Cảm nhận khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử
lượt xem 14
download
Qua khổ thơ thứ hai trong bài "Đây thôn Vĩ dạ" mang đến cho bạn đọc cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, ai mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào. Mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảm nhận khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử
VĂN MẪU LỚP 11 CẢM NHẬN KHỔ THƠ THỨ 2 TRONG BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ BÀI MẪU SỐ 1: Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng của thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng: Gió theo lối gió mấy đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có trở trăng về kịp tối nay. Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lí nhưng ngẫm kĩ đó lại là sản phẩm của ngòi bút xuất thần. Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà nhu mây đứng yên. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho sứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc dải ánh vàng trên sông. Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễn thấy đây là những vần thơ dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ. Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiêm là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm sự, dãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường nhủ chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái: “Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia li cách biệt. Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi. Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay sự chia lìa, li tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm trong lòng của thi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lí giải một cách rõ ràng được. Chỉ thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng ma da diết, khắc khoải mà khôn nguôi. Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi buồn trong câu ca dao: Ai về Rồng Dứa, ao Chuông Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông hoa bắp cô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Động thái “lay” như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ. Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng, và cũng chỉ có chăng mà thôi: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có trở trăng về kịp tối nay Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc” nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử. Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, trànn ngập hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri kỉ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng. Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiế. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ., ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào. Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa: Một mai kia ở bên khe nước ngọc Với sao sương anh nằm chết như trăng Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc Đến thương anh và rửa vết thương tâm. Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ- xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm BÀI MẪU SỐ 2: Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ trở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với khổ thơ thứ hai vì nó mang đầy bi kịch mang bao nỗi buồn Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát. Trước Hoàng Cúc cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn. Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ một cách tự nhiên. Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng nhất, buồn nhất bi kịch nhất Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đên sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn cách: “Gió theo lối gió, mây đường mây” Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người cảnh vật nơi đây được nữa. Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của hàn Mạc Tử được Nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để tìm sự hi vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” “ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng, càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn. Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông. Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng lại không vui vì hiện thực này. Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần nữa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ. Thế nhưng con thuyền kia chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy. Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này! Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này: “Có chở trăng về kịp tối nay?” Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ “kịp” chính là từ mang đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo án tuần 10 bài Chính tả (Nghe viết): Ông và cháu. c/k, l/n - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 450 | 46
-
Giáo án tuần 12 bài Tập đọc: Mẹ - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 1071 | 44
-
Giáo án tuần 19 bài Tập đọc: Thư Trung thu - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 517 | 37
-
Giáo án tuần 6 bài Tập đọc: Mua kính - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 347 | 35
-
Bài 15: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Giáo án Ngữ văn 8
12 p | 541 | 35
-
Tổng hợp 2 bài phân tích khổ thơ thứ hai trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
5 p | 842 | 34
-
Bài 10: Cảm nghĩ trong đêm thanh tịnh (Tĩnh dạ tứ) - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 727 | 30
-
Giáo án tuần 4 bài Tập đọc: Mít làm thơ (tiếp theo) - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 364 | 28
-
Giáo án tuần 4 bài Tập đọc: Trên chiếc bè - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 515 | 24
-
Cảm nhận (phân tích) đoạn thơ thứ hai trong bài "Tây Tiến"
4 p | 249 | 20
-
Giáo án tuần 10 bài Tập đọc: Thương ông - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 270 | 16
-
Phân tích khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
5 p | 394 | 11
-
Phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
15 p | 302 | 8
-
Bài 9: Cách lập ý của bài văn biểu cảm - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 284 | 6
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa... Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
4 p | 140 | 5
-
Cảm nhận và phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến
3 p | 67 | 3
-
Bài giảng môn Tiếng Việt lớp 2 năm học 2020-2021 - Tuần 19: Tập đọc Thư Trung thu (Trường Tiểu học Thạch Bàn B)
11 p | 16 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn