Đề bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác phẩm <br />
"Vợ nhặt"<br />
<br />
Bài làm 1<br />
<br />
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy <br />
bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm <br />
toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người <br />
người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật <br />
"bà cụ Tứ" mẹ anh Tràng người "nhặt vợ".<br />
<br />
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng", kẽ mắt <br />
"lèm nhèm ","khuôn mặt bủng beo, u ám ". Những hành động cử chỉ của cụ "nhấp nháy <br />
hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật:, "lễ mễ" cũng thể hiện cụ là <br />
một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn <br />
cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng".<br />
<br />
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, <br />
nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm <br />
hồn, tính cách.<br />
<br />
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ <br />
thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình". <br />
Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc <br />
sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói <br />
này không". Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị <br />
nghĩ :"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình <br />
mới có vợ được". Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu <br />
hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình <br />
khi có con dâu mới. Điều đó chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu <br />
thương còn thể hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu <br />
mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai <br />
khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa <br />
thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó ba đời, <br />
hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc <br />
này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa <br />
con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ" xăm xắn quét tước nhà <br />
cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết <br />
lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng <br />
trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.<br />
<br />
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan <br />
của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai <br />
thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó <br />
ba đời lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù <br />
cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa <br />
trời"này lại là người nói về tương lai nhiều nhất" cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung <br />
sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là <br />
ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh <br />
khác hẳn ngày thường". Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm <br />
sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con <br />
trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường <br />
ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh <br />
tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ <br />
những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đấy mày ạ, hì. <br />
Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, <br />
ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên <br />
mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, <br />
nồi cháo cám "chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tấm <br />
lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự <br />
tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của <br />
cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con <br />
người nghèo khổ cất cánh lên được.<br />
<br />
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân thật và <br />
cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân <br />
vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, <br />
qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm <br />
lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của <br />
mẹ Dần, vợ chồng Dần (Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, <br />
hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm <br />
thiết tha trìu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân <br />
dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính <br />
những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng <br />
bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn <br />
muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề <br />
cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu <br />
thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một <br />
tia hy vọng mong manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật <br />
bà cụ Tứ.<br />
<br />
Bài làm 2<br />
<br />
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ <br />
mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc <br />
hơn . Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân <br />
muốn khắc họa số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện <br />
sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Sau <br />
tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành người <br />
khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt <br />
đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo <br />
lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.<br />
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể <br />
mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm <br />
bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại <br />
dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ <br />
“lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp <br />
phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi <br />
thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng <br />
loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường <br />
thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u ?”. <br />
Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một <br />
người vợ! Băn khoăn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót <br />
thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta <br />
dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những <br />
dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên <br />
đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới <br />
phải”, nhưng "nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện <br />
được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn <br />
đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa <br />
mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực <br />
nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này <br />
không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng <br />
chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai <br />
giàu ba họ, ai khó ba đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải vừa lo <br />
lắng, vừa thương xót; “...Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương <br />
quá...” “ bà nghẹn lời không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất <br />
hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã <br />
xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo <br />
đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám cưới” <br />
(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp sự <br />
“không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông <br />
dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người <br />
làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời <br />
nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà <br />
khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả <br />
tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau “toàn <br />
chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho <br />
tương lai...<br />
<br />
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận <br />
nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua thì <br />
đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới <br />
ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lý tinh tế của bà cụ Tứ, thể <br />
hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương <br />
lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: <br />
"...chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được? <br />
” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể <br />
lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông <br />
thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi <br />
lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu <br />
sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết <br />
thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc <br />
đời cực khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu <br />
chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm <br />
hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ <br />
nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến <br />
mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn <br />
là những trang văn, đó là những trang đời những trang đời thấm đẫm những giọt nước <br />
mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ <br />
nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng <br />
kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân <br />
tình tha thiết của người mẹ.<br />
<br />
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về <br />
những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng <br />
sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt <br />
những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái <br />
tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người <br />
đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão <br />
lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. <br />
Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt <br />
mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả... Những <br />
giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu <br />
dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua <br />
đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai <br />
nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao <br />
động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người <br />
mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa <br />
đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu <br />
chỉ dành cho tuổi trẻ nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những <br />
người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những <br />
ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi <br />
mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, <br />
thấm thía bao điều... Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, <br />
nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự <br />
hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả <br />
tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. <br />
Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không <br />
đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố <br />
gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, <br />
ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội <br />
nghiệp thay niềm vui của bà lão cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó <br />
bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn <br />
vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những <br />
giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những <br />
dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp <br />
với trái tim người mẹ nông dân nghèo...<br />