Cải cách tài chính công thực trạng và giải pháp khắc phục
lượt xem 105
download
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CẤN QUANG TUẤN (*) Văn phong Bộ Nội vụ Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cải cách tài chính công thực trạng và giải pháp khắc phục
- CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CẤN QUANG TUẤN (*) Văn phong Bộ Nội vụ Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi b ằng tiền của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan h ệ kinh t ế d ưới hình th ức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nh ằm phục vụ việc thực hiện những chức năng vốn có của nhà nước đ ối với xã h ội (không vì mục tiêu thu lợi nhuận). Nội dung của tài chính công bao gồm: ngân sách nhà nước (NSNN) t ừ trung ương đến địa phương; dự trữ nhà nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng nhà nước; tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước; các quỹ tài chính nhà nước (đối với nước ta). Trong đó, NSNN được xem là bộ phận quan trọng nhất, chi phối đến các thành tố khác. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến 3 thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau và liên quan trực tiếp tới việc cải cách tài chính công hi ện nay. Đó là: NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các đơn vị hành chính sự nghiệp NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động thu - chi của NSNN th ể hiện quá trình phân ph ối và phân phối lại một bộ phận giá trị tổng sản phẩm xã hội. Quy mô phân phối lại phụ thuộc vào mức độ động viên của NSNN. Về chức năng, NSNN có 3 chức năng cơ bản. Đó là: công cụ thực hiện việc phân bổ nguồn lực trong xã hội; thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập và chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh t ế quốc dân . Với các chức năng đó, NSNN tác động trực tiếp và gián tiếp tới hầu hết các ch ủ thể, các đơn v ị và các tổ chức trong xã hội. Điều này cũng giải thích tại sao NSNN lại là thành tố quan trọng nhất của tài chính công. Các quỹ tài chính nhà nước, về nguyên tắc, NSNN phải được quản lý một cách toàn diện, nhưng không có nghĩa là tất cả các khoản chi ph ải được quản lý theo quy trình thống nhất. Vì vậy, ở nhiều nước, m ột s ố kho ản chi của Chính phủ đã được quản lý thông qua các quy trình đặc biệt, mà ch ủ đạo
- là các quỹ tài chính nhà nước, tạo nên sự linh hoạt nh ất đ ịnh trong quy ết đ ịnh chi tiêu của Chính phủ. Quỹ tài chính nhà nước có nhiều loại hình khác nhau. Nh ưng xét v ề hình thức tổ chức thường có 2 loại: là một tổ chức tài chính có bộ máy tổ chức, có tư cách pháp nhân (như Quỹ hỗ trợ phát triển...) hoặc chỉ là nguồn tài chính dành riêng để sử dụng vào một hoặc một số mục đích nhất định (như Qu ỹ bình ổn giá cả, Quỹ tích luỹ trả nợ...). Các quỹ tài chính nhà nước thường có nguồn thu chủ yếu từ NSNN và huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng quỹ không được hạch toán vào ngân sách mà được quản lý theo các quy định riêng. Tuy nhiên, cách làm này, bất kể mục đích gì đều làm nảy sinh một số vấn đề trong việc phân bổ nguồn ngân sách. Thông thường thì các giao dịch th ực hiện t ừ các qu ỹ này không được phân loại theo các tiêu chí nh ư các khoản chi ngân sách, t ừ đó làm ảnh hưởng đến tính đầy đủ, chính xác của việc phân tích các ch ương trình chi tiêu của Chính phủ. Hơn thế nữa, sự hiện diện của quá nhi ều các lo ại qu ỹ tài chính nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho nguồn lực tài chính nhà n ước bị phân tán, tính minh bạch của ngân sách vì thế cũng sẽ bị hạn chế. Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp : các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những khoản cấp phát theo chế độ từ NSNN. Ngoài ra, còn một số khoản thu khác có nguồn gốc từ NSNN, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên góp, t ặng, bi ếu không ph ải nộp NSNN. Giữa NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt ch ẽ với nhau, trong đó NSNN có vai trò quan trọng và chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi NSNN được các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu quả tài chính của các khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi NSNN. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của NSNN cũng sẽ quyết định, chi phối tiềm lực và hiệu quả tài chính các đơn vị hành chính, sự nghiệp. Quản lý tài chính công được thực hiện theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính công. Hiệu quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh t ế và xã hội. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng ph ải
- được xem xét đồng thời khi hình thành một quy ết định hay m ột chính sách chi tiêu ngân sách. Nguyên tắc thống nhất: thống nhất quản lý bằng pháp luật là nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản lý tài chính công. Thực hiện nguyên tắc này s ẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản chi tiêu. Nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản đóng góp của dân thực sự phải do dân quyết định chi tiêu nhằm đáp ứng mục tiêu chung của cộng đồng. Nguyên tắc công khai, minh bạch: thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quy ết định về thu, chi tài chính, hạn chế những thất thoát và bảo đảm tính hiệu quả. Về mối quan hệ giữa cải cách hành chính và cải cách tài chính công , cải cách hành chính là một quá trình tiến hành những sửa đổi, cải ti ến mang tính cơ bản và có hệ thống đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước và trong từng thời kỳ, nội dung của cải cách hành chính có phạm vi và mức độ khác nhau Ở n ước ta, công cuộc cải cách hành chính bắt đầu được triển khai từ khoảng giữa những năm 90 thế kỷ XX với sự ra đời của Nghị quyết 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ. Thực tế cho thấy chỉ có thể thực hiện cải cách hành chính thành công khi tiến hành đồng thời với việc cải cách tài chính công. Mối quan hệ khăng khít giữa cải cách hành chính và cải cách tài chính công th ể hiện ở các m ặt sau: việc thực thi hoạt động của bộ máy nhà nước gắn liền với cơ ch ế tài chính h ỗ trợ cho các hoạt động đó; việc phân cấp quản lý hành chính phải tương ứng với sự phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí cho ho ạt động có hiệu quả ở mỗi cấp; các cấp chính quyền trong bộ máy hành chính đều có trách nhiệm và quyền hạn có ý nghĩa quy ết định trong qu ản lý tài chính công ở phạm vi quản lý của mình; các thể chế về tài chính công có tác dụng chi phối hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ trương của Chính phủ; tỷ trọng và cơ chế chi tiêu kinh phí ngân sách để trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước có tác động quan trọng đến việc phát huy năng lực của cán bộ, công chức trong công tác; thông qua tài chính công, nhà nước thực hiện giám sát bằng đồng tiền đối với mọi hoạt động c ủa các c ơ quan trong bộ máy nhà nước. Từ những mối quan hệ hữu cơ nói trên, có thể thấy rằng công cu ộc c ải cách hành chính không thể tách rời với cải cách tài chính công. C ải cách tài
- chính công tác động tới cải cách hành chính nhà nước cả ở phạm vi rộng và phạm vi hẹp. Xét trên phạm vi rộng, cải cách tài chính công là c ải cách các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước, thông qua đó tác đ ộng đ ến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công trên các lĩnh vực. Trên phạm vi hẹp, vai trò của tài chính công đối với cải cách hành chính đ ược xem xét thông qua các tác động trực tiếp của tài chính công t ới bản thân b ộ máy hành chính nhà nước, cụ thể tới cách thức tổ chức bộ máy, c ơ c ấu t ổ chức, quan hệ phân cấp trong bộ máy, cơ chế tài chính bên trong bộ máy, ti ền lương công chức... Những tác động nêu trên gắn liền với các n ội dung c ủa c ải cách hành chính mà chúng ta đang tiến hành. Dưới đây xin được bàn tới sự cần thiết và yêu cầu đặt ra cho c ải cách tài chính công Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi hỏi khách quan và phù hợp với các điều kiện đảm bảo tính kh ả thi c ủa c ải cách. Nó xuất phát từ thực trạng tài chính công hiện nay và yêu c ầu v ề c ải cách hành chính nhà nước trong những năm tới. Thứ nhất, đối với thực trạng tài chính công hiện nay, bên cạnh một số kết quả bước đầu đạt được, tài chính công vẫn đang còn những hạn chế cần sớm khắc phục, đó là: Đối với lĩnh vực NSNN: do chưa xây dựng khuôn kh ổ tài chính trung hạn nên hạn chế tính chiến lược của ngân sách và không phù h ợp v ới vi ệc quản lý các dự án tài chính lớn cần thực hiện trong nhi ều năm. B ố trí ngân sách còn bị động, co kéo với các mục tiêu ngắn h ạn. C ơ c ấu chi ngân sách còn bất hợp lý, vẫn còn những khoản chi mang tính bao cấp. Phạm vi chi ngân sách chưa được xác định rõ nên khó giảm được gánh nặng chi ngân sách trong khi quy mô ngân sách còn nhỏ. Mặt khác, việc chi bao c ấp, bao bi ện đã t ạo t ư tưởng ỷ lại, làm giảm động lực phát triển và cản trở việc thu hút đầu tư xã hội vào việc cung cấp dịch vụ công. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách còn kém hiệu quả, sử dụng lãng phí. Công tác ki ểm soát chi v ẫn n ặng n ề về số lượng, chưa chú ý đúng mức đến chất lượng, hiệu quả khoản chi... Đối với tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: Định mức, chế độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ. C ơ ch ế quản lý biên chế, quản lý kinh phí ngân sách còn bất cập, ch ưa tạo động lực khuy ến khích sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khá ph ổ biến.
- Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và nh ững thể chế mới về NSNN cũng đặt ra yêu cầu về cải cách tài chính công một cách cấp thiết, cụ thể: Luật NSNN (năm 2002) vừa tạo ra cơ sở pháp lý cho cải cách căn b ản về tài chính công, vừa dẫn đến những yêu cầu về cải cách tài chính công nh ư: cơ cấu lại chi ngân sách, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách.... Mục tiêu tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã đặt ra yêu cầu cải cách tài chính công. Đó là: Tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; đ ổi m ới c ơ chế phân bổ ngân sách, chuyển từ cấp kinh phí theo biên chế sang cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, tăng quyền chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách... Yêu cầu về cải cách tài chính công: Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời gian gần đây đòi hỏi phải ti ếp tục c ải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn tới. Đồng thời, đó cũng là nh ững bước đi mang tính thử nghiệm, nó cho phép khẳng định khả năng cải cách tài chính công ở nước ta. Nhận thấy cải cách tài chính công và cải cách hành chính nhà n ước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, những biến động của bộ phận này luôn tác động kéo theo sự thay đổi của bộ phận kia. Do vậy, cải cách tài chính công phải đặt trong mối quan hệ tổng thể của chương trình cải cách hành chính nhà nước, phải đáp ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính và hỗ trợ cho quá trình này. Theo đó, cải cách tài chính công phải đáp ứng các yêu cầu sau: * Phải tạo điều kiện tập trung nguồn lực tài chính nhà n ước đ ể gi ải quyết các nhiệm vụ quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước; sử dụng tập trung nguồn lực cho các ưu tiên chiến lược với chính sách nhất quán, thống nhất và thực tế. * Phải nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhi ệm c ủa các đơn vị trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách và với vấn đề tài chính của mình. * Phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính nhà n ước, bao gồm hiệu quả quản lý, hiệu quả sử dụng NSNN trên bình diện vĩ mô và hi ệu quả sử dụng kinh phí ngân sách ở các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách.
- * Phải hướng tới mục tiêu cuả cải cách hành chính nhà nước, đó là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng các dịch v ụ công được cung cấp. Một số giải pháp cải cách tài chính công (chủ yếu bàn về tăng cường quản lý tài chính công) trong thời gian tới Thứ nhất, phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, bảo đảm cho các c ấp chính quyền địa phương có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và th ẩm quy ền quyết định chi ngân sách, trên cơ sở đó chủ động bố trí và th ực hi ện k ế ho ạch hoạt động quản lý nhà nước và công tác chuyên môn tại địa phương mình. Cần tiệm cận việc phân cấp cho từng cấp chính quy ền có ngu ồn thu độc lập tương đối. Khi có được nguồn thu độc lập, ổn định theo khu vực hành chính của mình, mỗi cấp sẽ tích cực và ch ủ động h ơn trong vi ệc bồi d ưỡng và khai thác nguồn thu. Khoản thu độc lập, có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí các khoản chi tiêu cố định c ủa mình, không bị lệ thuộc quá nhiều vào cấp trên. Việc phân bổ tỷ lệ điều tiết theo từng sắc thuế giữa trung ương và địa phương làm cho việc tính toán trở nên khá phức tạp và không khuy ến khích địa phương thu các sắc thuế do trung ương được hưởng hoặc có tỷ lệ phân bổ cho địa phương thấp. Vì vậy, có thể sử dụng một tỷ lệ điều ti ết chung gi ữa trung ương và địa phương tính trên tổng số thu từ tất cả các lo ại thu ế. T ỷ l ệ này có thể được điều chỉnh theo từng vùng để tạo ra sự phân bổ ngân sách h ợp lý giữa các vùng phù hợp với định hướng phát triển của vùng đó. T ỷ l ệ đi ều ti ết ngân sách được quyết định 3 năm một lần để tạo sự ch ủ động cho đ ịa ph ương trong bố trí các khoản chi. Thứ hai, tăng cường quản lý chu trình ngân sách. Quản lý tốt hơn chu trình ngân sách giúp cho các cơ quan, đơn vị khớp nối giữa kế hoạch hoạt động với kế hoạch tài chính, từ đó có đầy đủ và kịp th ời các nguồn l ực tài chính để chủ động thực thi các nhiệm vụ. Cần đổi mới các hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và quyết toán ngân sách có tính khoa h ọc và phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể là cần ti ếp t ục đ ổi m ới các căn c ứ và quy trình lập dự toán ngân sách, hoàn thiện thủ tục và cơ ch ế ch ấp hành ngân sách, cũng như đổi mới phương thức quyết toán ngân sách. Đặc biệt, cần chuy ển các định mức phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực dựa trên đ ầu vào sang căn c ứ vào kết quả đầu ra. Thứ ba, hoàn thiện các chế độ, định mức chi tiêu. Các định m ức chi tiêu hợp lý giúp các cơ quan, đơn vị tính toán chính xác hơn các ngu ồn l ực tài chính
- cần thiết cũng như có căn cứ khoa học để chi tiêu kinh phí một cách ti ết ki ệm và thích hợp. Cần tiếp tục hoàn thiện các định mức chi tiêu cụ th ể - đặc bi ệt trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở khách quan và sát hợp h ơn với thực t ế, theo hướng tạo ra sự chủ động cho cơ quan, đơn vị và khuyến khích tiết kiệm. Thứ tư, tăng cường tính chủ động về tài chính của các đơn vị hành chính sự nghiệp trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với vi ệc c ải ti ến c ơ ch ế qu ản lý của các đơn vị này. Việc khoán biên chế và chi phí hành chính đối với các cơ quan hành chính và quyền tự chủ về tài chính đối với các đ ơn vị s ự nghi ệp có thu cần được hoàn chỉnh và áp dụng mở rộng trong thời gian tới. Thứ năm, mở rộng và hoàn thiện kiểm toán ngân sách, góp phần chấn trỉnh kỷ luật tài chính công, phát hiện và ngăn chặn tình trạng lãng phí, tham nhũng. Tăng cường cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước, làm cho kiểm toán trở thành một hoạt động th ường xuyên đối v ới các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Ho ạt đ ộng ki ểm toán phải góp phần đánh giá tính kinh tế, hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà nước, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham nhũng, từ đó chấn chỉnh kỷ luật tài chính trong các cơ quan, đơn vị. Thứ sáu, tăng cường sử dụng ngân sách có hiệu quả, từ đó dành một khoản chi thoả đáng cho tiền lương trên cơ sở tiếp tục cải cách chính sách tiền lương gắn với kết quả thực thi nhiệm vụ. Yêu cầu quan trọng b ậc nh ất trong cải cách tiền lương là xây dựng được một hệ thống thang bảng lương và cơ chế nâng lương hợp lý có tác dụng khuyến khích nh ững người làm vi ệc có hiệu quả. Thực hiện tốt những cải cách trên đây về tài chính công sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, làm tăng tính t ự ch ủ c ủa các đơn vị gắn với sự chủ động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính khuy ến khích các đơn vị chi tiêu có hiệu quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết kiệm ngân sách, trên cơ sở đó tăng cường thu nhập cho người lao động. Đó chính là những động lực thúc đẩy các cơ quan trong bộ máy nhà nước đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và nâng cao năng lực của đội ngũ CB,CC, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn. Cải cách tài chính công là một trong 4 nội dung cơ bản của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Cải cách tài chính công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa ph ương, đơn vị trực tiếp sử dụng các nguồn lực tài chính công mà còn mang l ại l ợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những người có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công, đồng thời là người thụ hưởng dịch vụ công đ ược
- cung cấp bởi những nguồn lực tài chính công. Tuy nhiên, c ải cách tài chính công là vấn đề nhạy cảm, luôn tiềm ẩn những khó khăn, thách thức, vì v ậy, cần phải được quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một cách th ường xuyên, có chương trình, kế hoạch cho từng giai đoạn, với nh ững bi ện pháp c ụ thể. Có thể nói, đó là những công việc đầy khó khăn nh ưng ph ải v ượt qua đ ể góp phần quan trọng vào quá trình cải cách hành chính nhà nước, để tài chính công xứng đáng với vai trò, vị trí của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới. Nhìn lại chặng đường 10 năm CCHC, có thể thấy những thay đổi rõ nét trong lĩnh vực quản lý tài chính công. Chúng ta đã bước đầu đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách theo hướng tăng quyền chủ động cho địa phương, bộ ngành, các đơn vị sử dụng ngân sách. Đã đổi mới công tác kiểm toán và thực hiện công khai, minh bạch về tài chính công... Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này Nhiều chuyển biến tích cực Nói về những thay đổi rõ nét trong công cuộc cải cách quản lý tài chính công trong chặng đ ường CCHC c ủa Vi ệt Nam su ốt 10 năm qua, Trưởng khoa sau đại học, Học viện Hành chính PGS-TS Lê Chi Mai cho r ằng, có 3 vấn đ ề l ớn chúng ta đ ạt được. Thứ nhất, việc tăng cường phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho cơ sở đã tạo ra s ự thay đ ổi khá l ớn trong phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc phân cấp nhiều hơn cho chính quyền địa phương về nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách bước đầu đã được thực hiện theo nguyên tắc dịch vụ công đ ược phân cấp cho c ấp nào có kh ả năng đáp ứng nhanh nhất, tiện lợi nhất cho người dân. Thứ 2, đổi mới có chế tài chính với cơ quan hành chính và đ ơn v ị s ự nghiệp. Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đ ơn vị s ử dụng ngân sách và đ ơn v ị s ự nghi ệp công lập đã tạo ra sự linh hoạt nhất định cho cơ quan, đơn vị này trong sử dụng kinh phí đ ể thực thi các hoạt đ ộng cung cấp dịch vụ công nhằm đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Thứ 3, việc mở rộng công khai ngân sách và ki ểm toán ngân sách bước đầu đi vào nề nếp và phát huy được hiệu quả, qua đó tăng cường công tác ki ểm tra n ội b ộ, c ấp trên v ới c ấp dưới và phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của đoàn thể trong việc thu chi ngân sách, chống thất thoát. Tuy nhiên, đó mới chỉ là kết quả bước đầu. Tài chính công thực sự vẫn chưa đảm bảo vai trò là công c ụ đi ều ti ết c ủa Nhà nước nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ nguồn lực có hiệu quả và đảm bảo công bằng xã hội. Theo bà Mai có nhiều thách thức đề ra cho lĩnh vực tài chính công, đó là: Thu ngân sách ch ưa đáp ứng đ ủ nhu c ầu chi tiêu; phân bổ và sử dụng chi tiêu công vẫn còn kém hiệu quả; nguồn lực để tr ả l ương cho cán bộ, công ch ức ch ưa đáp ứng được đòi hỏi của cải cách tiền lương; phân cấp ngân sách cho địa phương vẫn chưa đ ủ mức, l ập ngân sách theo đ ầu vào với tầm nhìn ngắn hạn, thâm hụt ngân sách và nợ công còn khá lớn, chi tiêu công cho hỗ tr ợ ng ười nghèo v ẫn đ ạt k ết qu ả chưa như mong muốn, mua sắm và sử dụng tài sản công vẫn còn lãng phí; cơ chế tự chủ tài chính của các c ơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp chưa đủ cơ sở và thiếu gắn kết với kết quả đầu ra... Tabmis-hệ thống quản lý ngân sách, kho bạc trong lĩnh vực tài chính công Rất nhiều giải pháp đưa ra nhằm minh bạch hóa nền tài chính công, một trong những gi ải pháp quan tr ọng đó là áp d ụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý nguồn ngân sách. Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Phạm Sỹ Danh, Bộ đang tri ển khai Dự án hệ thống quản lý tài chính công mang tên Tabmis với mục tiêu hi ện đ ại hóa công tác quản lý ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý tài chính công. Thông qua hệ thống này s ẽ chu ẩn hóa các quy trình nghiệp vụ ngân sách và kho bạc phù hợp với thông lệ quốc tế trong việc phân bổ nguồn ngân sách, hướng t ới mở r ộng k ết nối với các cơ quan liên quan trong việc sử dụng ngân sách. Nếu áp dụng hệ thống quản lý này s ẽ có c ơ s ở d ữ li ệu t ập trung toàn quốc, có khả năng tích hợp, kết nối và xử lý tập trung dữ liệu trong toàn ngành tài chính.. Theo ông Phạm Sỹ Danh, đã có 45 tỉnh, thành áp dụng Tabmis nhưng điều này chưa nói lên thành công của Dự án. B ởi đ ể áp dụng cùng một hệ thống quản lý tài chính trên toàn quốc đòi hỏi sự nhiệt tình tâm huy ết của cán bộ, công ch ức vì kh ối lượng công việc trong những năm đầu tiên sẽ rất nhiều, trong khi là vấn đề mới không dễ áp dụng.
- Tin tức > Xã hội > Thời sự Quyết liệt thực hiện cải cách tài chính công Nhân dân - 9 tháng trước Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 đã đ ặt ra bốn nội dung l ớn v ề c ải cách thể chế, cải cách bộ máy, đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công (CCTCC). Trong bốn nội dung cơ bản này, CCTCC - trong đó cơ bản là cải cách cơ chế quản lý tài chính đ ối v ới đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) - được xác định là khâu đột phá quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này Khẳng định hướng đi đúng Theo đánh giá của Bộ Tài chính tại Hội nghị trực tuyến tổng kết việc thực hi ện các quy đ ịnh về ch ế đ ộ t ự chủ, t ự ch ịu trách nhiệm (TC-TCTN) đối với đơn vị SNCL, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhi ều văn bản có giá tr ị pháp lý cao về CCTCC. Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành năm 2006, các nội dung t ự chủ về tài chính bao gồm: tự chủ về các khoản thu, mức thu; về huy động vốn; về sử dụng nguồn tài chính; về xây dựng quy ch ế chi tiêu nội bộ; về sử dụng kết quả hoạt động tài chính. Sau sáu năm triển khai vào thực tế, về cơ bản, các đ ơn vị SNCL đã đ ược phân cấp trong việc sử dụng biên chế, lao động, sắp xếp lại bộ máy tổ chức công việc và nguồn l ực tài chính đ ể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, cơ chế này đã giúp phát huy mọi khả năng của đ ơn vị đ ể cung cấp dịch vụ có chất lượng, bảo đảm tính công khai, minh bạch, gắn chất lượng, hiệu quả công việc với thu nhập của ng ười lao đ ộng. Hiện cả nước có 96,7% đơn vị SNCL đã được giao tự chủ tài chính (TCTC), số thu của các đ ơn vị SNCL luôn theo h ướng năm sau cao hơn năm trước: năm 2008 đạt hơn 37.500 tỷ đồng, năm 2009 đạt 39.800 t ỷ đ ồng, năm 2010 đ ạt 40 nghìn t ỷ đồng. Đồng thời với việc khai thác nguồn thu, việc xây dựng các giải pháp để ti ết ki ệm chi phí cũng đã góp ph ần gi ảm chi t ừ nguồn NSNN, tạo nguồn tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức. Nhìn chung, k ết quả thực hi ện cơ chế quản lý tài chính đ ối với đơn vị SNCL cho thấy đây là một chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp yêu cầu của công cuộc đ ổi m ới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN mà các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội đã đ ề ra. Vẫn còn nhiều bất cập Mặc dù đã đạt được kết quả bước đầu, song trên thực tế việc thực hiện cơ chế TC-TCTN tại các đơn vị SNCL vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém. Theo ý kiến đóng góp của đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như của lãnh đ ạo các t ỉnh, thành phố như TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Thanh Hóa, Quảng Ninh tại hội nghị, việc triển khai ở nhi ều lĩnh vực còn chậm đổi mới, chưa chủ động huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (kể cả từ Nhà nước và t ừ nguồn xã hội hóa) đ ể phát triển dịch vụ. Chất lượng tăng trưởng, năng suất và sức cạnh tranh thấp, chất l ượng dịch vụ công chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, sử dụng NSNN chưa thật sự hiệu quả... Việc thực hiện còn chậm, chưa có bước chuyển bi ến có tính đ ột phá, việc tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công còn ch ưa rõ ràng, hi ệu qu ả, chưa đồng bộ. Đáng lưu ý một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền TC-TCTN của đ ơn vị SNCL (như chế độ học phí, viện phí...) cũng như nhiều định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành đã l ạc hậu hoặc còn thi ếu; chưa thật sự gắn kết giữa giao nhiệm vụ và giao kinh phí; một số đơn vị SNCL khi mở rộng hoạt đ ộng dịch vụ (liên doanh, liên kết trong hoạt động) còn chạy theo số lượng dịch vụ mà không quan tâm đ ến ch ất l ượng hoạt đ ộng, l ạm d ụng kỹ thuật để tăng thu. Đồng thời, vẫn có những khoảng cách lớn giữa các vùng, mi ền, gi ữa T.Ư với đ ịa phương trong các hoạt động của các đơn vị SNCL... nên việc khai thác các nguồn lực xã hội đ ể đ ầu t ư phát tri ển hoạt đ ộng s ự nghi ệp còn hạn chế. Theo các chuyên gia, nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên chủ yếu là do công tác tuyên truy ền cũng nh ư hoạt đ ộng tri ển khai chưa được quan tâm đúng mức; cơ chế quản lý và phương thức hoạt động chưa đ ược đ ổi mới đ ồng bộ... nên chưa đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội. Việc chưa thật sự trao quyền TC-TCTN, chưa có bi ện pháp đôn đ ốc, ki ểm tra th ường xuyên, chưa thật sự quan tâm chỉ đạo công tác triển khai thực hiện cũng như chưa ch ủ đ ộng xây dựng phương án... cũng được xác định là những nguyên nhân cơ bản gây nên các vướng mắc nêu trên. Xác định rõ khâu đột phá
- Kết quả triển khai thực hiện các cơ chế tài chính TC-TCTN của đơn vị SNCL đã khẳng định tính đúng đ ắn, phù hợp yêu cầu thực tiễn của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để ti ếp t ục phát huy những k ết qu ả đã đ ạt được, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới của cơ chế quản lý tài chính quan tr ọng này, ngày 26-5-2011, B ộ Chính trị đã có Thông báo số 37-TB/TW về Đề án "Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị SNCL, đ ẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công" do Chính phủ chủ trì. Rõ ràng, chủ tr ương, đ ường l ối thì đã có, nhưng đ ể thúc đẩy việc thực hiện đạt kết quả còn đòi hỏi sự tham gia tích cực, quyết liệt và đ ồng thuận của các cấp, các ngành, các đ ịa phương. Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ khẳng định: Trong năm 2012, Bộ Tài chính sẽ chủ trì đ ề xuất các bi ện pháp cần thiết nhằm đôn đốc việc quan tâm và thực hiện có hiệu quả kế hoạch tri ển khai thực hi ện nội dung Thông báo số 37-TB/TW. Theo đó, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành Chương trình hành động tri ển khai thực hi ện Thông báo s ố 37-TB/TW, trong đó thực hiện các nhiệm vụ: rà soát các nhiệm vụ trong từng lĩnh vực đ ể xác đ ịnh rõ nh ững dịch v ụ nào do Nhà n ước bảo đảm và những dịch vụ nào do xã hội thực hiện; chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thi ết phải làm cho các tổ chức xã hội hoặc người dân tự trang trải phí dịch vụ để tập trung vào một số lĩnh vực quan tr ọng hơn trong phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện có kết quả các yêu cầu đổi mới nêu trên, bên cạnh sự quyết tâm của Chính ph ủ, s ự ch ủ đ ộng đ ề xu ất c ủa Bộ Tài chính, cần có sự tham gia tích cực của các bộ, ngành, địa phương, các đ ơn vị s ự nghi ệp trong vi ệc tham m ưu cho các cấp ủy đảng ban hành các biện pháp thực hiện cụ thể nhằm tạo chuyển biến về tư t ưởng, nâng cao nh ận thức của xã hội về sự cần thiết, tính cấp bách của việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị SNCL, hướng t ới vi ệc cung cấp t ốt hơn dịch vụ cho mọi tầng lớp nhân dân và bảo đảm cho các đối tượng chính sách xã hội và ng ười nghèo đ ược ti ếp c ận, thụ hưởng các dịch vụ cơ bản thiết yếu với chất lượng cao hơn. Với những quyết tâm này và với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính tr ị, vi ệc đ ổi mới cơ chế hoạt đ ộng, cơ chế quản lý tài chính công chính là khâu đột phá để thực hiện chiến lược tài chính quốc gia, góp phần vào s ự phát tri ển b ền vững, bảo đảm an sinh - xã hội của đất nước trong thời gian tới. Chỉ khi quyết liệt trong công tác tri ển khai, th ực hi ện các giải pháp đồng bộ và mạnh mẽ thì việc thực hiện CCTCC mới đạt được mục đích đã đề ra. http://www.baomoi.com/Quyet-liet-thuc-hien-cai-cach-tai-chinh- cong/144/8716121.epi Cải cách quản lý tài chính công - 5 năm nhìn lại (30/11/2011 ) (eFinance Online) - Một hệ thống quản lý lành mạnh, nguồn lực và ngân sách định h ướng theo k ết qu ả được coi là cốt lõi của các chương trình cải cách khác, qua đó đạt đ ược sự nhất quán tổng thể. Giai đoạn vừa qua (2007-2011), cải cách quản lý tài chính công đ ược coi là một trong b ốn n ội dung quan tr ọng c ủa công cuộc cải cách hành chính công của Việt Nam. Những thành tựu tích cực Với mục tiêu nâng cao đóng góp của khu vực công đối với sự tăng tr ưởng kinh t ế và gi ảm nghèo, cùng sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế như WB, JICA (Nhật Bản), USTDA (Hoa Kỳ), Adetef (Pháp), Quỹ MDTF..., công cuộc cải cách đã đạt được nhiều thành tựu đáng k ể, cả trên ph ương di ện hoàn thi ện khuôn khổ thể chế, nâng cao năng lực và hệ thống hạ t ầng thông tin quản lý. Mặc dù, giai đoạn 2007-2011 là giai đoạn khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam khi liên t ục ph ải đ ối mặt với rất nhiều thách thức bất lợi từ môi trường quốc t ế cũng nh ư trong nước, song v ới nh ững n ỗ l ực không ngừng, Bộ Tài chính đã vẫn kiên trì thực hiện các kế hoạch cải cách trong lĩnh v ực quản lý c ủa mình theo kế hoạch đã đề ra. Cho đến nay, Chương trình cải cách quản lý tài chính công đã đ ạt đ ược nhi ều k ết qu ả tích c ực. Trên tám lĩnh vực chủ yếu của tài chính công trong giai đoạn t ừ năm 2007 đ ến 2011 g ồm: cải cách quản lý chi NSNN; cải cách quản lý thuế; hiện đại hoá hải quan; cải cách quản lý nợ công; giám sát thị trường tài chính và phát triển thị trường trái phiếu; cải cách quản lý công sản; cải cách quản lý tài chính doanh nghiệp và cải cách quản lý giá, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của hệ thống tài chính. Về thu NSNN, mặc dù bị chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi t ừ nền kinh t ế th ế gi ới cũng nh ư đi ều ki ện trong nước, hoạt động thu chi NSNN giai đoạn 2007-2011 cũng v ẫn đ ạt đ ược k ết qu ả kh ả quan. Công tác
- quản lý thu đã có nhiều tiến bộ, đáp ứng nhu c ầu chi đ ầu t ư phát tri ển, xây d ựng c ơ s ở h ạ t ầng giao thông thuỷ lợi, đảm bảo kinh phí cho s ự nghi ệp xã h ội, thực hi ện chính sách đ ối v ới ng ười nghèo, góp phần quan trọng ngăn chặn suy giảm kinh tế, góp ph ần duy trì t ốc đ ộ tăng tr ưởng trong b ối c ảnh khủng hoảng kinh tế. Công tác quản lý NSNN đang từng bước được hi ện đại hoá về công nghệ thông tin, h ệ th ống k ế toán, thông tin, báo cáo. Quản lý hành chính thuế, h ải quan đang t ừng b ước h ướng t ới các chu ẩn m ực, quy trình quốc tế với việc triển khai xây dựng hệ thống công ngh ệ thông tin và c ải cách quy trình qu ản lý thu, nộp, cải cách tổ chức bộ máy quản lý một cách đ ồng b ộ. T ừ đó đã h ạn ch ế đ ược m ột cách đáng kể việc thất thoát nguồn thu NSNN. Nợ công vẫn được quản lý chặt chẽ trong phạm vi an toàn. Khuôn kh ổ pháp lý và t ổ ch ức b ộ máy trong lĩnh vực quản lý nợ công đã được hình thành và hi ện đang ti ếp t ục đ ược hoàn thi ện nh ằm c ải thiện tính công khai minh bạch thông tin về nợ công, tăng cường tính hiệu quả và bền vững và hướng tới các thông lệ quốc tế. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ti ếp tục đ ược th ực hi ện tích c ực, các văn b ản h ệ hướng dẫn triển khai sắp xếp doanh nghiệp đã được hình thành t ương đ ối đ ồng b ộ. C ơ ch ế tài chính doanh nghiệp đã từng bước hoàn thiện phù hợp với kinh t ế thị tr ường, th ực hi ện đ ổi m ới ph ương th ức quản lý vốn nhà nước trong đầu tư và kinh doanh. Về quản lý tài sản công: đã bước đầu hình thành khuôn khổ văn bản pháp lý đ ể nâng cao hi ệu qu ả công tác quản lý, sử dụng tài sản công. Đối với lĩnh vực quản lý giá, tiếp tục lộ trình thực hiện c ải ti ến qu ản lý giá theo c ơ ch ế th ị tr ường, gi ảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước. Bước đầu phát tri ển h ệ th ống th ẩm đ ịnh giá tài s ản phù hợp với hệ thống chuẩn mực ASEAN và quốc tế. Riêng trong năm 2011, Bộ Tài chính đã tích cực tri ển khai th ực hi ện 26 ch ương trình, d ự án có tài tr ợ nước ngoài nhằm hỗ trợ cho các nội dung cải cách quản lý tài chính công c ủa Vi ệt Nam. Các đ ầu ra t ừ việc triển khai các chương trình, dự án này đã đóng góp vào ti ến trình c ải cách m ột s ố lĩnh v ực quan trọng của ngành Tài chính. Có thể nói, giai đoạn 2007-2011 đã ghi nhận nhiều chuyển biến tích c ực trong ti ến trình c ải cách qu ản lý tài chính công, đặc biệt là về khuôn khổ pháp lý, cơ s ở h ạ t ầng về thông tin, t ạo ra n ền t ảng c ần thiết cho các bước cải cách trong những năm t ới đây. Trọng tâm những năm tiếp theo Theo lộ trình thực hiện của kế hoạch cải cách quản lý tài chính công năm 2012 và nh ững năm ti ếp theo, các hoạt động cải cách sẽ tiếp t ục được đẩy mạnh. Trước mắt, Bộ Tài chính tập trung hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tài chính giai đo ạn 2011-2020, các k ế ho ạch tài chính ngân sách 5 năm và các Chiến l ược ngành (bên c ạnh 3 chi ến l ược ngành Kho b ạc, Thu ế và Hải quan đã được phê duyệt) để làm cơ s ở tổ chức thực hiện trong toàn ngành Tài chính: Chiến lược Tài chính giai đoạn 2011-2020; Kế hoạch Tài chính ngân sách 2011-2015; K ế ho ạch Tài chính ngân sách 2016-2020; Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đo ạn 2011-2020 và t ầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia giai đoạn 2011-2010; Chi ến l ược phát tri ển th ị trường Bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chi ến lược phát tri ển th ị tr ường Ch ứng khoán Vi ệt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến lược phát triển thị trường vốn t ầm nhìn đ ến 2020. Các nỗ lực của Bộ Tài chính trong lĩnh vực cải cách tài chính công cùng sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế thông qua các chương trình hợp tác và các dự án ODA đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp tích cực cho tiến trình cải cách quản lý tài chính công nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung... Theo taichinhdientu.vn • Các tin khác
- CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Posted on 22/04/2009 by Civillawinfor TS. TRẦN VĂN GIAO Cải cách tài chính công là nhiệm vụ quan trọng của đất nước có liên quan mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, vấn đề đánh giá thực trạng công cuộc cải cách tài chính công ở Việt Nam hiện nay và xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc xây dựng phương hướng, chính sách và giải pháp trong thời gian tới là nhiệm vụ cấp thiết. 1 – Những kết quả đạt được Việt Nam thực hiện cải cách tài chính công chưa được bao lâu, nhưng những kết quả đạt được trong cải cách là rất cơ bản. Hệ thống thuế: Sau gần 8 năm thực hiện cải cách, chính sách thuế đã được đổi mới theo hướng thích ứng dần với cơ chế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thuế đã bảo đảm nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Trong hệ thống chính sách thuế đã từng bước giảm dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu; thủ tục hành chính trong thu nộp thuế được đơn giản hóa, công tác quản lý thuế được đổi mới và dần được hiện đại hóa. Chính sách thuế tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng áp dụng thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp và bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân sách nhà nước: Ngân sách này đã được cơ cấu lại theo hướng giảm các khoản chi bao cấp, tăng dần tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển, tập trung ưu tiên chi cho những nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Công tác quản lý và phân cấp ngân sách đã có những đổi mới cơ bản, nâng cao quyền chủ động và trách nhiệm của các đơn vị, các địa phương và các ngành sử dụng ngân sách; giảm được nhiều khâu, thủ tục không cần thiết trong cấp phát ngân sách, tập trung vào công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính. Bội chi ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và được kiềm chế trong giới hạn cho phép. Giải quyết thành công cơ cấu lại nợ nước ngoài, tỷ lệ nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính bước đầu đã thu được kết quả tích cực. Cơ chế tài chính đối với đơn vị hành chính sự nghiệp: Trên cơ sở phân định rõ các đơn vị hành chính với đơn vị sự nghiệp, tiến hành áp dụng cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ – CP, ngày 17-10-2005 "Quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước" và Nghị định số 43/2006/NĐ – CP, ngày 25-4-2006 "Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập". Tóm lại, cơ chế tài chính đối với khu vực hành chính sự nghiệp được đổi mới về cơ bản theo hướng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính. Cơ chế tài chính trong việc cung cấp dịch vụ công theo hướng khuyến khích các tổ chức kinh tế và nhân dân đầu tư để thực hiện và cung cấp một số dịch vụ công, đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh vực sự nghiệp, thu hút được nguồn nội lực đáng kể cho phát triển sự nghiệp. Cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý tài sản công: Cơ chế này đã được hoàn thiện nhằm tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế – xã hội. Bước đầu đã hình thành hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực quản lý tài sản nhà nước, bao gồm các chế độ, định mức, tiêu chuẩn, vừa tạo thuận lợi cho đơn vị sử dụng, vừa có tác dụng nâng cao kỷ luật, kỷ cương tài chính, tăng cường trách nhiệm các cấp, các ngành, các đơn vị trong quản lý và sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài sản nhà nước, từng bước xác lập chủ sở hữu đích thực về tài sản nhà nước. Hình thành thống nhất tổ chức quản lý tài sản nhà nước từ trung ương đến địa phương. Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Nguồn vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới hàng loạt các dự án quốc gia quy mô lớn trong các lĩnh vực giao thông, điện, thủy lợi, cấp thoát nước, y tế, giáo dục và đào tạo. Đồng thời, vốn ODA cũng được chú trọng hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy sản, sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, lĩnh vực du lịch và dịch vụ, góp phần thúc đẩy sự gia tăng giá trị sản lượng nông nghiệp và tạo ra nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Nhờ vậy, nguồn vốn ODA đã đóng góp tích cực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, giải quyết các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo. Nguồn vốn ODA cho vay lại đối với các doanh nghiệp đã đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư cho các doanh nghiệp, thực hiện đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao đời sống cho người lao động.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Việc gia tăng vốn đầu tư thực hiện thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta đã ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện để các dự án sau khi được cấp phép triển khai có hiệu quả. Trong 2 năm gần đây, cơ cấu đầu tư nước ngoài có chuyển biến tích vượt bậc, đặc biệt là việc gia tăng tỷ trọng đầu tư vào kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành mũi nhọn và một số lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Quản lý nợ nước ngoài: Đã thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại các khoản nợ trước đây của Việt Nam đối với các chủ nợ nước ngoài, làm giảm đáng kể nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam, tạo điều kiện khai thông quan hệ tài chính – tín dụng với các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài. Thực hiện thanh toán trả nợ với các khoản vay mới và các khoản đã cơ cấu lại nợ đã bảo đảm trả nợ đúng như các hiệp định đã ký, không để phát sinh nợ quá hạn. Đã linh hoạt xử lý theo hướng chuyển đổi một phần nợ nước ngoài thành các khoản tài trợ cho các dự án đầu tư trong nước; xử lý giảm số nợ thông qua mua lại nợ, chuyển đổi nợ, giảm nợ… Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách quản lý về vay và trả nợ nước ngoài; tăng cường giám sát về nợ nước ngoài, hợp lý và hiện đại hóa nghiệp vụ quản lý nợ. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện cải cách tài chính công ở Việt Nam còn tiềm ẩn những yếu tố chưa ổn định; chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển còn thấp; nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn, nhưng mức đáp ứng vốn còn hạn chế, nhiều tiềm năng vốn trong nước và vốn nước ngoài chưa được khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng cao, nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng thấp, chưa tương xứng. Quy mô tài chính còn nhỏ, cân đối ngân sách nhà nước chưa thực sự vững chắc, tỷ trọng thuế trực thu còn thấp. Vốn đầu tư thực hiện tăng, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm do tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Cơ cấu đầu tư nước ngoài còn mất cân đối cả về cơ cấu vùng và ngành. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm sút so với các năm trước. Mặc dù, Chính phủ đã áp dụng chính sách ưu đãi, nhưng đầu tư nước ngoài vào các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn chưa đáng kể. Chưa chú ý khai thác vốn thông qua các "kênh" gián tiếp và thông qua thị trường vốn. Phạm vi đánh thuế còn hạn hẹp, hệ thống thuế chưa bao quát hết các nguồn thu nhập, bỏ sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế. Tính dàn trải trong chi ngân sách nhà nước chưa được khắc phục, bao cấp chưa được xóa bỏ triệt để; hiệu quả đầu tư còn thấp; thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách còn nghiêm trọng, chi tiêu hành chính còn nhiều bất hợp lý, chi ngân sách cho một số lĩnh vực nhu cầu chăm lo phát triển con người như giáo dục, y tế chưa đáp ứng nhu cầu cần thiết. Trong nông nghiệp còn nặng về đầu tư thủy lợi (chiếm khoảng 70%) chủ yếu phục vụ trồng lúa; việc đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau như nghiên cứu giống cây con, chuyển giao công nghệ, chế biến để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế. Trong công nghiệp và các ngành kinh tế còn quá chú trọng đầu tư để tăng công suất (số lượng) chưa chú ý đến đầu ra của sản phẩm; công tác quy hoạch ngành còn nhiều hạn chế. Hệ số ICOR những năm 1991 – 1995 khoảng 3,5 (để tăng được 1 đồng GDP cần đầu tư 3,5 đồng), những năm 1996 – 2000 hệ số này là 5 và từ năm 2001 – 2007 là 4,58. Như vậy, trong khi tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng vượt so với mục tiêu Đại hội X đề ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng, nhưng chưa tương xứng với mức đầu tư bỏ ra. Sở dĩ có tồn tại trên là do các nguyên nhân: Thể chế tài chính trong kinh tế thị trường chậm hình thành, hệ thống chính sách, pháp luật về tài chính thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, thậm chí còn mâu thuẫn, nên đã cản trở quá trình vận hành theo cơ chế thị trường, chưa tạo ra hành lang thuận lợi để phát huy hết các tiềm năng và nguồn lực của nền kinh tế. Trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, việc thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư. Việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư nước ngoài cũng như chính sách đối với ô-tô, xe máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách đầu tư nước ngoài của nước ta, đồng thời, cản trở việc quyết định đầu tư của một số dự án, trong đó có những dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao. Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ gặp ách tắc do chủ trương chưa rõ ràng, các vướng mắc trong công tác quy hoạch ngành chưa được tháo gỡ, cản trở các nhà đầu tư. Việc suy giảm đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài. Nhận thức về vai trò của tài chính và thị trường vốn trong việc mở đường, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội còn hạn chế, nên tư duy trong hoạch định chính sách tài chính và phát triển thị trường tài chính chậm đổi mới, thiếu tính đột phá trong hoạch định chính sách. Trong nhận thức còn nặng về tư duy "tài chính phục vụ sản xuất", "tài chính bảo đảm vốn cho mọi hoạt động" dẫn đến người có thẩm
- quyền quyết định đầu tư không gắn với thẩm quyền phân bổ vốn, kết quả là quyết định đầu tư vượt quá khả năng nguồn vốn đầu tư, làm cho vốn đầu tư dàn trải, nợ xây dựng cơ bản lớn, đầu tư kém hiệu quả. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển các ngành kinh tế với chiến lược tài chính, chiến lược thuế… dẫn đến sự chắp vá trong việc hình thành cơ chế, chính sách; đồng thời làm cho chính sách thường xuyên thay đổi, gây mất ổn định trong môi trường đầu tư. Công tác phân tích dự báo chưa được coi trọng đúng mức khi nghiên cứu hoạch định chính sách, dẫn đến thường xuyên phải bổ sung, sửa đổi, tạo ra sự không đồng bộ, không nhất quán. Tư tưởng bao cấp, tâm lý muốn được Nhà nước bảo hộ còn nặng nề; thói quen và dấu ấn quản lý theo kiểu cũ vẫn tồn tại và không dễ xóa bỏ đã gây cản trở không nhỏ cho quá trình đổi mới trong lĩnh vực tài chính. Các doanh nghiệp còn có tư tưởng trông chờ vào nguồn tín dụng ưu đãi, không muốn huy động trên thị trường vốn. Trong quản lý còn nặng về tư tưởng "xin – cho". Chẳng hạn, trong xây dựng cơ bản xuất hiện tình trạng "xin – cho" trong việc bố trí vốn đầu tư, bổ sung vốn kế hoạch hằng năm, ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế… ; không những xin cho về cơ chế, mà còn xin nới lỏng cơ chế (như xin kéo dài, châm chước các thủ tục đầu tư hoặc xin những "vận dụng" trái nguyên tắc). Chưa kiên quyết trong việc đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm tiến trình cổ phần hóa chậm so với kế hoạch, nhất là các doanh nghiệp nhà nước lớn, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực, đặc biệt là làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chưa kiên quyết trong việc chuyển nhanh các đơn vị sự nghiệp sang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Triển khai thực hiện cải cách hành chính trong ngành tài chính tiến triển chậm, công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực quản lý trong các lĩnh vực tài chính đã được tăng cường, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn. 2 – Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tài chính công trong thời gian tới Xu hướng chung hiện nay, các nước trên thế giới đang thúc đẩy một cách mạnh mẽ cải cách hoạt động tài chính công. Có nhiều lý do, song chủ yếu vẫn là: Xét ở góc độ vật chất, tài chính công là một phần của cải của xã hội dưới hình thức giá trị được giao cho khu vực công sử dụng. Trên thực tế hiện nay, đa phần nguồn của cải đó đang bị khu vực công sử dụng chưa được hiệu quả như mong muốn, trong khi nguồn lực của đất nước có hạn. Ở nhiều góc độ, hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nếu hoạt động của tài chính công được triển khai theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế cải cách hành chính, đáp ứng với những đòi hỏi hợp lý của các lực lượng thị trường sẽ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ngược lại, nếu hoạt động của tài chính công không hiệu quả, không thích ứng với bối cảnh kinh tế, xã hội mới, thì sẽ là lực cản cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Cải cách hoạt động tài chính công là xu hướng phổ biến của các nước có liên quan mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và là yêu cầu bắt buộc đối với các nước khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Cải cách tài chính công ở nước ta cần phải vừa góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa phù hợp với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã hơn 20 năm đổi mới, nhưng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhiều hoạt động của nền kinh tế rất có thể "nhân danh" vì lợi ích chung, vì thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước mà tài chính công bị lợi dụng và lạm dụng. Vì thế, để đổi mới tài chính công có hiệu quả, cần nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Cải cách phải phù hợp với yêu cầu mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở cửa và hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế. Điều đó đòi hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách tài chính công sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Trên cơ sở đó, những mục tiêu cần phải đạt được trong thời gian tới là: - Bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực công. Các khoản chi tài chính của khu vực công đa phần là do ngân sách nhà nước đảm nhận, có đặc điểm không hoàn trả trực tiếp, không có tính chất ngang giá, lại có phạm vi rộng, khối lượng chi lớn. Thực tế của các nước cho thấy các khoản chi này hiệu quả thấp, lãng phí còn lớn. Vì vậy, cần coi trọng và thực hiện bằng được mục tiêu tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi của khu vực công trong quá trình cải cách, đổi mới tài chính công. - Cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn (trung thực, minh bạch, gần dân hơn, không cửa quyền, không tham nhũng) chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước. Hoạt động của tài chính công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực tài chính cho bộ máy công quyền hoạt động, mà điều quan trọng là phải thông qua hoạt động tài chính công để có tác động mạnh mẽ đến việc điều
- chỉnh tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động bộ máy. Vì vậy, gắn việc cải cách đổi mới tài chính công với bộ máy trong sạch vững mạnh được coi là một trong những mục tiêu quan trọng của cải cách, đổi mới tài chính công. - Thông qua cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải bảo đảm cho việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn. Ngày nay, đa phần các nguồn lực của tài chính công đều được sử dụng cho việc sản xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng. Hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đều do bộ máy công quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ máy công quyền thiếu trung thực, không minh bạch, nạn tham nhũng diễn ra tràn lan, thì việc sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng khó đạt được yêu cầu công bằng và hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là việc cải cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải hướng vào mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả. Tài chính công có cấu trúc đa dạng bao gồm nhiều thành phần như đã đề cập ở phần trên. Hoạt động của tài chính công thực chất là hoạt động của các thành phần của tài chính công. Do đó, nội dung đổi mới, cải cách tài chính công là đổi mới thu – chi ngân sách nhà nước, đổi mới hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước, đổi mới tài chính của các cơ quan công quyền, các đơn vị sự nghiệp công lập… - Đối với thu – chi ngân sách nhà nước nội dung đổi mới bao gồm đổi mới chính sách, cơ chế, quy trình làm thay đổi căn bản cách thức thu – chi ngân sách nhà nước, bảo đảm ngân sách nhà nước thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Đối với hoạt động các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nội dung đổi mới là gia tăng tỷ trọng huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi của xã hội trên cơ sở bảo đảm tính hợp pháp của số lượng các quỹ và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. - Đối với tài chính của các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập, nội dung đổi mới là tập trung nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn việc đổi mới với công cuộc cải cách hành chính và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả. Trên cơ sở những mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra đối với cải cách tài chính công trong thời gian tới là: - Tiếp tục cải cách thuế cho phù hợp với tình hình đất nước; yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với và các cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Cơ cấu lại nguồn thu, khắc phục tình trạng hạn hẹp trong phạm vi đánh thuế gây ra bỏ sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế, đáp ứng yêu cầu động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước. Hiện đại hóa công tác thu thuế và đổi mới quản lý thu thuế. - Cần tiếp tục hoàn thiện phân cấp ngân sách bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và các ngành trong việc quản lý tài chính và ngân sách đã được phân cấp. - Khắc phục tính dàn trải trong chi ngân sách nhà nước và cơ cấu lại hợp lý các khoản chi ngân sách, bảo đảm tính hiệu quả và công bằng trong chi tiêu ngân sách nhà nước. Cân đối ngân sách một cách tích cực. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực hiện dự án. - Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị hành chính và sự nghiệp theo Nghị định số 130/2005/NĐ – CP và Nghị định số 43/2006/NĐ – CP của Chính phủ đã ban hành. - Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu để trình Quốc hội thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài sản; nó là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. - Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; đặc biệt là cơ chế quản lý vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước. - Nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng tài chính công. - Quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý tài chính công của cấp đó. - Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản lý tài chính công./. SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 11 (155) NĂM 2008 Trích dẫn từ: http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&News_id=9642456
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cải cách tài chính công thực trạng và giải pháp
8 p | 1273 | 427
-
50 khuyến nghị về cải cách hành chính nhà nước
15 p | 576 | 294
-
Tài liệu bồ dưỡng ngạnh chuyên viên và tương đương - Chuyên đề 8: Cải cách hành chính nhà nước
17 p | 186 | 31
-
Bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách hành chính tại Trung Quốc
17 p | 184 | 23
-
Cải cách hành chính tại tỉnh Đồng Tháp và bài học kinh nghiệm cho các địa phương khác
7 p | 61 | 14
-
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp trong công tác cải cách hành chính tại tỉnh Hải Dương
13 p | 22 | 12
-
Cải cách hành chính tạo ra môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh phát triển
6 p | 66 | 9
-
Phương hướng cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - Xã hội tại Việt Nam trong giai đoạn mới
7 p | 105 | 9
-
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NĂM 2012
11 p | 93 | 9
-
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thông qua mô hình một cửa điện tử tạo động lực phát triển thành phố Thủ Đức - thực trạng và một số giải pháp
13 p | 15 | 8
-
Công tác cải cách hành chính nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
7 p | 52 | 7
-
Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ hành chính công đến sự hài lòng của người dân tại Quảng Bình - tiếp cận từ mô hình cấu trúc tuyến tính (PLS-SEM)
18 p | 13 | 6
-
Cải cách hành chính ở cấp huyện tại Thành phố Hà Nội
15 p | 63 | 5
-
Lâm Đồng đẩy mạnh cải cách hành chính
5 p | 65 | 5
-
Cải cách thể chế hành chính trong bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
10 p | 66 | 5
-
Phân tích môi trường đầu tư tỉnh Thái Nguyên từ góc độ cải cách thủ tục hành chính
7 p | 76 | 5
-
Đề cương chi tiết học phần Cải cách hành chính
10 p | 9 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn