Đề bài: Cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng Vợ nhặt liên hệ với tâm trạng Chí Phèo<br />
<br />
Hướng dẫn Dàn ý chi tiết<br />
<br />
I. Mở bài: <br />
<br />
Nêu vấn đề của đề bài<br />
<br />
Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân và tác phẩm “Vợ Nhặt”; giới thiệu khái quát về nhân vật <br />
Tràng trong tác phẩm (đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích của đề bài).<br />
<br />
Từ đoạn trích trên, giúp liên hệ đến tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở trong tác phẩm <br />
“Chí Phèo” của Nam Cao (Ngữ văn 11).<br />
<br />
Qua việc khắc họa 2 nhân vật; ta thấy được sự thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật miêu tả <br />
tâm lí nhân vật.<br />
<br />
II. Thân bài: <br />
<br />
Triển khai vấn đề<br />
<br />
1. Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng<br />
<br />
Tràng sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện: thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong <br />
giấc mơ đi ra”, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất ngờ.<br />
<br />
Tràng nhận ra sự thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”: “Nhà <br />
cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như <br />
tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để <br />
khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp”, bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, <br />
nấu nướng. Tất cả những cảnh tượng đó thật bình thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa <br />
bao giờ Tràng được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế.<br />
<br />
Tràng có sự thay đổi trong suy nghĩ: yêu thương, gắn bó với gia đình; thấy có trách nhiệm phải lo <br />
lắng cho vợ con; và ngời lên niềm tin vào tương lai tươi sáng. Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên <br />
thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng thành (“nên người”) và cần có trách nhiệm với gia đình của <br />
mình:<br />
<br />
“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. <br />
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui <br />
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng ”. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi <br />
sáng đầu tiên ấy, hắn đã được tắm mình trong không khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.<br />
<br />
=> Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách; Miêu tả <br />
tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo <br />
của nhà văn. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc...<br />
<br />
2. Liên hệ tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở để thấy sự thành công của hai nhà văn <br />
trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật<br />
<br />
Tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở được thể hiện tập trung trong buổi sáng tỉnh <br />
rượu của Chí. Nam Cao khắc họa rất thành công chuỗi diễn biến tâm lí của Chí Phèo:<br />
<br />
+ Cảm nhận cuộc sống đời thường (lần đầu tiên sau một cơn say dài, Chí cảm nhận được những <br />
hình ảnh quen thuộc và lắng nghe rõ nhất những âm thanh cuộc sống xung quanh mình);<br />
<br />
+ Hắn nhớ lại quá khứ xa xôi, thấm thía cuộc sống hiện tại, lo lắng cho tương lai cô độc, buồn tủi;<br />
<br />
+ Khi được Thị Nở cho ăn cháo hành thì hắn ngạc nhiên, cảm động, ăn năn hối hận, tủi thân khi lần <br />
đầu tiên được cho bởi một người đàn bà; rồi hắn vui, khao khát được trở lại cuộc đời lương thiện, hi <br />
vọng, tin tưởng được trở lại cuộc đời hoàn lương.<br />
<br />
Điểm giống nhau:<br />
<br />
+ Cả Nam Cao và Kim Lân đều rất quan tâm đến đời sống tâm hồn của những người lao động nghèo <br />
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hai nhà văn đều mô tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn <br />
biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở thời điểm buổi sáng – gắn liền với sự thức tỉnh/ đổi thay của <br />
mỗi nhân vật – thông qua cảm xúc và dòng ý nghĩ.<br />
<br />
+ Có khi các nhà văn khách quan kể lại diễn biến đó nhưng cũng có khi Nam Cao và Kim Lân nhập <br />
thân vào nhân vật, trần thuật lại diễn biến tâm trạng thông qua lời văn nửa trực tiếp. Tài năng miêu <br />
tả tâm lí nhân vật của mỗi nhà văn không chỉ giúp cho các nhân vật nổi hình nổi sắc mà còn giúp các <br />
nhà văn thể hiện sâu sắc tình cảm nhân đạo của mình.<br />
<br />
Điểm khác nhau:<br />
<br />
+ Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau buổi sáng gặp Thị Nở, ta thấy đó là tâm trạng của con <br />
người đang đứng trước bi kịch của đời mình; Chí Phèo “lần đầu tiên thức tỉnh” sau một cơn say dài <br />
nhận thức sự bần cùng hóa dẫn đến tha hóa, lưu manh hóa của bản thân và khát khao muốn quay lại <br />
cuộc sống lương thiện; qua đó nhà văn Nam Cao thể hiện tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của <br />
người nông dân trước cách mạng.<br />
<br />
+ Trong đoạn trích của “Vợ nhặt”, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim Lân đã phát hiện <br />
ra sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành động của nhân vật Tràng. Nó không <br />
phải quá đột ngột bất ngờ mà nó là một lát cắt trong chuỗi diễn biến tâm trạng đầy ngạc nhiên, có <br />
sự thay đổi dần dần của Tràng từ lúc “nhặt” được vợ cho đến cuối truyện.<br />
<br />
=> Qua đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, ca ngợi người nông dân dù trong hoàn cảnh hết sức bi đát <br />
vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhân vật Chí Phèo tuy thức tỉnh để khao khát hoàn <br />
lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, còn nhân vật Tràng cuối cùng đã <br />
được đổi đời, tìm thấy hạnh phúc đích thực của cuộc đời…<br />
<br />
III. Kết bài:<br />
<br />
Đánh giá khái quát vấn đề: Qua hai đoạn trích đều thể hiện tài năng khắc họa nghệ thuật miêu tả <br />
tâm lí nhân vật của hai nhà văn; qua đó cũng góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.<br />
<br />
Bài văn cảm nhận hay về tâm trạng nhân vật Tràng sau khi lấy Thị về làm vợ<br />
<br />
“Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “ Xóm ngụ cư” của nhà văn Kim Lân. Câu <br />
truyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại <br />
có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, <br />
Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này.<br />
<br />
Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất nước ta có đến 2 <br />
triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt <br />
dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân. Hậu <br />
quả là đến cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. <br />
Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kỳ lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát <br />
tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người lao động Việt <br />
Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.<br />
<br />
Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai nghèo khổ. Nghèo đến tột cùng cái <br />
nghèo đấy được thể hiện qua “chiếc áo nâu tang”, ngôi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh <br />
vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. Đến cái tên của hắn <br />
cũng thể hiện sự thô kệch nghèo khó. Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một <br />
cách rất sống động: "hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. Bộ mặt <br />
thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc…Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như <br />
một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu <br />
xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm <br />
than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”.<br />
<br />
Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không ai có thể hình <br />
dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ <br />
trên đường đi đẩy xe bò chở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông <br />
đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ huyện.<br />
<br />
Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được <br />
vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê bai: ”chao ôi, thời buổi nào còn rước <br />
cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?”. Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ <br />
“Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt <br />
sáng lấp lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.<br />
<br />
Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong <br />
người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét <br />
sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn <br />
một cách lạ lùng. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái <br />
nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng <br />
lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo <br />
lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ <br />
trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất <br />
ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.<br />
<br />
Thông qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. <br />
Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị dậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. <br />
Cùng lối kể truyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. <br />
Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ <br />
ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo <br />
lồng ghép vào trong tác phẩm. <br />
<br />
Bài văn liên hệ nhân vật Tràng với Chí Phèo ấn tượng của nam sinh Vũng Tàu<br />
Tôi định viết một số truyện ngắn những ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết <br />
mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn <br />
khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn <br />
muốn sống, sống cho ra người”. Đây là lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt – nhà văn <br />
Kim Lân – người một lòng đi về với vẻ đẹp thuần hậu nguyên thủy làng quê khuất lấp sau dãy tre <br />
làng. Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc không chỉ bởi <br />
thông điệp giàu ý nghĩa mà còn bởi giá trị tinh thần và giá trị giáo dục giàu có của thiên truyện này. <br />
Truyện được lấy cảm hứng và viết từ nạn đói năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khi hòa <br />
bình lập lại (1954), ông dựa vào cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu <br />
xí.<br />
<br />
Cốt truyện xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và Thị – người vợ nhặt (vợ <br />
Tràng). Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nông dân trong nạn đói năm ấy, khốn <br />
khổ, đói rách. Hoàn cảnh nạn đói ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngoại hình và tính cách của họ. Tuy <br />
nhiên, được sống trong tình thương của gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn <br />
trong họ mới lộ thiên.<br />
<br />
Cùng với người vợ nhặt, nhân vật Tràng là một con người với hai phương diện tính cách đối lập như <br />
thế khi được sống trong những hoàn cảnh khác nhau “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại <br />
đầy khát khao và tốt bụng”. “Nông nổi” là bồng bột, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, <br />
“liều lĩnh” là hành động mà không nghĩ đến hậu quả tai hại có thể xảy ra. “Khao khát” là muốn có <br />
một cuộc sống hạnh phúc như bao người, “tốt bụng” có lòng tốt, thương người và sẵn sàng giúp đỡ <br />
người khác. Đó là hai mặt tính cách đối lập do hoàn cảnh sống tạo ra. Tuy hai tính cách có đối lập <br />
nhau nhưng chúng lại bổ sung cho nhau để hoàn thiện nhân vật Tràng trong tác phẩm.<br />
<br />
Tràng là dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, họ phải tha hương cầu thực nơi đất <br />
khách quê người. Ở đây, để tồn tại, họ phải bưng mặt đi làm thuê, làm mướn cho những người có <br />
quyền thế, có tiền của. Họ còn phải chịu cái nhìn ghẻ lạnh, khinh miệt từ người dân địa phương. <br />
Tràng làm nghề đẩy xe thóc thuê cho Liên đoàn Nhật. Một nghề bấp bênh, ngắn hạn không ổn định. <br />
Tràng sống cùng người mẹ già trong một ngôi nhà “rúm ró” nằm trong một mảnh vườn mọc lổn <br />
nhổn những búi cỏ dại, xiêu vẹo, tối tăm, sống đời “mẹ quá, con côi” cơ cực cùng bà mẹ già.<br />
<br />
Trong cái nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, thiếu ăn đến độ phải ăn rễ cây mà <br />
sống, có được bát cháo cám mà húp thôi đã là một ân huệ rất lớn. Gia đình Tràng cũng chẳng ngoại <br />
lệ, cuộc sống bấp bênh khi tương lai của mình còn lo chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”. Thế <br />
nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người đàn bà xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng <br />
đãi người đàn bà ấy bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,… Thế thì có <br />
nông nỗi không?<br />
<br />
Không chỉ thế, trong tình cảnh “đến cái thân mình còn lo chưa xong” mà Tràng lại dẫn Thị về nhà, <br />
thêm một miệng ăn là thêm một “cơ hội” chết đói. Tính mạng mình mà cũng không màng, thế có <br />
phải là liều lĩnh không? Lý giải cho hành động nông nỗi, liều lĩnh này, phải kể đến tài năng của nhà <br />
văn Kim Lân.<br />
<br />
Kim Lân đã rất thành công trong việc phác họa được một anh nông dân đúng bản chất khù khờ, hiền <br />
lành và chất phác. Nếu hiểu Tràng là người đầy khát khao và tốt bụng thì chẳng có gì nhân văn cả. <br />
Vậy Tràng bao dung, thương người ? Chính cái tính hồn nhiên, vô tư ấy là bước đệm, là nền tảng <br />
tạo dựng hạnh phúc cho Tràng sau này. Cái tính tốt bụng bắt đầu từ khi gặp người đàn bà xa lạ, khi <br />
chưa có danh phận gì với nhau cả, chỉ là người lạ gặp qua đường. Anh đã cho đi, để rồi anh đã nhận <br />
lại thứ quý giá nhiều hơn thế.<br />
<br />
Tràng tốt bụng nhưng khao khát có vợ của Tràng rất mãnh liệt, dẫu trong vài chi tiết hé lộ khá kín <br />
đáo, nhà văn đã cho bạn đọc thấy được điều đó: Trong lần thứ nhất, Tràng đẩy xe bò lên tỉnh gặp <br />
Thị, Tràng hò một câu tưởng tình cờ cho đỡ mệt nhưng thật ra lại đầy tình ý:<br />
<br />
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này<br />
<br />
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì<br />
<br />
Khi Thị nhận lời, Tràng thích lắm. “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với <br />
hắn tình tứ như thế”. Rồi cả trong câu nói vu vơ nhưng đầy tình thương và thành ý: “Này nói đùa <br />
chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.<br />
<br />
Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với bạn đọc điều gì qua khát vọng hạnh phúc gia đình của Tràng <br />
? Là dù trong hoàn cảnh nghèo đói cơ cực hay thậm chí là cái chết đang chờ đón trước mắt thì khao <br />
khát hạnh phúc của con người vẫn luôn dạt dào, mãnh liệt. Tình người, hạnh phúc luôn mang đến <br />
những điều kỳ diệu, tươi đẹp cho cuộc sống để con người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn <br />
trong những ngày cằn cỗi, khắc nghiệt. Chính điều đó đã làm cái vẻ xấu xí, thô kệch của Tràng bị <br />
lấn át bởi vẻ đẹp tỏa sáng tự bên trong.<br />
<br />
Những ấn tượng còn lại về Tràng: Anh là một con người bao dung, ấm áp và đầy tình yêu thương. <br />
Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi <br />
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại <br />
rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. <br />
Và nghĩ về tương lai tươi sáng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che <br />
nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn <br />
nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.<br />
<br />
Cuối tác phẩm, Tràng nghĩ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” làm người đọc hình dung <br />
ra rằng khát khao hạnh phúc mãnh liệt tương lai tươi sáng vẫn đang bùng cháy le lói trong tâm hồn <br />
của Tràng. Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông dân được chắt lọc kỹ lưỡng giàu sức <br />
gợi, xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lý nhân vật hấp dẫn sinh động. Nhà văn Kim <br />
Lân đã xây dựng thành công nhân vật Tràng: “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng vừa lại đầy <br />
khát khao và tốt bụng” như ý kiến ở đề bài đã đánh giá.<br />
<br />
Cùng viết về đề tài người nông dân nghèo vùng nông thôn, phải chịu nhiều thiệt thòi, sống cơ cực, <br />
lầm than dưới chế độ phong kiến, thực dân, Nam Cao đã gây được tiếng vang lớn với hình tượng <br />
điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ra đời năm 1941, tức trước Cách mạng tháng Tám năm <br />
1945.<br />
<br />
Chí là một người hiền hậu, chất phác được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng ước mơ có một <br />
cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho nhỏi, chồng cày thuê, vợ dệt vải”. Chỉ vì <br />
cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng lãnh đạo mà đứa con tinh thần của tác phẩm <br />
đã bị chà đạp không thương tiếc. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bần cùng dẫn <br />
đến lưu manh hóa – quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng. Còn Tràng lại tiêu biểu <br />
cho người nông dân vùng nông thôn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Nhìn chung, số <br />
phận của Chí Phèo đáng thương, đau khổ hơn Tràng: bị cự tuyệt quyền làm người.<br />
<br />
Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng, <br />
khuynh hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là <br />
yếu tố quyết định đến sự khác nhau trong số phận của hai người nông dân này.<br />
<br />
Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc số phận và cuộc đời <br />
người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Không phải vậy mà Chí Phèo với bản chất vốn <br />
lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm <br />
người… lương thiện.<br />
Còn với Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm được viết <br />
lại vào năm 1955, tức sau Cách mạng tháng Tám. Văn học thời kỳ này phải gắn liền và phục sự cho <br />
sự nghiệp cách mạng. Do vậy, số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng có <br />
nhiều điểm khác biệt: Có lối thoát với kết thúc có hậu.<br />
<br />
Với Tràng, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một người nông dân với những nét phẩm chất, tính <br />
cách, trí tuệ, ngôn ngữ tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng <br />
được một nhân vật điển hình cho một tầng lớp của xã hội. Đặc biệt, thông qua hai nhân vật này, <br />
người đọc cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp <br />
con người của hai nhà văn.<br />
<br />
(Bài làm của bạn Lâm Ngọc Tú, THPT Lê Quý Đôn, TP Bà Rịa – Vũng Tàu)<br />
<br />
VnDoc xin giới thiệu tới các em bài Cảm nhân tâm trạng của nhân vật Tràng liên hệ tâm trạng Chí <br />
Phèo. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích hỗ trợ các em trong quá trình ôn tập và đạt kết quả cao. Mời <br />
các em tham khảo thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 12<br />