Câu 2: Nợ công
lượt xem 9
download
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Khái niệm nợ công". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Câu 2: Nợ công
- Khái niệm nợ công Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia. Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công[i] quá lớn của Chính phủ. Chi tiêu công nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại thu nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều (đặc biệt cho các khoản đầu tư công) so với nguồn thu có được (từ thuế, phí, lệ phí thu được) sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc Chính phủ phải đi vay tiền (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ công. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành “lãi mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm. Gia tăng chi tiêu công là xu hướng nổi bật trong thế kỷ XX. Xu hướng chi tiêu công diễn ra ngày càng nhanh và mạnh. Cuối thập niên đầu thế kỷ XXI, các nước trên thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng nặng nề, mà nguyên nhân chủ yếu do chính sách gia tăng chi tiêu công và quá trình quản lý chi tiêu công kém hiệu quả, dẫn đến phải đi vay quá lớn để phục vụ các nhu cầu chi tiêu. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 trở thành chất xúc tác làm cho khủng hoảng nợ công càng trở nên trầm trọng hơn. Nợ công là do sự mất cân đối thu chi và dẫn tới thâm hụt ngân sách. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều trong khi các nguồn thu không đáp ứng nổi buộc chính phủ phải đi vay tiền thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng) và vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế… để bù vào khoản thâm hụt, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Không phải cho đến bây giờ nợ công mới xảy ra. Nợ công đã từng được biết đến vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX khi Mêhicô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay của Quỹ tiến tệ quốc tế (năm 1982). Tiếp đến khủng hoảng nợ công ở Áchentina (năm 2001) với khoản nợ 90 tỷ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch s ử đất nước. Hàng loạt quốc gia với tổng số nợ lên đến 240 tỷ USD đã tuyên bố hoãn trả nợ. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm và nội hàm nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nợ công, theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán. Quan niệm về nợ công của Ngân hàng Thế giới cũng tương tự như
- quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc, bao gồm bốn nhóm chủ thể: (1) nợ của Chính phủ Trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương; (2) nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) nợ của Ngân hàng Trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài nước, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân dân Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành. Như vậy khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Inđônêxia…). Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công (nợ Chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách”. Vì thế, nợ Chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ Chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 2/ Đặc trưng cơ bản của nợ công Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên
- vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài). Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: Một là,đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đề đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công Việt Nam là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên. Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất. 3/ Bản chất của nợ công Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là xấu. Nợ đem lại rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay. Thực tế, các nước muốn phát triển nahnh đều phải đi vay. Những nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… lại cũng chính là những con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu cực. Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm: Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế; Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư; Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích đối tác, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước.
- Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực: Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư và điều quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công. Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân ách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế. Khi xét đến nợ công, chúng ta không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ. Vấn đề quan trọng phải tính là khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỉ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cách nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc gia. Mức an toàn của nợ công được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó không.Tiêu chí để đánh giá mức an toàn của nợ công được thể hiện cụ thể là: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Các tổ chức quốc tế cho rằng, tỷ lệ nợ hợp lý đối với các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Mỹ có tỷ lệ nợ công bằng 96% GDP nhưng vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động của Mỹ cao nhất thế giới là cơ sở bảo đảm bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ lên tới hơn 200% GDP vẫn được coi là ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ/GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela năm 1981 với tỷ lệ nợ công chỉ là 15% GDP; Thái Lan năm 1996 với tỷ lệ nợ công là 40% GDP; Argentina năm 2001 với tỷ lệ nợ công là 45% GDP; Ucraina năm 2007 với tỷ lệ nợ công là 13% GDP;
- Thứ ba, đánh giá nợ công trong mối liên hệ với các tiêu chí kinh tế vĩ mô. Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ/GDP, mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được xem xét khi đánh giá bản chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng trưởng. 4/ Phân loại nợ công Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay : Nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức trong nước. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác. Theo phương thức huy động vốn: Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và Nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính. Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công có ba loại: Nợ công từ vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãivà Nợ thương mại thông thường.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ. Nợ công được phân loại thànhNợ công phải trả và Nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ. Theo cấp quản lý nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương và Nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương. Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ phù hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội Nguyên nhân nợ công Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ. Ở mỗi nước và tùy từng thời kỳ lại có các nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn, tại Hy Lạp, nguyên nhân gia tăng nợ là những số liệu được làm giả để đối phó với các điều kiện khắt khe của Liên minh châu Âu; Tại Ailen, nguyên nhân là hệ thống ngân hàng quá yếu kém lại không được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản như: Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng gia tăng ở nhiều nước, cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng. Bên cạnh đó, các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa thuận thương mại khác mà họ tham gia. Cùng với đó, vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là thuế, gặp không ít khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng. Có thể khái quát những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến nợ công bao gồm những lý do sau: Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công . Tỷ lệ tiết kiệm của Mỹ giảm liên tục trong thập niên gần đây. Nếu như vào những năm 70 của thế kỷ trước, người dân Mỹ tiết kiệm khoảng 10% tổng thu nhập, thì tỷ lệ này đã giảm liên tục từ đầu thập kỷ 80 và tụt xuống mức 1 – 2% (năm 2007). Nghĩa là, tiết kiệm cá nhân của người Mỹ đã giảm gần như bằng không và người Mỹ tiêu dùng gần như toàn bộ phần thu nhập của mình. Khi mức tiết kiệm trong nước giảm, vay nợ của M ỹ chủ yếu dựa vào vốn nước ngoài.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài của Mỹ liên tục tăng từ 1,2 nghìn tỷ USD (năm 1997) lên 2,85 nghìn tỷ (năm 2008) và 4,45 nghìn tỷ (năm 2011) – chiếm khoảng 47% tổng nợ công. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 10 – 12% GDP thập niên 90 của thế kỷ XX, thấp hơn nhiều so với mức 22% GDP trong khối EU. T ỷ l ệ ti ết ki ệm n ội địa của Bồ Đào Nha cũng chỉ vào khoảng 15 – 16% GDP. Tây Ban Nha và Italia có tỷ lệ tiết kiệm nội địa ở mức trung bình của toàn khối và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài; Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ việc gia nhập Liên minh châu Âu (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng đã làm giảm kênh huy động vốn buộc Chính phủ Hy Lạp phải tăng cường vay nợ nước ngoài để đảm bảo cho chi tiêu công. Huy động tiết kiệm trong nước và khuyến khích người dân mua trái phiếu Chính phủ là điều quan trọng nhất để giảm nợ công. Tỷ lệ tiết kiệm giảm trong điều kiện tăng chi ngân sách cũng được xem là nguyên nhân dẫn đến nợ công của Nhật Bản. Từ lâu, Nhật Bản được biết đến với tỷ lệ tiết kiệm dân cư cao nhất trong những nước công nghiệp phát triển. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, các hộ gia đình Nhật Bản đã tiết kiệm khoảng 15% thu nhập sau thuế. Mặc dù tỷ lệ tiết kiệm nội địa đã giảm dần vào cuối thập kỷ 80 nhưng vẫn chiếm khoảng 10% trong năm 1990 và tiếp tục giảm mạnh xuống mức 5% vào cuối thập kỷ 90 và đạt trên 2% (năm 2009). Tiết kiệm thấp kết hợp với bội chi ngân sách cao dẫn đến thâm hụt ngân sách và tăng nợ công. Thứ hai, chi tiêu kích cầu kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề nợ công. Chính sách kích cầu kinh tế của Chính phủ các quốc gia, hiệu quả trong ngắn hạn thì có, nhưng xét về dài hạn lại đang tạo ra nguy cơ tiềm ẩn của một cuộc khủng hoảng nợ hết sức nghiêm trọng. Các gói kích thích kinh tế với tổng số vốn hơn 2,2 nghìn tỷ USD (năm 2009) tương đương 4,7% GDP toàn cầu được các nước triển khai nhanh chóng khiến thâm hụt ngân sách của các chính phủ tăng vọt. Nguy cơ khủng hoảng nợ công hiện tập trung vào những nước có tỷ lệ nợ công lớn, đồng thời cơ cấu nợ thiên lệch về những khoản nợ ngắn hạn (thời hạn dưới 12 tháng) và nợ nước ngoài cũng như do hạn chế về khả năng quản trị nợ. Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng,… đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã đẩy các nền kinh tế Âu – Mỹ vào thời kỳ suy thoái kinh tế lâu dài, buộc các chính phủ phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Chẳng hạn, ở Mỹ, cùng với mức tăng chi tiêu y tế và quốc phòng, Chính phủ đã phải thông qua gói
- kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu với quy mô 780 tỷ USD (năm 2010) cũng đã góp phần làm tăng nợ của Chính phủ. Mức chi tiêu của Chính phủ Hy Lạp tăng 87% giai đoạn 2001 – 2007, trong khi mức thu của Chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU. Chi tiêu cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, bộ máy công quyền cồng kềnh và thiếu hiệu quả của Hy Lạp là nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt của quốc gia. Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Dự đoán tỷ lệ số người trên 64 tuổi của Hy Lạp sẽ tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060. Người về hưu được hưởng một khoản tiền tương đương với 70 – 80% mức lương chính thức trước khi về hưu chưa kể những lợi ích từ những cơ chế hỗ trợ khác với đủ 35 năm cống hiến so với mức 40 năm ở các quốc gia châu Âu khác. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (năm 2005) lên 24% năm (2050). Nợ công của Nhật Bản là kết quả của quá trình chi tiêu một số lượng tiền khổng lồ để kích thích kinh tế. Trong suốt thập kỷ 90 và thậm chí cả trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Nhật Bản đã bơm khối lượng tiền lớn vào nền kinh tế. Nhật Bản là quốc gia có những gói kích cầu lớn nhất cả về tổng giá trị cũng như tỷ lệ trên GDP (tổng giá trị là 774 tỷ USD, chiếm 16,4% GDP). Để cứu nền kinh tế, Nhật Bản rót vốn vào thị trường, đưa tiền cho người dân tiêu dùng cùng nhiều biện pháp hỗ trợ khác làm cho cung tiền tệ trên thị trường tăng. Do đó, giá đồng yên có xu hướng tăng. Đồng yên mạnh càng khiến cho dòng vốn đầu tư chảy ra khỏi Nhật Bản, xuất khẩu giảm dẫn đến tốc độ phục hồi kinh tế của Nhật bản đuối dần. Việc chi tiêu thiếu hiệu quả nguồn vốn lớn trong suốt hơn 2 thập kỷ qua cùng với nguồn thu ngân sách sụt giảm làm cho nợ công của Nhật Bản ngày càng tăng. Già hóa dân số sẽ khiến tài chính Nhật Bản xuất hiện sự chuyển biến mang tính kết cấu “chi nhiều, thu ít” và đây là vấn đề đang ngày càng trở nên gay gắt. Thứ ba, sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng. Chi tiêu quá nhiều do tăng chi tiêu từ ngân sách nhà nước, chi lương và cho các hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, chi cho các chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng… Đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã buộc nhà nước phải chi rất nhiều để khôi phục kinh tế sau suy thoái, trong khi các khoản thu
- (chủ yếu từ thu thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau (như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ cho phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa thuận thương mại). Chính phủ Mỹ không đánh thuế cao và vì vậy, khoản thu ngân sách của Mỹ từ thuế thấp hơn rất nhiều, chỉ vào khoảng 30% GDP so với mức xấp xỉ 40% GDP ở các nước phát triển khác. Trong khi vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là nguồn thu từ thuế gặp không ít khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng. Mức thu không đủ để bù đắp mức chi tiêu quá nhiều buộc Chính phủ phải đi vay tiền thông qua nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu, tín dụng…) để bù chi, từ đó dẫn đến thâm hụt ngân sách và tình trạng nợ công. Khi mức thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn tới nợ công ngày càng gia tăng. Mọi nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ công ở châu Âu đều bắt nguồn từ chính sách tài chính lỏng lẻo, thiếu nhất quán, không chỉ gây bất ổn kinh tế, giảm sút niềm tin và căng thẳng cao độ trên các thị trường tài chính, mà còn tạo những hệ lụy về xã hội. Với từng quốc gia, nguyên nhân đó là do khả năng quản trị công yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc mất kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng. Với cả khu vực EU, đó là thói quen “chi nhiều hơn thu” kéo dài và hệ thống phúc lợi ngày càng phình to. Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu vay mượn dễ dàng quá mức, không tương thích với tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ công tăng nhanh, vượt khả năng kiểm soát Thứ tư, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính bổ sung thâm hụt là nguyên nhân khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Nguồn thu ngân sách từ thuế sụt ỉam, chi phí phúc lợi gia tăng, dân số già hóa dẫn đến thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách của Nhật Bản ở mức báo động với con số là 30,8 nghìn tỷ yên (khoảng 340,3 tỷ USD), tương đương 6,4% GDP (năm 2010). Thâm hụt ngân sách ở mức cao là nguyên nhân đẩy tỷ lệ nợ công cao so với GDP của Nhật Bản lên mức cao hơn, điều này hàm ý rằng chi phí trả nợ ngày càng tăng và do đó khiến cho thâm hụt ngân sách ngày càng lớn. Sự tăng liên tục của thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế của Nhật Bản gặp khó khăn, thị trường chứng khoán suy yếu, hiệu quả kinh doanh thấp và cản trở tăng trưởng kinh tế, tác động xấu đến nợ công. Sự chi tiêu thiếu kế hoạch cũng như sự thiếu minh bạch trong số liệu tài chính và nợ công nhằm vội vã thực hiện đủ tiêu chí gia nhập vào cộng đồng châu Âu của Hy Lạp và Bồ Đào Nha đã làm suy yếu hệ thống tài chính – ngân hàng và mất lòng tin của người dân và giới đầu tư, được coi như nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng nợ công ở các quốc gia này. Thứ năm, Chính phủ liên tục tăng khối lượng phát hành trái phiếu để lấy tiền trang trải chi phí an sinh xã hội và để bù đắp thâm hụt ngân sách. Một nguyên nhân khiến nợ công Nhật
- Bản tăng là do Chính phủ liên tục tăng khối lượng phát hành trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách, trong khi nguồn thu từ thuế giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Từ năm 2000, lượng phát hành trái phiếu chính phủ của Nhật Bản đã vượt qua Mỹ, trở thành nước phát hành trái phiếu lớn nhất toàn cầu. Dư nợ của Nhật Bản (trong đó có trái phiếu chính phủ và hối phiếu tài chính) vượt quá mức 900.000 tỷ yên. Với dân số 127,42 triệu người, dư nợ bình quân đầu người ở Nhật Bản hiện ở mức khoảng 7,1 triệu yên. Trong kế hoạch tài khóa 2012, Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu phát hành 44.000 tỷ yên trái phiếu. Lượng trái phiếu phát hành tăng làm cho nợ công tăng nhanh cùng với nạn giảm phát và nhu cầu tiêu thụ nội địa yếu ớt đang cản trở đà phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, ngoài nguyên nhân trực tiếp là do các quốc gia mắc nợ công cao (Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha…) đã thiếu trách nhiệm đi vay quá nhiều do được hưởng lãi suất ưu đãi với tư cách là thành viên của khối Eurozone và chỉ tiêu thiếu kiểm soát, còn có nguyên nhân sâu xa, nằm ở chính bản thân khối đồng tiền chung châu Âu. Khi một đồng tiền đơn lẻ lại có thể làm đại diện chung cho cả 17 quốc gia có trình độ phát triển khác xa nhau với các thể chế chính trị cho đến kinh tế, thậm chí cả các tập đoàn buôn bán thương mại cũng ở các mức độ rất chênh lệch. Và khi chỉ số tín dụng cấp quốc gia khác nhau ở các nước trong khối Eurozone thì Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) không thể áp dụng cùng một mức cho vay giống nhau đối với cả 17 nước này. Khi được hưởng mức vay ưu đãi, dễ dàng ngang bằng với Đức, Pháp thì việc Hy Lạp hay Ailen vay quá mức để chi tiêu là điều hiển nhiên. Vấn đề cốt lõi của khủng hoảng nợ công châu Âu là do sự lầm tưởng của các nhà lãnh đạo, khi cho rằng việc sử dụng đồng tiền chung euro không cần phải phối hợp chính sách kinh tế, không cần phải đặt ra vấn đề đồng nhất các khoản ngân sách chi tiêu công. Khủng hoảng nợ công phơi bày sự rạn nứt giữa các thành viên trong khối. Đức chỉ trích Hy Lạp và Italia lỏng lẻo trong chính sách chi tiêu dẫn đến nợ nần chồn ghcất, chỉ trông chờ vào sự cứu trợ của các nền kinh tế mạnh hơn trong khối. Trong khi Hy Lạp và Bồ Đào Nha cho rằng, Đức “ích kỷ” khi áp đặt chính sách tiền tệ, mô hình tài chính của mình cho các thành viên khác có nền kinh tế yếu hơn, không có khả năng cạnh tranh cao bằng Đức. Nhưng theo ông Jaques Delors – cựu Chủ tịch Hội đồng châu Âu (EC) – người đóng vai trò quan trọng trong tiến trình đưa đồng euro vào lưu hành – cho rằng, Eurozone đã vấp phải sai lầm ngay từ khi mới “thành lập” vì bước đi trên “đôi chân khập khiễng”, chân mạnh là đồng tiền chung và chân yếu là vấn đề quản trị. Nói cách khác, việc thiếu trụ cột quyền lực trung tâm để điều phối các chính sách kinh tế là nguyên nhân khiến các thành viên rơi vào rắc rối về các khoản nợ xấu. Lỗi trong quá trình thực hiện của các nhà lãnh đạo là không xử lý những yếu kém nền tảng và sự mất cân bằng về kinh tế giữa các nước thành viên, không đặt ra vấn đề đồng nhất các khoản ngân sách chi tiêu công. Cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước phát triển đã phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của nhóm các nước phương Tây. Những mâu thuẫn đó được thể hiện ra ở những điểm sau:
- Một là, mâu thuẫn giữa phúc lợi quá cao và thể chế chính trị. Thể chế chính trị phương Tây coi hạt nhân là “tam quyền phân lập”, vấn đề tranh cử được đặc biệt coi trọng. Vì nhu cầu tranh cử, các ứng cử viên các đảng phái càng phải cam kết nâng cao phúc lợi. Từ sau thế chiến thứ II, phương Tây thường thực hiện chính sách phúc lợi cao, nuôi dưỡng một tập quán phúc lợi và hình thành nền văn hóa phúc lợi siêu cao. “Tính vô hạn” của văn hóa phúc lợi siêu cao và “tính cực đoan” của thể chế chính trị dân chủ hình thành mâu thuẫn gay gắt. Hai là, mâu thuẫn giữa những hứa hẹn trnah cử và năng lực tài chính. Để thực hiện những hứa hẹn khi tranh cử, Chính phủ của các nước phương Tây buộc phải nâng cao năng lực tài chính và để nâng cao năng lực tài chính, buộc phải gia tăng thu thuế. Trong khi phần lớn các quốc gia châu Âu đều đã không còn nhiều cơ hội để tăng thuế. Tại nhiều nước thuộc châu lục này, doanh thu từ thuế đã lên tới mức 40% so với GDP. Ba là, mâu thuẫn giữa suy thoái kinh tế và tăng thuế. Phương Tây đang có xu thế già hóa dân số, giá thành lao động ngày càng tăng, tạo ra sự rỗng hóa ngành nghề. Dự báo năm 2050, ngườI ở độ tuổi trên 60 sẽ chiếm 1/3 dân số ở các nước giàu. Trong khi tăng trưởng GDP của khu vực đồng euro đang ngày càng giảm, chỉ còn 0,2% (quý II/2011) – mức thấp nhất trong vòng 9 năm qua và dự báo sẽ còn tiếp tục giảm, trong khi đó mức thu thuế ngày càng tăng. Bốn là, mâu thuẫn giữa việc giữ “ghế” và vay nợ. Kinh tế suy thoái khiến Chính phủ các nước phương Tây không tăng nổi thuế, song lại muốn duy trì quyền lợi của các đảng phái, do đó phải chấp nhận thâm hụt ngân sách. Để giữ được ghế thì Chính phủ buộc phải đi vay nợ, nợ ngày chồng ngày, năm chồng năm, nợ ngày càng nhiều đã tạo ra cuộc khủng hoảng nợ. Năm là, mâu thuẫn giữa khắc phục khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, rối loạn xã hội. “Giảm thâm hụt tài chính” qua giảm chi nhu cầu xã hội dẫn tới sự phản kháng của quần chúng, tiêu dùng cũng giảm mạnh, khiến kinh tế càng thêm suy thoái, thất nghiệp gia tăng, từ đó tác động ngược trở lại, dẫn đế thuế thu giảm, thâm hụt tài chính tiếp tục tăng. Các cuộc biểu tình, bạo loạn chống đối ở các nước phương Tây đang bùng lên mạnh mẽ. Sáu là, mâu thuẫn giữa mong muốn cứu giúp và cái giá cứu giúp của các nước (Đức, Pháp…) . Khi nợ tăng quá cao, tự thân các nước không thể giải quyết được buộc phải cầu cứu sự giúp đỡ của các nước và các tổ chức quốc tế. Mặc dù rất muốn cứu đồng euro, song cả Đức và Pháp cũng rất cần lá phiếu ủng hộ của người dân. Đây là nguyên nhân khiến cả Đức và PHáp đều “lực bất tòng tâm”. Bảy là, mâu thuẫn giữa thể chế ngân hàng châu Âu với phương thức giải quyết nợ bằng tiền tệ hóa. Đức không cứu giúp được, các ngân hàng châu Âu cũng không thể thông qua việc tiền tệ hóa để giải quyết tình trạng cấp bách. Hành động này có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn bởi các nước vay nợ đua nhau tăng “mức tiền tệ hóa”. Điều này chỉ có Anh và Mỹ (những quốc gia có đồng tiền tự chủ) có thể làm được. Nghĩa là, thúc đẩy chính sách nới lỏng định lượng (QE – Quantitative Easing – Các Ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng định lượng bằng cách in tiền và ghi nợ vào tài khoản mình. Vì Ngân hàng trung ương (NHTW) có xu hướng thiết lập lãi suất thấp để khuyến khích chi tiêu. Lãi suất càng thấp thì chi phí đi vay càng thấp, từ đó kích thích vay mượn và chi tiêu), phát hành trái phiếu để trả cho ngân hàng các
- khoản nợ đã đến hạn. Làm như vậy, một mặt có thể đẩy tai họa nợ sang các nền kinh tế mới nổi, mặt khác, sau một vài năm ngân hàng sẽ lại công bố miễn trừ nợ chính phủ, hoặc kéo dài chuyển thành nợ dài hạn để đời sau thanh toán. Tám là, mâu thuẫn về nhu cầu tiền vốn giữa các nước vay nợ và các ngân hàng . Không chỉ nhu cầu cần tiền vốn của các nước nợ ở phương Tây lên cao mà nhu cầu tiền vốn của hệ thống ngân hàng ở các nước này cũng đang rất cần thiết. Chín là, mâu thuẫn về quyết định để các nước nợ cao phá sản và việc phá sản sẽ được giải quyết thế nào? Nếu không giải quyết được mâu thuẫn này sẽ khiến vấn đề càng thêm trầm trọng. Cuối cùng dẫn đến càng có nhiều nợ cao bị phá sản. Mười là, mâu thuẫn giữa thể chế tiền tệ và thể chế tài chính khu vực đồng euro . Không muốn có “các nước nợ cao bị phá sản” và “giải quyết việc phá sản của các nước nợ”, khu vực đồng euro liệu có thể tiến thêm một bước để thành lập “quốc gia châu Âu”? Đồng euro tượng trưng cho thể chế tiền tệ khu vực đồng euro. “Quốc gia châu Âu” tượng trưng cho thể chế tài chính khu vực đồng euro. Đức sẽ không chấp nhận “quốc gia châu Âu” bởi Đức không muốn thanh toán nợ cho các nước có vay nợ cao như Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha… Trong khi Hy Lạp cũng không chấp nhận thể chế này bởi không muốn phụ thuộc. Trong những mâu thuẫn trên thì mâu thuẫn giữa phúc lợi siêu cao và thể chế chính trị của phương Tây là mâu thuẫn cơ bản nhất. Nếu phương Tây không giải quyết được vấn đề “dân chủ hóa cực đoan” trong thể chế chính trị và “chủ nghĩa nghĩa phúc lợi siêu cao” trong văn hóa thì khó có thể giải quyết được các mâu thuẫn trên. **** Tóm lại, tuy có sự khác nhau trong quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia, song về bản chất, nợ công chính là khoản tiền mà Chính phủ (cả ở cấp Trung ương và địa phương) đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách do chi tiêu công tăng lên. Nợ công không hẳn là vấn đề đáng lo ngại đối với nền kinh tế quốc dân. Chính nợ công là một nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng nếu quản lý nợ công không tốt, sử dụng nguồn lực nợ công không hiệu quả, làm khối lượng nợ công công ngày càng tăng, sẽ gây áp lực lên chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, đe dọa sự ổn định nền kinh tế, thậm chí dẫn đế khủng hoảng. Do vậy mọi quốc gia cần quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả nguồn lực này và đến giới hạn an toàn của nợ công. Để đảm bảo an toàn của nợ công, cần chú ý trong quản lý sử dụng, cần phân loại rõ các khoản nợ công và nguyên nhân gia tăng nợ công. Bởi lẽ mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ phát triển có nhiều lý do khác nhau đẩy tình trạng nợ công gia tăng. Và cũng chính trên các nguyên nhân cụ thể gia tăng nợ công mà có các giải pháp quản lý và xử lý nợ tương thích, bảo đảm tỷ lệ nợ công/GDP phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng bền vững Theo Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12, Nợ công được quy định trong Luật này bao gồm Nợ chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính quyền địa phương. Trong đó,
- − Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. − Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. − Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Nợ công rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào vì nó nguồn tài chính quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng sẽ xem xét đến nợ công khi quyết định đầu tư vốn. Tại cuộc họp thường kỳ tháng 10, Chính phủ đã phân tích nguyên nhân nợ công tăng nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và 64% GDP vào cuối năm 2015 Số liệu công bố tại phiên họp Chính phủ tháng 10 cho thấy, đến cuối năm 2013, nợ công bằng 54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%, nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến cuối năm 2014 nợ công khoảng 60,3% GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Các chỉ tiêu này nằm trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội 1/ Nguyên nhân nợ công của Việt Nam Có nhiều nguyên nhân làm gia tăng nợ công của Việt Nam, song những nguyên nhân cơ bản phải kể đến là: Thứ nhất, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính để bù đắp vào thâm hụt ngân sách. Đây là nguyên nhân chính khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế. Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt Nam. Thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ (qua ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,… Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài. Thứ hai, đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước mà Việt Nam vay vốn như Nhật Bản, EU… Trong tổng số tiền vay nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 thì có đến hơn 39% vay nợ bằng đồng yên Nhật Bản (JPY); 22% là vay nợ bằng đồng
- đôla Mỹ (USD); 9% là bằng đồng euro (EUR); còn lại là những đồng tiền khác. Vay nước ngoài có những tác động nguy hại đến nền kinh tế. Thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, việc Chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Việc vay nợ nước ngoài lớn nhất bằng đồng JPY và USD sẽ rất bất lợi vì hiện nay đồng JPY và USD đang có xu thế tăng giá, do đó tỷ giá JPY/VND sẽ tiếp tục tăng lên, điều này sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam bởi: Một là, khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỷ giá cao; Hai là, rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực hiện cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đôla hóa và tạo áp lực lên tỉ giá. Ba là, khi tính toán tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền đồng vào từng thời kỳ. Giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay nước ngoài sẽ chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay không có hiệu quả. Sự mất giá của tiền đồng Việt Nam đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho các doanh nghiệp trong việc trả nợ, khiến nợ công ngày càng gia tăng. Thứ ba, thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư lại không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất cao khiến cho việc hoàn trả nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam tăng tương đối cao (6,5% GDP năm 2010), vượt mức qui định quốc tế (5% GDP) do việc thực hiện chính sách kích cầu kinh tế. Trong khi các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước như: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay của Việt Nam vẫn đứng ở mức cao. Với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triền miên, Việt Nam đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức bảo hiểm rủi ro tín dụng CDS (Credit Default Spread – Giá hợp đồng bảo hiểm rủi ro càng cao thì nguy cơ gặp rủi ro, mất an toàn tài chính càng lớn) là 263, xếp ngay sau Hy Lạp (321) và Ai Len (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay nước ngoài. Do đó cần phải có các biện pháp thắt chặt tài khóa, quản lý chi tiêu tiết kiệm và hợp lý hơn trong thời gian tới để kiềm chế thâm hụt ngân sách. Thứ tư, đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam giảm là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công. Chi tiêu cho đầu tư công ở Việt Nam thời gian qua liên tục gia tăng khiến nợ công tăng mạnh, gây hiệu ứng nghịch cho hiệu suất tăng trưởng. Nợ công Việt Nam được coi là nguy cơ tiềm
- ẩn của khủng hoảng và bất ổn định, tạo gánh nặng cho nền kinh tế, làm giảm hoặc trì hoãn đầu tư tư nhân. Do đầu tư công kém hiệu quả buộc Chính phủ phải tăng thu ngân sách (qua thuế, phí hoặc vay mới) để trả nợ, khiến nền kinh tế rơi vào bất ổn, trì trệ hoặc lạm phát gia tăng. Đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng nợ công. Đầu tư công ở châu Âu và Mỹ trở thành tâm điểm gây bất ổn kinh tế toàn cầu và đã dẫn đến khủng hoảng nợ công 2010. Ở Việt Nam, bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế không thể phủ nhận, đầu tư công còn nhiều hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư. Tốc độ tăng đầu tư giai đoạn (2001 – 2011) luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tỷ lệ đầu tư công cao nhất nhưng hiệu quả đầu tư lại thấp nhất. Đầu tư công luôn đi cùng với lãng phí và tốn kém, thậm chí với mức độ ngày càng nặng nề, mức thất thoát lên đến 20 – 30%. Nguyên nhân do quản lý kém, đầu tư không hợp lý, đầu tư nhiều vào các ngành tư nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư tương xứng cho những ngành có khả năng lan tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư thiếu tập trung, không dứt điểm cho các công trình trọng điểm… Đầu tư công và quản lý đầu tư công kém hiệu quả không chỉ khiến hiệu quả đầu tư xã hội bị hạn chế, mà còn làm gia tăng nhiều hệ quả tiêu cực khác, như tăng sức ép lạm phát trong nước; mất cân đối vĩ mô, hạn chế sức cạnh tranh và chất lượng phát triển của nền kinh tế trong hội nhập. Đặc biệt, đầu tư công kém hiệu quả làm tăng gánh nặng và tác động tiêu cực đến nợ công, do làm tăng nợ chính phủ, nhất là nợ nước ngoài. 2/ Rủi ro tiềm ẩn Từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quản lý chi tiêu công… Mặc dù tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng nợ công đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, rủi ro lớn nhất xuất phát từ việc chi tiêu và đầu tư công kém hiệu quả. Đầu tư nhiều nhưng dàn trải nên nhiều công trình và nhà máy trọng điểm bị kéo dài thời gian xây dựng, không phát huy được tác dụng trong thời gian ngắn. Chính việc đầu tư công lãng phí, mọi người đều có thể đầu tư và tìm cách có được lợi ích trong phần đầu tư đó, dẫn đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả. Hậu quả là nợ nần tăng lên, tiền đầu tư thì nhiều nhưng hàng hóa sản xuất ra được từ tiền đầu tư đó ít. Thứ hai, rủi ro nằm chính ở các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nợ công của Việt Nam thực chất mới chỉ là nợ Chính phủ. Một bộ phận rất lớn nợ công của các DNNN chưa được đưa vào trong các thống kê về nợ công. Theo quan niệm quốc tế, nợ công phải bao gồm cả nợ của DNNN. Ở một số quốc gia, nợ Chính phủ và nợ công gần như đồng nhất vì khu vực DNNN của họ rất nhỏ. Ở Việt Nam, nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ với nợ của Chính phủ, nên không được phép loại nợ của DNNN ra khỏi nợ công, vì nếu DNNN không trả được nợ, thì ngân sách nhà nước cũng phải gánh. Rủi ro nằm ở những khoản vay mượn nước ngoài của
- DNNN. Đầu tư của 22 tập đoàn, công ty nhà nước lên tới 350.000 tỷ đồng, tương đương 17% GDP (năm 2011). Nếu tính đầu tư của gần 100 tập đoàn, công ty nhà nước, thì quy mô đầu tư là khổng lồ, mà phần lớn vốn đầu tư này là đi vay nợ. Nghĩa là, số liệu nợ công trên thực tế nhiều hơn. Vì vậy, khó có thể quản lý rủi ro mà nợ công của các DNNN có thể gây ra. Những khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước (NSNN) để trả là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam. Riêng năm 2012, nghĩa vụ trả nợ xấp xỉ 5,4 tỷ USD, tương đương 4,5% GDP năm 2011. Thêm nữa, Chính phủ không chỉ bảo lãnh cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước mà phải tính tới cả nợ tư nhân, bởi vì dù là nợ tư nhân, nhưng đổ vỡ lớn xảy ra thì Chính phủ cũng phải can thiệp, vì vậy nợ tư nhân cũng phải được tính trong tổng nợ quốc gia. Thứ ba, nợ công tăng quá nhanh trong khi thâm hụt ngân sách luôn ở mức rất cao. Thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng, từ 2,8% GDP (năm 2001) lên 9% GDP (năm 2009), vượt mức 5% GDP theo thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải giảm thâm hụt ngân sách nhưng không phải bằng việc tăng thu thuế (vì tỷ lệ thu thuế/GDP của Việt Nam ở mức cao nhất nhì trong khu vực (21 – 23% GDP)) mà là giảm chi trên cơ sở tăng hiệu quả chi tiêu. Bởi nếu tăng thuế, doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng chi phí nhiều hơn, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Nếu tăng thuế thu nhập cá nhân thì mức tiêu dùng sẽ giảm, làm giảm một phần tổng cầu, lập tức sẽ tác động tiêu cực đến động lực phát triển của nền kinh tế, tăng trưởng sẽ càng khó khăn hơn. Để giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách và nợ công thì biện pháp giảm chi tiêu và đầu tư công là điều cần phải làm và có tính khả thi cao nhất bởi thâm hụt ngân sách tăng thì nợ công khó có thể trả được. Hai vấn đề quan trọng Việt Nam cần giải quyết nhanh chóng đó là thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại, bởi vì nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại nếu không giải quyết kịp thời sẽ buộc Chính phủ phải tiếp tục đi vay với lãi suất cao hơn. Việt Nam vẫn chưa có chiến lược thực hiện giảm thâm hụt ngân sách trung và dài hạn, việc dự toán ngân sách hàng năm vẫn mang tính đối phó cấp thời, không có lộ trình thực hiện giảm thâm hụt ngân sách. Thứ tư, chỉ số hiệu quả đầu tư ICOR tăng cao. Có hai chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư: Hệ số ICOR từ vốn đầu tư và từ tích lũy tài sản. Vốn đầu tư là lượng tiền các thành phẩn sở hữu bỏ ra nhằm mục đích đầu tư và tích lũy tài sản là lượng tiền đầu tư đến được với sản xuất. Chỉ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế càng thấp. Theo Tổng tính toán của Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR và tích lũy tài sản của Việt Nam đều rất cao. Hệ số ICOR là 3,2 (năm 1991) đã tăng lên 8 (năm 2009). Tính trung bình tỷ lệ vốn đầu tư ICOR tăng khá cao (7,43) và tích lũy tài sản (4,40) giai đoạn 2005 – 2010 (so với 3 của một số quốc gia Đông Á thời kỳ đầu công nghiệp hóa). Thậm chí, tỉ lệ vốn đầu tư ICOR của khu vực nhà nước còn cao hơn, xấp xỉ 9,7 trong cùng thời kỳ. Điều này cho thấy hiệu quả thấp trong việc sử dụng nguồn lực, sự lãng phí và quản lý chưa chặt chẽ trong đầu tư cũng như khả năng cạnh tranh thấp của nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư thấp có thể được giải thích qua hai nguyên nhân chính: Một là, đầu tư chưa đúng để tạo ra hiệu quả cho nền kinh tế; Hai là, tình trạng
- tham ô cao dẫn đến số tiền thực sự được sử dụng cho sản xuất thấp dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp. Thứ năm, nợ công có thể khác nhau nhưng vấn đề rủi ro lớn nhất nằm ở dòng tiền chứ không phải chỉ là tỷ lệ nợ bao nhiêu. Một phần không nhỏ nợ công của Việt Nam hiện nay là bằng đồng yên, khoảng 39%. Tỷ giá đồng yên dao động lớn, nếu đồng yên cứ tiếp tục lên giá như hiện nay thì rất bất lợi cho Việt Nam dù lãi suất thấp. Thứ sáu, tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại tệ tăng. Mặc dù nợ ngắn hạn so với tổng nợ công thấp, chỉ vào khoảng 6 – 7 tỷ USD nhưng tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại tệ đang tăng trong khi nợ nước ngoài của Việt Nam lên tới 50 tỷ USD (năm 2011), lớn gấp 3 lần so với dự trữ ngoại tệ, khoảng 14 – 15 tỷ USD (so với mức dự trữ ngoại tệ của Thái Lan là 176 tỷ USD và nợ công chỉ khoảng 44,1% GDP). Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn (năm 2010), giảm mạnh so với 290% (năm 2009), trong khi mức khuyến nghị của Ngân hàng thế giới là trên 200%. Thứ bảy, cơ cấu kỳ hạn của các khoản nợ công trong nước cũng gây rủi ro khá lớn, trong đó có trái phiếu chính phủ. Các khoản nợ nước ngoài có kỳ hạn dài tới vài chục năm, trong khi hơn 88,7% nợ trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh có kỳ hạn chỉ từ 2 – 5 năm. Do vậy, nghĩa vụ nợ nước ngoài được dàn khá đầu với 1,5 – 2 tỷ USD/năm, trong khi đó nghĩa vụ nợ trong nước lại dồn trong thời gian gần, với xấp xỉ 4,5 – 5 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2012 – 2016. Như vậy, cùng với triển vọng cán cân ngân sách cơ bản tiếp tục thâm hụt thì sức ép phát hành trái phiếu để đáo nợ trong nước những năm tới là rất lớn. Thêm nữa, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm cho nguồn thu thuế của Chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu chính phủ trong các khoản lương hưu và chăm sóc sức khỏe… Do vậy, quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng để quan tâm hàng đầu tại Việt Nam Mục tiêu nợ công an toàn và bền vững Nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công ngày hôm nay phải được trả bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt Nam, thâm hụt ngân sách đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, đe dọa đến tính bền vững của nợ công.
- Nợ công được đo bằng tỷ lệ phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nhưng, nếu chỉ xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công/GDP để xác định mức độ an toàn là chưa đủ và chưa phản ánh đúng thực chất vấn đề. Khi xem xét nợ công, quy mô nợ công trên GDP phải được phân tích kỹ cùng với những tiêu chí như: giới hạn nợ, cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… Cụ thể: Thứ nhất, giới hạn nợ công không được vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu; Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 10% chi ngân sách; Thứ ba, để đánh giá mức nợ công an toàn và bền vững thì cần phải xem xét toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách, năng suất lao động tổng hợp, tốc độ tăng trưởng GDP, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) của nền kinh tế… và tỷ lệ nợ công tính trên GDP không phải là vấn đề, mà quan trọng là khả năng trả nợ của quốc gia như thế nào. Mặc dù tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng cơ cấu nợ công đang ẩn chứa nhiều rủi ro. Trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam. 2/ Giải pháp cho vấn đề nợ công của Việt Nam a) Luật Quản lý nợ công Việt Nam Luật Quản lý nợ công Việt Nam (được ban hành năm 2009 và có hiệu lực vào đầu năm 2010) đưa ra nguyên tắc quản lý nợ công là: Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay, đảm bảo cán cân thanh
- toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; Hai là, đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội. Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất. Quản lý nợ công là quá trình thiết lập và thực hiện một chiến lược quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu vốn; tối thiểu hóa chi phí vay trong thời gian trung, dài hạn phù hợp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của thị trường nợ trong nước. Vì vậy, vấn đề cấp bách nhất mà các chính phủ phải đối mặt đó là phải cải cách thể chế quản lý chính sách nợ công cả về chuyên môn kỹ thuật và vận dụng kinh nghiệm quản lý để quản lý nợ nước ngoài một cách thành thạo và minh bạch. Nợ công không chỉ là nợ chính phủ mà bao gồm cả các khoản nợ của doanh nghiệp quốc doanh, các giao dịch vay nợ nước ngoài. Khủng hoảng nợ công châu Âu đã đặt ra một số vấn đề quan trọng về quản lý nợ công và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam. Quản lý nợ công Việt Nam hiện đang đối diện với 7 tồn tại cơ bản: Một là, thị trường trái phiếu trong nước phát triển còn hạn chế. Thực tế cho thấy tỷ lệ huy động vốn thông qua trái phiếu còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm năng trong xã hội; Hai là, công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào (nhiều dự án phải cùng lúc thực hiện 2 hệ thống thủ tục: một thủ tục giải quyết vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ, gia tăng chi phí chuẩn bị dự án, chi phí đầu tư do lạm phát trong thời gian bị kéo dài); Ba là, phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ trương huy động và sử dụng vốn cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ; Bốn là, hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, chưa được quản lý, giám sát chặt chẽ; Năm là, các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần được tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ; Sáu là, cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế; Bảy là, quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực cán bộ cần được cải thiện. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ công đã đóng góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Nợ nước ngoài dưới hình thức ODA ngày một tăng, góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân
- thanh toán quốc tế. Nợ công tạo ra nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện các chương trình đầu tư công, chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, chi phí quản lý nợ công của Việt Nam không phải là nhỏ do những yếu kém thuộc về cấu trúc và thể chế quản lý nợ công. Quản lý nợ công hiệu quả cần phải nhìn nhận và đánh giá theo các tiêu chí phù hợp với mục tiêu quản lý với thông lệ quốc tế để qua đó hướng tới hoàn thiện thể chế, chiến lược, chính sách trong quản lý nợ công nhằm tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu chi phí nợ công, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Luật Quản lý nợ công là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến tới một chiến lược quản lý nợ công hoàn chỉnh. Quản lý nợ công Việt Nam dựa trên 4 công cụ chính: Một là, chiến lược dài hạn về nợ công. Căn cứ để xây dựng chiến lược dài hạn về nợ công là kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm và 10 năm, các kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ cũng như các nghị quyết, quyết định về chủ trương huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ của Đảng và Chính phủ… Hai là, chương trình quản lý nợ trung hạn, gồm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý nợ trong giai đoạn 3 năm liền kề để thực hiện chi tiêu an toàn về nợ đã được Quốc hội xác định trong mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công. Ba là, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ, gồm: Kế hoạch vay trong nước (gồm huy động vốn ngân sách nhà nước và kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển); Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA, vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài; Bốn là, các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giám sát nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu, nợ Chính phủ so với GDP… Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn Giải pháp cho vấn đề nợ công Việt Nam Để ổn định quản lý nợ công hiệu quả cần tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế, sử dụng hiệu quả vốn vay cũng như khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực đầu tư phát triển (đặc biệt là cơ sở hạ tầng). Hiện thực hóa tiêu chí kiểm soát nợ công hiệu quả cần các giải pháp đồng bộ sau:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÀI TẬP PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ
29 p | 4212 | 2004
-
Bài giảng tài chính doanh nghiệp - Chương 2
28 p | 386 | 95
-
Phát triển thương hiệu tới cộng đồng người khuyết tật
3 p | 226 | 56
-
Mở rộng tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Vietcombank - 2
10 p | 148 | 23
-
Hạn chế rủi ro trong thanh tóan tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công Thương Đống Đa - 6
10 p | 79 | 18
-
KẾ CẤU VÀ GHI CHÉP TÀI KHOẢN VỐN BẰNG TIỀN - ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH - 2
46 p | 88 | 15
-
Tài chính doanh nghiệp (Tái bản lần 1): Phần 2
626 p | 23 | 10
-
Vận may và các công thức của nó: Phần 2
163 p | 74 | 10
-
KẾ CẤU VÀ GHI CHÉP TÀI KHOẢN VỐN BẰNG TIỀN - ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH - 5
46 p | 84 | 10
-
KẾ CẤU VÀ GHI CHÉP TÀI KHOẢN VỐN BẰNG TIỀN - ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH - 7
46 p | 102 | 9
-
Bài giảng Quản trị tài chính công ty Đa quốc gia: Chương mở đầu - ĐH Thương Mại
5 p | 54 | 6
-
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và bài học kinh nghiệm để ngăn ngừa khủng hoảng nợ công tại Việt Nam
8 p | 8 | 5
-
Bài giảng Kế toán tái cấu trúc doanh nghiệp - Chương 2: Kế toán tái cơ cấu vốn nợ và cổ phần hóa doanh nghiệp
73 p | 34 | 4
-
Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: Hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện
5 p | 46 | 2
-
62 câu hỏi đáp về Quản lý nợ công: Phần 2
28 p | 7 | 2
-
Cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
11 p | 3 | 1
-
Lý thuyết và bài tập Tài chính quốc tế: Phần 2
26 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn