghiệp khó phát 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo tốt nghiệp - Xây dựng Website phục vụ tra cứu thông tin thửa đất trên địa bàn quận Bình Thạnh, TPHCM
72 p | 389 | 129
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Kinh nghiệm phát triển khu kinh tế trên thế giới và bài học đối với Việt Nam "
10 p | 573 | 126
-
Báo cáo tiểu luận: Chuyển giao công nghệ sản xuất ô tô từ tập đoàn DEAWOO Hàn Quốc cho VN
12 p | 394 | 97
-
Báo cáo khoa học: Thực trạng phân bố và định hướng sử dụng đất khu dân cư nông thôn huyện thường tín tỉnh Hà Tây
7 p | 202 | 52
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Dịch vụ công với phát triển kinh tế - xã hội "
12 p | 164 | 49
-
Báo cáo tốt nghiệp “Nghiên cứu biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002 “
52 p | 223 | 47
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhà trường và doanh nghiệp cần có tiếng nói chung"
7 p | 152 | 46
-
Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam
217 p | 155 | 27
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Nâng cao hiệu quả hoạt động Thông tin Khoa học và Công nghệ ở Nghệ An"
12 p | 112 | 20
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Những lỗi doanh nghiệp thường gặp trong quá trình yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu "
8 p | 93 | 17
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Đăng ký nhãn hiệu quốc tế - bước đi quan trọng của các doanh nghiệp việt nam trong thời kỳ hội nhập"
9 p | 101 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Việt Nam trong thế kỷ XX "
14 p | 133 | 14
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An "
9 p | 144 | 13
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động KH-CN cấp huyện ở Nghệ An "
11 p | 79 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Hoạt động KHCN cấp huyện tỉnh Nghệ An giai đoạn 2001 - 2010 và một số định hướng phát triển"
8 p | 78 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Nên bỏ hẳn kỳ thi tốt nghiệp THPT"
8 p | 71 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học "Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cái nhìn từ công tác tổ chức Đảng "
4 p | 40 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn