Đề bài: Cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính<br />
Bài làm<br />
Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ đồng nội, ghi dấu ấn trong lòng độc giả bằng <br />
phong cách nhẹ nhàng, bình dị, đậm chất thôn quê. Bài thơ Tương tư trích trong tập “Lỡ <br />
bước sang ngang” của ông thể hiện nỗi niềm tâm sự riêng tư của một người trót nhớ <br />
thương khắc khoải về một người.<br />
“Tương tư” chắc chắn không phải là cái tên được tác giả lựa chọn một cách ngẫu nhiên. <br />
Nó là một cái tên đủ để toát lên toàn bộ nỗi niềm ẩn chứa bên trong từng câu chữ. Tương <br />
tư chính là cảm giác nhớ thương khắc khoải, chờ mong hồi đáp của một kẻ đang yêu <br />
thương cuồng nhiệt, nhưng đáng tiếc lại là tình đơn phương. Tâm chân tình của kẻ yêu <br />
đơn phương ấy được dồn nén, được ấp ủ và cũng được bộc lộ qua từng vần thơ chân <br />
thành, mộc mạc:<br />
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông<br />
Một người chín nhớ mười mong một người”<br />
Hai câu thơ đơn giản như vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thôn quê yên bình, đơn <br />
sơ đến lạ. Tác giả mượn “thôn Đoài”, “thôn Đông”, thông qua thủ pháp nhân hóa được sử <br />
dụng tài tình để thổ lộ nỗi nhớ nhung ẩn sâu tận đáy lòng. Ta như nhìn thấy một người <br />
giữa tuổi thanh xuân phơi phới, đứng ở thôn này mà hướng mắt xa xăm về phía thôn bên, <br />
những mong có thể nhìn thấy bóng hình mà mình thầm thương trộm nhớ.<br />
“Nắng mưa là bệnh của giời<br />
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”<br />
Câu chuyện nắng mưa của thiên nhiên đã được tác giả sử dụng thật tài tình để nói lên <br />
tấm lòng của mình. Nỗi tương tư về một ai đó, giống như căn bệnh trầm kha tồn tại sâu <br />
trong tâm hồn và nó là chuyện bình thường, là lẽ dĩ nhiên phải thế giống như quy luật của <br />
đất trời. Chỉ với bốn câu thơ mở màn rất đơn giản, tác giả đã thành công trong việc khơi <br />
dậy sự thích thú của người đọc trước mối tình bình dị mà cuồng nhiệt của chàng trai thôn <br />
Đoài với cô gái thông Đông.<br />
Tuy nhiên, ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được nỗi giận hờn, trách <br />
móc nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng của chàng trai trước sự hững hờ từ phía <br />
cô gái:<br />
“Hai thôn chung lại một làng,<br />
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?<br />
Ngày qua ngày lại qua ngày,<br />
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.<br />
Bảo rằng cách trở đò giang,<br />
Không sang là chẳng đường sang đã đành.<br />
Những đây cách một đầu đình,<br />
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?<br />
Tương tư thức mấy đêm rồi,<br />
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?<br />
Bao giờ bến mới gặp đò?<br />
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?<br />
Những câu hỏi nối tiếp nhau dồn dập như lột tả trọn vẹn nỗi lo lắng, bối rối chất chồng <br />
đang thổn thức trong lòng của chàng trai đang yêu. Chàng trai bối rối và cũng giận hờn khi <br />
dường như cô gái cứ hững hờ, vờ không biết tới tình cảm của chàng trai.<br />
Giọng điệu của mỗi câu thơ đều uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai <br />
đang muốn gửi gắm thông điệp tình cảm của mình tới cô gái. Từ “cớ sao” được sử dụng <br />
khiến lời trách móc của chàng trai trở nên tế nhị và đáng yêu hơn, đồng thời nó cũng như <br />
một lời “gợi ý” cho cô gái. Suốt bao đêm tương tư, chàng trai ấy chỉ có một niềm mong <br />
mỏi là “bến” được gặp “đò”, “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”, mong mỏi cô gái <br />
ấy sẽ hiểu cho nỗi lòng của mình.<br />
Và rồi trong cái tâm trạng rối bời vì chờ mong khắc khoải ấy, chàng trai lại tự hỏi:<br />
“Nhà em có một giàn giầu,<br />
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.<br />
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,<br />
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”<br />
Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay <br />
động trở nên to lớn hơn. “Giàn trầu”, “hàng cau” lại được tác giả “mượn” để diễn tả nỗi <br />
nhớ thương da diết của chàng trai, giống như dây trầu quấn lấy thân cau, như sự “không <br />
thể thiếu nhau” của trầu cau trong văn hóa dân gian.<br />
Nhưng bên cạnh sự mộc mạc ấy, việc tác giả thay đổi cách xưng hô một cách táo bạo, từ <br />
“tôi với nàng” thành “anh với em” thể hiện tình cảm đó dường như đã quá lớn, quá sâu <br />
đậm, thôi thúc chàng trai trực tiếp thổ lộ nỗi lòng với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài <br />
thơ có sự bình dị, trong sáng, nhưng cũng có sự chân thành, mãnh liệt.<br />
Có thể nói, nỗi tương tư vốn rất quen thuộc đã được Nguyễn Bính “nghệ thuật hóa” một <br />
cách tài tình thông qua ngòi bút xuất thần và thông qua tứ thơ bình dị, mộc mạc.<br />