Đề bài: Những cảm nhận của em về bài "Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" của <br />
Nguyễn Đăng Mạnh<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Ngay sau khi tác giả "Những ngày thơ ấu", “Bỉ vỏ”… qua đời, Nguyễn Đăng Mạnh đã <br />
viết bài "Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng” đăng trên báo Nhân dân số 10189, ra ngày <br />
1651982.<br />
<br />
Có người cho rằng bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh là một điếu văn thương tiếc một nhà <br />
văn lớn của nền văn học Việt Nam vừa quá cố.<br />
<br />
Tác giả không nói về tiểu sử mà chỉ nói về văn chương, con người và vị trí của Nguyên <br />
Hồng trong lịch sử văn học dân tộc.<br />
<br />
Phần đầu, Nguyễn Đăng Mạnh nói về giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo trong tác <br />
phẩm Nguyên Hồng. Lời đánh giá vừa sâu sắc vừa chí tình: "Văn Nguyên Hồng bao giờ <br />
cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầu chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một nhà <br />
văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người”. Cái tâm của Nguyên Hồng rất nồng <br />
hậu, ông luôn luôn đặt cái “tâm” nóng hổi của mình trên trang sách. Tác giả nhắc lại cái <br />
chết đau đớn của người đàn bà nông dân theo đạo Thiên Chúa được nói đến trong truyện <br />
ngắn Linh hồn, tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy năm <br />
1936 để chỉ rõ: Nguyên Hồng bước vào nghề văn là “để nói lên nỗi khổ đau oan ức không <br />
cùng của dân nghèo thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, đặc biệt là người phụ nữ lao động”. <br />
Từ Bỉ vỏ đến Những ngày thơ ấu, từ Quán Nải đến của Cửa biển..., hình ảnh người đàn <br />
bà oan khổ, đau khổ theo đuổi, ám ảnh ngòi bút của ông.<br />
<br />
Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm trên trang văn Nguyên Hồng là “chủ nghĩa nhân đạo thống <br />
thiết", có lẽ vì thế mà ông "cứ đổ dồn dập lên đầu nhân vật của mình đủ thứ tai hoa trên <br />
đời". Là nhà văn cùng khổ, ông đã dành tất cả tình yêu thương, niềm tin mãnh liệt đối với <br />
"thiện căn" bền vững của nhân dân lao động. Nguyễn Đăng Mạnh đã thấu hiểu Nguyên <br />
Hồng, đã dành cho nhà văn Ngõ Cấm ngày xưa và những đứa con tinh thần của "cậu giáo <br />
"những lời tốt đẹp nhất: “từ vực thẳm tối tăm ngày trước, từ đống bùn rác ngập ngụa <br />
trong xã hội cũ, những Tám Bính, những mẹ La của tiểu thuyết Nguyên Hồng vẫn giữ <br />
chắc bản chất hiền hậu, trong sáng của mình mà vươn lên, như những mầm cây căng <br />
nhựa, xuyên thủng lớp lớp bùn đất dày đặc để nhô lên đón lấy ánh sáng mặt trời".<br />
<br />
Thật thú vị khi ta được nghe tác giả so sánh giữa Gorơki với Nguyên Hồng. Hai nhà văn <br />
của hai dân tộc Nga, Việt tuy "khác nhau về tầm cỡ” nhưng có những nét tương đồng. Cả <br />
hai "từng lăn lộn" với những con người "dưới đáy” xã hội cũ, cùng viết với một trái tim <br />
tha thiết yêu tin con người, cùng sớm giác ngộ lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Cả hai đều <br />
viết đủ thể loại, viết rất hay, rất cảm động về tầng lớp lưu manh, xây dựng hình tượng <br />
bà mẹ rất đẹp. Họ đều có tài viết về đám phu phen thợ thuyền... Đặc biệt "họ đều thuộc <br />
số những nhà văn dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao động một đối <br />
tượng thẩm mỹ thật sự”. Phải có “con mắt tinh đời", và phải có một tấm lòng "tri âm" <br />
,tác giả mới viết và so sánh tinh tế như vậy.<br />
<br />
Văn Nguyên Hồng dào dạt chất lãng mạn, "đầy cảm xúc, đầy chất thơ”.. Không phải là <br />
chất thơ từ mây, gió, trăng, hoa, mà là chất thơ được “chế tạo”, được “luyện bằng than <br />
bụi nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hoà với chất mồ hôi <br />
mặn chát và nóng bóng của những người lao động".<br />
<br />
Con người Nguyên Hồng, nhà văn Nguyên Hồng là “một tấm gương rất đẹp về sự gắn <br />
bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động", “sinh ra từ môi trường lao động, tự rèn đúc <br />
thành chất người lao động, vì nhân dân lao động mà cặm cụi viết không ngừng, không <br />
nghỉ, cho đến hơi thở cuối cùng". Lời bình luận vừa sâu sắc vừa chí tình.<br />
<br />
Nguyễn Đăng Mạnh nhắc lại lời khen của Nguyễn Tuân về cái tài tả nắng của Nguyên <br />
Hồng, rồi ông chấm phá: "một thứ nắng vùng cửa biển có sức sống, có linh hồn,... như <br />
reo lên, hát lên hoà với nhịp sống tưng bừng, náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực rỡ <br />
màu phượng vĩ”. Tâm hồn của Nguyên Hồng “đấy ánh sáng, đầy ánh nắng"; “mọi cảnh <br />
vật ông miêu tả đều tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống"... Tác giả nhắc lại <br />
khoảnh khắc “hơi thở tàn” của ông già nghèo khổ nơi nhà thương làm phúc, rồi trích câu <br />
văn của Nguyên Hồng: "Ánh nắng lại đón chào ông. Ánh nắng vàng ngời như lửa đốt của <br />
sáng mùa hè lúc đó gió còn mát dịu, thổi chờn vờn những lá cây, lá cỏ lấp lánh sương”. <br />
Đủng là thứ “ánh nắng có sức xua tan cả âm khí, tử khí trên những xác chết". Thứ ánh <br />
nắng ấy đã tạo nên chủ nghĩa lạc quan trong văn nghiệp Nguyên Hồng.<br />
<br />
Nguyễn Đăng Mạnh đã chỉ ra những nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa tạo nên một chủ <br />
nghĩa lạc quan vững khoẻ của Nguyên Hồng: "Đó là lý tưởng cách mạng mà nhà văn đã <br />
tiếp thu được ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương. ..Đó là bản tính yêu đời, <br />
yêu sống của nhân dân lao động đã thấm vào máu thịt, tâm hồn ông. Đó là sức mạnh tinh <br />
thần của một con người bao giờ cũng sống hết mình vì cuộc sống, với mọi người, mọi <br />
việc xung quanh".<br />
<br />
Phần tiếp theo, Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng. <br />
Nguyên Hồng đã sống 64 năm trên cõi đời (19181982) đã có 46 năm bền bỉ liên tục sáng <br />
tác (19361982), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng “chưa hề có dấu hiệu gì vơi cạn; tập <br />
hai tiểu thuyết lịch sử "Núi rừng Yên Thế” còn chưa “ráo mực".<br />
<br />
Nguyên Hồng "không có những kiệt tác hoàn chỉnh nhưng có những trang viết gọi là kiệt <br />
tác". Tác giả nhắc đến cảnh mẹ La vượt ngục, cảnh Huệ Chi bước dần tới cái chết với <br />
những kỉ niệm đầy chất thơ của tình mẫu tử, tình quê hương...; nhắc đến những quỷ sứ <br />
như Tây Cậu, Nguyễn Kim Tú để khẳng định: “Nguyên Hồng thường tạo nên sự đối lập <br />
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiên đường và địa ngục".<br />
<br />
Xuân Diệu đã có lần nói, Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn. Nguyễn Đăng <br />
Mạnh ca ngợi: "Đối với lịch sử văn học nước ta năm mươi năm qua. Nguyên Hồng có <br />
một vị trí chắc chắn lắm, bền vững lắm”. Quá trình sáng tác của Nguyên Hồng "không có <br />
lúc nào xuống tay hẳn”.<br />
<br />
Phần cuối bài văn, tác giả nói về chuyện Nguyên Hồng “rất dễ xúc động, rất dễ khóc". <br />
Nhiều nhà văn đã nói về chuyện này. Hai câu hỏi thật sự gợi cho người đọc bao suy nghĩ <br />
và cảm xúc:<br />
“Nguyên Hồng đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông <br />
đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật?. Bây giờ nằm dưới ba thước đất, <br />
nguồn nước mắt ấy, liệu có bao giờ khô cạn được không?”<br />
<br />
Ở nước ta, đã có nhiều người viết chân dung văn học. Nhưng phần lớn những bài viết đó <br />
đều nhạt và mờ, thậm chí có bài rất vô duyên. Bài “Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" <br />
của Nguyễn Đăng Mạnh là một áng văn mang vẻ đẹp hoàn hảo. Sự đánh giá, bình luận <br />
sắc sảo, chí lí, chí tình. Một cách viết đằm thắm, chặt chẽ. Ngôn từ trang trọng. Trang <br />
trải trên trang văn là cả một tấm lòng “thương tiếc" mà tác giả đã gửi gắm ở đầu nhan <br />
đề. Nén tâm hương Nguyễn Đăng Mạnh thắp lên chắc sẽ làm cho hương hồn Nguyên <br />
Hồng rơi lệ!<br />