Béo phì (Phần 1)
lượt xem 22
download
Béo phì là gì ? Béo phì là sự quá tải do tích tụ mỡ thái quá. Mỗi người một lượng mỡ để dự trữ năng lượng, cách nhiệt, đệm khi va chạm và những chức năng khác. Nữ có lượng mỡ trung bình nhiều hơn nam giới. Tỉ lệ trung bình mỡ/cân nặng là 25- 30% đối với nữ ,18-23 % đối với nam. Phụ nữ khi chỉ số này trên 30%, nam trên 25% thì được xem là béo phì. Lượng mỡ trong cơ thể được đo như thế nào ? Ðo lượng mỡ trong cơ thể thì...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Béo phì (Phần 1)
- Béo phì (Phần 1) Béo phì là gì ? Béo phì là sự quá tải do tích tụ mỡ thái quá. Mỗi người một lượng mỡ để dự trữ năng lượng, cách nhiệt, đệm khi va chạm và những chức năng khác. Nữ có lượng mỡ trung bình nhiều hơn nam giới. Tỉ lệ trung bình mỡ/cân nặng là 25-
- 30% đối với nữ ,18-23 % đối với nam. Phụ nữ khi chỉ số này trên 30%, nam trên 25% thì được xem là béo phì. Lượng mỡ trong cơ thể được đo như thế nào ? Ðo lượng mỡ trong cơ thể thì không dễ dàng chút nào. Những phương pháp sau đây cần dụng cụ chuyên biệt và người được huấn luyện kỹ càng: Cân nặng dưới nước: phương pháp này là cân một người dưới nước rồi thì tính toán mỡ dựa vào lượng nước bị mất. BOD POD : Là một cái bồn hình quả trứng được vi tính hoá. Sau khi người ta vào BOD POD dựa vào lượng khí biến mất mà tính toán lượng mỡ trong cơ thể. DEXA : Ðo sự hấp thu năng lượng tia X tương tự như cắt lớp xương. Nó dùng tia X không những xác định lượng mỡ mà còn vị trí mỡ trong cơ thể. Hai phương pháp sau đây thì đơn giản và trung thực: Dùng compa đo khẩu kính da : Những nếp dầy lên trong những phần của cơ thể được đo bằng compa, một dụng cụ kim loại tương tự như kiềm. Phân tích sự cản trở điện sinh học: một dòng điện vô hại sau khi qua cơ thể sẽ được phân tích để tính toán lượng mỡ. Tuy nhiên nó có thể cho kết quả không chính xác nếu được thực hiện ở người không kinh nghiệm hoặc là đo người quá béo phì. Bảng cân nặng so với chiều cao Vì đo lượng mỡ trong cơ thể khó vận dụng, nên thường dựa vào phương pháp khác để chẩn đoán béo phì. Hai phương pháp được sử dụng rộng rãi là dựa vào bảng cân nặng/chiều cao và chỉ số khối lượng cơ thể. Dù hai phương pháp này có một số giới hạn của nó nhưng chúng có thể chỉ ra một người nào đó có vấn đề về cân nặng. Những tính toán của nó dễ dàng và không cần dụng cụ chuyên biệt.
- Ða số người ta quen với bảng cân nặng/chiều cao. Bác sĩ, y tá hay một số người khác đã sử dụng bảng này trong những thập niên qua để xác định sự quá trọng của cơ thể. Bảng này thường có một sự biến thiên về cân nặng đối với một chiều cao cho trước. Một vấn đề nhỏ trong khi sử dụng bảng cân nặng chiều cao này là bác sĩ không đồng ý, đâu là bảng tốt nhất để sử dụng. Những tài liệu khác nhau có thể cho những biến thiên cân nặng khác nhau. Một số bảng đưa kích thước, tuổi, và giới vào để tính toán. Một số khác thì không. Một giới hạn quan trọng của những bảng này là chúng không phân biệt được sự quá trọng do mỡ hay do cơ. Một người cơ bắp phát triển có thể bị kết luận là béo phì trong khi thực tế họ không bị. Chỉ số khối lượng cơ thể(CSCT) là gì (BMI) ? Ðây là thuật ngữ mới đối với nhiều người. Tuy nhiên bây giờ nó là phương pháp được chọn của nhiều bác sĩ và những nhà nghiên cứu béo phì. Bảng này sử dụng công thức toán học để tính vừa cân nặng và chiều cao. Bảng này bằng cân nặng (kg) chia cho chiều cao (m). Ðối người nhỏ hơn hoặc bằng 34 tuổi thì BMI > 25 được xem là béo phì. Ðối với người > 35 tuổi thì BMI > 27 thì được xem là béo phì. BMI > 30 thì được xem là béo phì trung bình đến nặng. Ðo BMI cũng gặp một số vấn đề tương tự như bản cân nặng/chiều cao. Không phải mọi người đều chấp nhận điểm dừng của người khoẻ mạnh đối với người không khoẻ mạnh trong dãy biến thiên của bảng BMI. Nó cũng không cung cấp cho biết có bao nhiêu phần trăm mỡ trong cơ thể. Tuy nhiên giống như bảng cân nặng/chiều cao, BMI có ích cho việc hướng dẫn khái quát và là cách ước lượng mỡ tốt nhất cho người lớn từ 19 -70 tuổi. Nó không chính xác trong việc đo lượng mỡ của những lực sĩ thể hình, vận động viên, và phụ nữ có thai.
- Tại sao phải quan tâm đến béo phì? Béo phì không chỉ liên quan đến khía cạnh thẩm mỹ. Nó còn là một thảm họa về sức khoẻ đáng sợ. Ở Mỹ, nó trở nên quá thông thường. 1/3 dân số Mỹ là béo phì. Chỉ riêng nước Mỹ thì có khoảng 300.000 chết mỗi năm do béo phì. Béo phì có hại trực tiếp đến sức khoẻ của con người. Nó cũng gia tăng nguy cơ phát triển một số bịnh mãn tính khác bao gồm : + Bịnh tiểu đường type 2. + Tăng huyết áp. + Ðột quị (tai biến mạch máu não). + Sốc tim (nhồi máu cơ tim). + Suy tim (suy tim ứ huyết). + Ung thư (tiền liệt tuyến, đại tràng). + Sỏi mật và bịnh lý túi mật (viêm túi mật). + Bịnh gút và đau khớp do gút. + Viêm khớp gối, hông, và đau lưng. + Khó thở khi ngủ (không thở được bình thường khi ngủ, mức oxi trong máu thấp). + Hội chứng Pickwick (béo phì, đỏ mặt, và buồn ngủ ). Vị trí mỡ trong cơ thể có ảnh hưởng gì không ? (cơ thể hình quả táo hay quả lê thì ảnh hưởng đến sức khoẻ). Mối liên quan không chỉ là bao nhiêu mỡ trong cơ thể mà còn vị trí mỡ tập trung ở đâu. Kiểu phân bố mỡ trong cơ thể khác nhau giữa người đàn ông và phụ nữ.
- Phụ nữ thì mỡ thường tập trung vùng háng và mông nên cho hình dáng quả lê. Ðàn ông thì mỡ tập trung ở xung quanh thắt lưng nên có hình dáng quả táo (điều này không phải bất di bất dịch vì cũng có một số người đàn ông hình quả lê và ngược lại cũng có một số người phụ nữ hình quả táo). Người có thể hình quả táo thì mỡ có xu hướng tập trung ở bụng nên có nhiều vấn đề liên quan đến sức khoẻ do béo phì. Sự phân bố mỡ có nguy cơ về sức khoẻ. Hình quả lê thì tốt hơn hình quả táo. Ðể xác định hình dáng như trên bác sĩ khuyên một cách đơn giản để xác định một người nào đó có thân hình quả táo hay quả lê. Ðó là chỉ số eo - mông. Ðể xác định chỉ số này thì đo eo nơi hẹp nhất và đo mông nơi to nhất. Chia số đo của eo cho số đo của mông. Một người nữ với chỉ số eo 35 inch và mông là 46 inch thì chỉ số này là 35/46=0,76. Người phụ nữ với chỉ số này trên 0,8 và đàn ông trên 1 thì được xem là hình quả táo. Một cách tính đơn giản khác để ước lượng mỡ trong cơ thể là chu vi eo. Người đàn ông vòng eo > 40 và phụ nữ > 35 inch được xem là có nguy cơ về sức khoẻ do béo phì. Nguyên nhân của béo phì là gì ? Theo khoa học thì béo phì xảy ra khi lượng calo lấy vào vượt quá lượng tiêu hao. Nguyên nhân gì gây mất cân bằng giữa nhận và sử dụng năng lượng thì chưa rõ ràng. Yếu tố tổng quát : Béo phì có xu hướng xảy ra trong gia đình gợi ý nguyên nhân di truyền. Tuy nhiên những thành viên trong gia đình không những có quan hệ về di truyền mà còn có chung những vấn đề về chế độ ăn, cách sống, những yếu tố góp phần tạo nên béo phì. Sự tách riêng yếu tố về kiểu sống và di truyền thì khó khăn. Trong một nghiên cứu ở những người lớn được nhận nuôi khi còn trẻ thì cân nặng của họ có xu hướng gần giống với cân nặng của cha mẹ ruột họ hơn là cha mẹ nuôi. Môi trường do cha mẹ nhận nuôi ít có ảnh hưởng đến béo phì hơn là kiểu di truyền.
- Yếu tố môi trường: ( Những người mà cảm thấy rằng kiểu gen gây ra béo phì thì dễ mắc bịnh tim hơn). Mặc dù kiểu gen là yếu tố quan trọng trong nhiều trường hợp béo phì nhưng môi trường cũng đóng một phần quan trọng không kém. Môi trường bao gồm : những thói quen trong cuộc sống như thói quen ăn uống và hoạt động. Người ta không thể thay đổi kiểu gen nhưng có thể thay đổi kiểu sống. Một số người có thể giảm cân và duy trì bằng: Chọn thức ăn có nhiều dinh dưỡng nhưng ít béo. Học cách để nhận biết vai trò của môi trường gây cho họ muốn ăn mặc dù không thấy đói (xem tivi). Tập thể dục nhiều hơn. Yếu tố tinh thần: Những gì diễn ra trong đầu người ta có thể ảnh hưởng đến thói quen ăn uống. Nhiều người ăn để đáp ứng với những cảm xúc như buồn , chán, giận dữ. Trong khi những người béo phì lại không có vấn đề mất thăng bằng về tâm thần hơn so với người bình thường, khoảng 30% người điều trị quá mập có những khó khăn là vấn đề ăn uống quá độ. Suốt trong thời kỳ bộc phát những đợt ăn uống quá độ, họ đã ăn một lượng lớn thức ăn mà không hề biết mình ăn bao nhiêu. Những người này được xem là có rối loạn về ăn uống. Những người này thì khó làm giảm cân và duy trì cân nặng hơn những người không có rối loạn về ăn uống. Một số người cần tham vấn hoặc dùng thuốc để kiểm soát cân nặng vấn đề ăn uống trước khi họ kiểm soát thành công vấn đề cân nặng của mình. Những yếu tố về y khoa: Một số bịnh cũng có thể gây béo phì. Bao gồm suy giáp, Hội chứng Cushing, Hội chứng Prader- Willi và những vấn đề thần kinh nào đó có thể dẫn đến ăn quá nhiều. Một khi bác sĩ đã xác định những tình trạng này đã có thì việc điều trị chỉ đáp ứng khoảng 1% của tất cả những trường hợp. Thuốc: những thuốc như steroids, thuốc chống trầm cảm cũng có thể gây ra béo phì.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÀI GIẢNG BÉO PHÌ (Kỳ 5)
5 p | 220 | 44
-
BÀI GIẢNG BÉO PHÌ (Kỳ 1)
5 p | 238 | 41
-
Bài thuốc trị bệnh béo phì bằng món ăn: Phần 2
134 p | 112 | 27
-
BÀI GIẢNG BÉO PHÌ (Kỳ 8)
7 p | 133 | 26
-
BÀI GIẢNG BÉO PHÌ (Kỳ 4)
5 p | 132 | 25
-
Bài thuốc trị bệnh béo phì bằng món ăn: Phần 1
89 p | 103 | 23
-
Kiến thức về phòng, chống thừa cân, béo phì ở trẻ em: Phần 1
39 p | 36 | 12
-
Kiến thức về phòng, chống thừa cân, béo phì ở trẻ em: Phần 2
64 p | 32 | 10
-
BỆNH BÉO PHÌ (phần 1)
22 p | 56 | 9
-
Phòng chống béo phì ở trẻ: Phần 2
138 p | 34 | 8
-
Ebook Thực đơn phòng và chữa trị bệnh Béo phì: Phần 1
36 p | 24 | 7
-
Ebook Thực đơn phòng và chữa trị bệnh Béo phì: Phần 2
152 p | 28 | 7
-
Phòng chống béo phì ở trẻ: Phần 1
87 p | 23 | 6
-
Trẻ béo phì và các dinh dưỡng cần thiết: Phần 1
56 p | 52 | 4
-
Một số yếu tố liên quan đến thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học Bắc Ninh năm 2016
7 p | 31 | 1
-
Tỉ lệ bệnh da và các yếu tố liên quan ở người lớn béo phì tại phòng khám béo phì viện YDHDT TP.HCM
8 p | 58 | 1
-
Mối liên quan giữa đa hình nucleotide đơn rs6548238 gen TMEM18 và béo phì ở trẻ tiểu học Hà Nội
7 p | 57 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn