Cảm nhận về bài thơ Hầu Trời của thi sĩ Tản Đà
lượt xem 8
download
Bài thơ cho ta thấy Tản Đà - một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Mời các em cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảm nhận về bài thơ Hầu Trời của thi sĩ Tản Đà
VĂN MẪU LỚP 11 CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ HẦU TRỜI CỦA THI SĨ TẢN ĐÀ Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Hầu Trời Tản Đà Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mộng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! …………………….. Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi. Một năm ba trăm sáu mươi đêm. Sao được đêm đêm lên hầu Trời! Theo Tuyền tập Tàn Đà NX8 Văn học Hà Nội. 1982 Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyển chọn - Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xướng sưu tập, chú thích - Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất. "Hầu Trời" là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo; độc đáo ở thi đề, độc đáo cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. "Hầu Trời" được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu... mang dáng dấp một bài hành nhỏ. Câu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ cái tôi của mình, và cho nó "tung hoành" nơi Thiên môn đế khuyết. Phần đầu bài thơ kể chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới, tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà", đã "làm Trời mất ngủ...". Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn. Bốn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ "thật" để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra "sướng lạ lùng!". Trong bài "Tìm hiểu Tản Đà", thi sĩ Xuân Diệu viết: "Bài "Hầu Trời", tôi phục nhất đoạn mở: Đêm qua chẳng biết có hay không Chằng phải hoảng hốt không mơ mộng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng! Vào đột ngột cứu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta". Phái viên của Trời là hai nàng tiên "miệng cười mủm mỉm",... Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời: "Theo hai cô tiên lên đường mây - Vù vù không cánh mà như bay". Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi: Cửa son đồ chói oai rực rỡ! Thiên môn đế khuyết như là đây ? Vị khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ "sụp xuống lạy", Trời ân cần sai tiên nữ "dắt tôi dậy", rồi mời thi sĩ "ngồi chơi" trên "Ghế bành như tuyết, văn như mây". Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến ngày một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến để dự cuộc bình thơ, bình văn? Tiên đồng pha nước uống vừa xong, Bỗng thấy chư tiên đến thật đông, Chung quanh bày ghế ngồi la liệt, Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông. Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: "Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc", thì cuộc đọc văn, hình văn bắt đầu. Văn sĩ "Đọc hết văn vần sang văn xuôi Hết văn thuyết lí lại văn chơi", càng đọc càng "đắc ý", càng "tốt hơi ", nhất là khi được nhấp giọng bằng "chè Trời". Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc "ran cung mây". Chẳng có rượu và hoa... nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ "cũng lấy làm hay". Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì "nở dạ" hoặc "lè lưỡi''. Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà "chau đôi mày". Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn "lắng tai đứng”. Ai cũng nhiệt thành "cũng vỗ tay" tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn đế khuyết như vậy? Văn sĩ tự hào “báo cáo” với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: ... Hai quyển Khối tình văn thuyết lí Hai Khối tình con là văn chơi Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết Đài gương, Lên sáu văn vị đời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch Đến quyển Lên tám nay là mười” Trời "bật buồn cười" khen ngợi: "Văn đã giàu thay lại lắm lối" vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng "anh”: “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: Anh gánh lên đây bún chợ Trời!". Cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách "bình dân" của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và "thật thà" của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông: Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu. Quanh năm luống những lo văn ế, Thân thế xem thua chú hát chèo! (Lo văn ế) Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mắt đồng loại! Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá: Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển Êm như gió thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!..., Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết được Trời đem ra so sánh để ngợi ca nhời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái "tôi" bản ngã được khẳng định. Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ: Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn... Trời "ngợ", rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không "đày" mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc thiên lương" thuật lại cho "đời hay", cho mọi người cùng biết. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem "thiên lương"- giáo hoá người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn. Bài thơ "Hầu Trời" không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yếu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bấy lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, chỉ "còn một bụng văn"', kế sinh nhai ngày một thêm chật vật: ...Giấy người, mực người, thuê người in . Mướn cửa hàng người bán phường phố Văn chương hạ giới rẻ như bèo Kiếm được đồng lãi thực là khó Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu... Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: "Trời lại sai conviệc nặng quá - Biết có làm nổi mà dám theo?", thì Trời đã động viên và hứa: Rằng: "Con không nói, Trời đã biết, Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết. Cho con cứ về mà làm ăn, Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết, Cố xong công việc của Trời sai, Trời sẽ cho con về đế khuyết… Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: "Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi". Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà, cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước: Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi. Một năm ba trăm sáu mươi đêm, Sao được đêm đêm lên hầu Trời! Bài "Hầu Trời" như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự. "Hầu Trời" là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên "Hầu Trời" giúp ta cảm nhận thêm chất lài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kiến thức lớp 10 Tấm cám-cảm nhận về nhân vật
6 p | 475 | 64
-
Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh để làm nổi bật tinh thần thép hoặc nét cổ hiện đại
9 p | 222 | 28
-
Thanh Hải một nốt trầm xao xuyến
10 p | 317 | 27
-
Xuân Quỳnh - một tiếng nói riêng về tình yêu qua “Sóng”
7 p | 290 | 22
-
Bài giảng Muốn làm thằng Cuội - Ngữ văn 8
26 p | 461 | 22
-
Làm rõ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng 8 năm 1945 qua việc phân tích, so sánh các bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương’’ của Phan Bội Châu, ‘’Hầu trời’’ của Tản Đà, ‘’Vội vàng’’ của Xuân Diệu
6 p | 523 | 21
-
Văn mẫu lớp 9: "Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh"
7 p | 352 | 19
-
Giảng văn. SÓNG (Xuân Quỳnh)
5 p | 145 | 13
-
Hoa cúc vàng của Lưu Quang Vũ
3 p | 210 | 13
-
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Trích)
9 p | 129 | 12
-
Slide bài Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen - Sinh 12 - GV.N.Anh Thư
13 p | 104 | 11
-
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
14 p | 85 | 7
-
Phân tích bài Thu vịnh
3 p | 87 | 5
-
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án - Sở GD&ĐT Hậu Giang
5 p | 29 | 4
-
Đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 9 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Quang Dương, Đông Hưng
6 p | 15 | 4
-
Cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của cảnh và người miền Tây trong bài Tây Tiến
4 p | 50 | 2
-
Phân tích đoạn thơ Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?...ngói đủ trăm ga trong bài thơ Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên
7 p | 109 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn