intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Câu 2: Nợ công

Chia sẻ: Pham Xuan Hung Hung | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:28

92
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Khái niệm nợ công". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Câu 2: Nợ công

  1.  Khái niệm nợ công Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện   nay đều cho rằng, nợ  công là khoản nợ  mà Chính phủ  của một quốc gia phải chịu trách   nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng   nghĩa với các thuật ngữ  như nợ  Nhà nước hay nợ  Chính phủ. Tuy nhiên, nợ  công hoàn toàn  khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm   hai bộ  phận là nợ  của Nhà nước và nợ  của tư  nhân (doanh nghiệp, tổ  chức, cá nhân). Như  vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia. Nợ   công   xuất   phát   từ   nhu   cầu   chi   tiêu   công[i] quá   lớn   của   Chính   phủ.   Chi   tiêu   công  nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại thu nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế  vĩ mô. Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả  cũng sẽ  gây ra những bất  ổn cho   nền kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều (đặc biệt cho các khoản đầu tư  công) so với nguồn   thu có được (từ  thuế, phí, lệ  phí thu được) sẽ  dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc Chính phủ  phải đi vay tiền (trong hoặc ngoài nước) để  trang trải thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ  công.  Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành “lãi mẹ  đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm. Gia tăng chi tiêu công là xu hướng nổi bật trong thế  kỷ XX. Xu hướng chi tiêu công diễn ra ngày càng nhanh và mạnh. Cuối thập niên đầu thế kỷ  XXI, các nước trên thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng nặng nề,  mà nguyên nhân chủ yếu do chính sách gia tăng chi tiêu công và quá trình quản lý chi tiêu công  kém hiệu quả, dẫn đến phải đi vay quá lớn để  phục vụ  các nhu cầu chi tiêu. Cuộc khủng  hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 trở thành chất xúc tác làm cho khủng hoảng nợ công càng   trở nên trầm trọng hơn. Nợ  công là do sự  mất cân đối thu chi và dẫn tới thâm hụt ngân sách. Nhu cầu chi tiêu quá   nhiều trong khi các nguồn thu không đáp  ứng nổi buộc chính phủ phải đi vay tiền thông qua   nhiều hình thức (như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng) và vay tiền trực tiếp   từ  các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế… để  bù vào khoản thâm hụt, từ  đó dẫn đến tình trạng nợ. Không phải cho đến bây giờ nợ công mới xảy ra. Nợ công đã từng   được biết đến vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX khi Mêhicô là quốc gia đầu tiên tuyên bố  không trả được nợ vay của Quỹ tiến tệ quốc tế (năm 1982). Tiếp đến khủng hoảng nợ công  ở  Áchentina (năm 2001) với khoản nợ 90 tỷ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch s ử đất nước.   Hàng loạt quốc gia với tổng số nợ lên đến 240 tỷ  USD đã tuyên bố  hoãn trả  nợ. Tuy nhiên,   xung quanh khái niệm và nội hàm nợ  công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo  Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),  Nợ công, theo nghĩa rộng, là nghĩa   vụ  nợ  của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ  của Chính phủ  trung  ương, các cấp chính   quyền địa phương, ngân hàng trung  ương và các tổ  chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do   ngân sách nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp   vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính   phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính   phủ bảo lãnh thanh toán. Quan niệm về nợ công của Ngân hàng Thế giới cũng tương tự như 
  2. quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Diễn đàn Thương mại và Phát   triển Liên hợp quốc, bao gồm bốn nhóm chủ  thể: (1) nợ  của Chính phủ  Trung  ương và các  Bộ, ban, ngành trung ương; (2) nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3) nợ của Ngân hàng  Trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc   quyết lập ngân sách phải được sự  phê duyệt của Chính phủ  hoặc Chính phủ  là người chịu   trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự  khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ  Chính phủ, nợ  được Chính phủ  bảo lãnh và nợ  chính quyền địa phương. Nợ  Chính phủ là  khoản nợ  phát sinh từ  các khoản vay trong nước, ngoài nước, được ký kết, phát hành nhân   danh Nhà nước, nhân dân Chính phủ  hoặc các khoản vay khác do Bộ  Tài chính ký kết, phát   hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản   nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng   thời kỳ. Nợ  được Chính phủ  bảo lãnh là khoản nợ  của doanh nghiệp, tổ  chức tài chính, tín  dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ  bảo lãnh. Nợ  chính quyền địa phương là  khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp   tỉnh) ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành. Như vậy khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp  hơn so với thông lệ  quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế  giới, Luật Quản lý nợ  công đều   xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ  được Chính phủ bảo lãnh. Một số  nước và  vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả  nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari,  Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Inđônêxia…). Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công (nợ Chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng giá   trị  các khoản tiền mà Chính phủ  thuộc mọi cấp từ trung  ương đến địa phương đi vay nhằm   bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách”. Vì thế, nợ Chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt  ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ Chính phủ,   người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc   nội (GDP). 2/ Đặc trưng cơ bản của nợ công Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về  nợ  công, nhưng về  cơ  bản, nợ  công có  những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ  nhất, nợ  công là khoản nợ  ràng buộc trách nhiệm trả  nợ  của Nhà nước. Khác với các  khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các  cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả  nợ của   Nhà nước được thể  hiện dưới hai góc độ trả  nợ  trực tiếp và trả  nợ  gián tiếp. Trả  nợ  trực   tiếp được hiểu là cơ  quan nhà nước có thẩm quyền sẽ  là người vay và do đó, cơ  quan nhà  nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước  có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để  một chủ  thể  trong nước vay nợ, trong trường hợp bên 
  3. vay không trả  được nợ  thì trách nhiệm trả  nợ sẽ  thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ:  Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài). Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước   có thẩm quyền. Việc quản lý nợ  công đòi hỏi quy trình chặt chẽ  nhằm đảm bảo hai mục  đích: Một là,đảm bảo khả  năng trả  nợ  của đơn vị  sử  dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm  bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia;  Hai là, đề  đạt được những mục  tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có   ý nghĩa quan trọng về  mặt chính trị  xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ  công Việt Nam là Nhà  nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến   việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên. Thứ ba, mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã   hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những   lợi ích riêng của bất kỳ  cá nhân, tổ  chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng đồng.  Ở  Việt   Nam, xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế  để  phục vụ lợi ích chung của xã hội,   Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ  công được quyết định   phải dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể  là đề  phát triển kinh tế  – xã hội của đất nước và   phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất. 3/ Bản chất của nợ công Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là xấu. Nợ đem lại  rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế  của các nước đi vay. Thực tế, các nước muốn  phát triển nahnh đều phải đi vay. Những nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc,   Nhật Bản… lại cũng chính là những con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng   cũng có không ít tác động tiêu cực. Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm: Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát  triển cơ sở hạ tầng và tăng khả  năng đầu tư đồng bộ  của Nhà nước. Muốn phát triển cơ  sở  hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ  công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để  đầu tư  cơ sở hạ  tầng, từ đó  gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế; Thứ  hai, nợ  công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ  phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những   khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử  dụng, đem lại hiệu quả  kinh tế  cho cả  khu vực   công lẫn khu vực tư; Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài  trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các nước phát  triển muốn gây  ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như  muốn hợp tác kinh tế  song  phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để  đầu   tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích đối tác, đồng thời giữ  vững độc lập,  chủ quyền đất nước.
  4. Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực: Nợ công gia  tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ  luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản  lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát   các nguồn lực, giảm hiệu quả  đầu tư  và điều quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách.  Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu   cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công. Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân ách. Các khoản vay   này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì  vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế  hệ  này hay thế  hệ  khác. Vay nợ  thực chất là cách đánh thuế  dần dần, được hầu hết chính   phủ  các nước sử  dụng để  tài trợ  cho các hoạt động chi ngân sách. Tỷ  lệ  nợ  công/GDP chỉ  phản  ảnh một phần nào đó về  mức độ  an toàn hay rủi ro của nợ  công. Mức độ  an toàn hay   nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc   vào tình trạng phát triển của nền kinh tế. Khi xét đến nợ công, chúng ta không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả  mà   phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ. Vấn đề quan trọng phải tính là khả năng trả nợ  và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỉ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số đánh giá  phổ  biến nhất cho cách nhìn tổng quát về  tình hình nợ  công của một quốc gia. Mức an toàn  của nợ công được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay  giai đoạn nào đó không.Tiêu chí để đánh giá mức an toàn của nợ công được thể hiện cụ thể   là: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim   ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Thế  giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ  công là 50%  GDP. Các tổ chức quốc tế cho rằng, tỷ lệ nợ hợp lý đối với các nước đang phát triển nên ở  mức dưới 50% GDP. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của   Chính phủ  không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an  toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là trong ngưỡng an toàn  và ngược lại. Mức độ  an toàn của nợ  công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền  kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Mỹ có tỷ lệ nợ công bằng 96% GDP nhưng   vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động của Mỹ cao nhất thế giới là cơ sở  bảo đảm bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ lên tới hơn 200% GDP vẫn được coi   là ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ  nợ/GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã  rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ  như: Venezuela năm 1981 với tỷ  lệ  nợ  công chỉ  là 15%  GDP; Thái Lan năm 1996 với tỷ  lệ  nợ  công là 40% GDP; Argentina năm 2001 với tỷ  lệ  nợ  công là 45% GDP; Ucraina năm 2007 với tỷ lệ nợ công là 13% GDP;
  5. Thứ  ba, đánh giá nợ  công trong mối liên hệ với các tiêu chí kinh tế  vĩ mô. Để  đánh giá đúng  mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ/GDP, mà cần phải xem xét   nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất   lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí  ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó,   những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả  nợ…  cũng cần được xem xét khi đánh giá bản chất nợ  công, tính bền vững của nợ  công. Khi nợ  công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và   chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài. Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ  công và bản chất nợ  công của một nền kinh tế,  một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu   chỉ  chú trọng vào con số  tỷ  lệ  nợ  công cao một cách thuần túy sẽ  gây nên hiệu  ứng tâm lý   hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị  giới đầu cơ  lợi   dụng tấn công, dễ  gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế  đến bên bờ  vực phá  sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn mà không phân tích   cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ  đó được hình thành như  thế  nào, bằng cách nào,   thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng dễ đẩy nền kinh tế rơi vào  vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng trưởng. 4/ Phân loại nợ công Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản   lý và sử dụng nợ công. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay : Nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước và nợ   nước ngoài. Nợ  trong nước là nợ  công mà bên cho vay là cá nhân, tổ  chức trong nước. Nợ  nước ngoài là nợ  công mà bên cho vay là Chính phủ  nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ  chức tài  chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc   phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản   lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ  yếu   bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác. Theo phương thức huy động vốn: Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và Nợ  công từ  công cụ  nợ. Nợ  công từ  thỏa thuận trực tiếp  là khoản nợ  công xuất phát từ  những  thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ  chức cho vay.   Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các  hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát  từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ  nợ  này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả  năng chuyển nhượng trên   thị trường tài chính. Theo tính chất  ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công có ba loại: Nợ công từ   vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãivà Nợ thương mại thông thường.
  6. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ. Nợ công được phân loại thànhNợ công phải trả và Nợ công   bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa  vụ  trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ  có trách nhiệm bảo lãnh cho người   vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ. Theo cấp quản lý nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương và Nợ công của   chính quyền địa phương. Nợ  công của trung  ương là các khoản nợ  của Chính phủ, nợ  do  Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương  là bên vay nợ  và có nghĩa vụ  trực tiếp trả  nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước  năm 2002 thì những khoản vay nợ  của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân   sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm  bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương. Việc phân loại nợ  công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử  dụng nợ  công.  Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ  phù hợp, qua đó sẽ  chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội Nguyên nhân nợ công Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ.  Ở mỗi nước và tùy từng thời kỳ  lại có các nguyên nhân   khác nhau. Chẳng hạn, tại Hy Lạp, nguyên nhân gia tăng nợ  là những số  liệu được làm giả  để đối phó với các điều kiện khắt khe của Liên minh châu Âu; Tại Ailen, nguyên nhân là hệ  thống ngân hàng quá yếu kém lại không được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, tình trạng nợ  công  hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số  nguyên nhân cơ bản như: Sự kiểm soát chi tiêu  và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình  trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư  và chi tiêu, cùng với tệ  tham nhũng gia tăng  ở  nhiều   nước, cũng trở  thành nguyên nhân không kém phần quan trọng. Bên cạnh đó, các nguồn thu  (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải   cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như  thuế  quan và phí hải quan của hầu   hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa   thuận thương mại khác mà họ  tham gia. Cùng với đó, vấn đề  quản lý các nguồn thu, nhất là  thuế, gặp không ít khó khăn  ở  nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ  tham nhũng, hối lộ,   kiểm soát không chặt và xử  lý không nghiêm của các cơ  quan chức năng. Có thể  khái quát  những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến nợ công bao gồm những lý do sau: Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công . Tỷ lệ tiết  kiệm của Mỹ giảm liên tục trong thập niên gần đây. Nếu như vào những năm 70 của thế kỷ  trước, người dân Mỹ tiết kiệm khoảng 10% tổng thu nhập, thì tỷ  lệ  này đã giảm liên tục từ  đầu thập kỷ 80 và tụt xuống mức 1 – 2% (năm 2007). Nghĩa là, tiết kiệm cá nhân của người  Mỹ đã giảm gần như bằng không và người Mỹ tiêu dùng gần như toàn bộ phần thu nhập của  mình. Khi mức tiết kiệm trong nước giảm, vay nợ của M ỹ chủ yếu dựa vào vốn nước ngoài. 
  7. Tỷ lệ nợ nước ngoài của Mỹ liên tục tăng từ 1,2 nghìn tỷ  USD (năm 1997) lên 2,85 nghìn tỷ  (năm 2008) và 4,45 nghìn tỷ (năm 2011) – chiếm khoảng 47% tổng nợ công. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 10 – 12% GDP thập niên 90 của   thế kỷ XX, thấp hơn nhiều so với mức 22% GDP trong khối EU. T ỷ l ệ ti ết ki ệm n ội địa của   Bồ Đào Nha cũng chỉ vào khoảng 15 – 16% GDP. Tây Ban Nha và Italia có tỷ lệ tiết kiệm nội   địa ở mức trung bình của toàn khối và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu  tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài; Lợi tức trái phiếu liên   tục giảm nhờ việc gia nhập Liên minh châu Âu (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ  dân chúng đã làm giảm kênh huy động vốn buộc Chính phủ Hy Lạp phải tăng cường vay nợ  nước ngoài để  đảm bảo cho chi tiêu công. Huy động tiết kiệm trong nước và khuyến khích   người dân mua trái phiếu Chính phủ là điều quan trọng nhất để giảm nợ công. Tỷ lệ tiết kiệm giảm trong điều kiện tăng chi ngân sách cũng được xem là nguyên nhân dẫn  đến nợ công của Nhật Bản. Từ lâu, Nhật Bản được biết đến với tỷ lệ  tiết kiệm dân cư  cao   nhất trong những nước công nghiệp phát triển. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, các hộ  gia đình Nhật Bản đã tiết kiệm khoảng 15% thu nhập sau thuế. Mặc dù tỷ  lệ  tiết kiệm nội   địa đã giảm dần vào cuối thập kỷ 80 nhưng vẫn chiếm khoảng 10% trong năm 1990 và tiếp   tục giảm mạnh xuống mức 5% vào cuối thập kỷ  90 và đạt trên 2% (năm 2009). Tiết kiệm   thấp kết hợp với bội chi ngân sách cao dẫn đến thâm hụt ngân sách và tăng nợ công. Thứ hai, chi tiêu kích cầu kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề nợ   công. Chính sách kích cầu kinh tế của Chính phủ  các quốc gia, hiệu quả  trong ngắn hạn thì  có, nhưng xét về dài hạn lại đang tạo ra nguy cơ tiềm ẩn của một cuộc khủng hoảng nợ hết   sức nghiêm trọng. Các gói kích thích kinh tế  với tổng số  vốn hơn 2,2 nghìn tỷ  USD (năm   2009) tương đương 4,7% GDP toàn cầu được các nước triển khai nhanh chóng khiến thâm  hụt ngân sách của các chính phủ tăng vọt. Nguy cơ khủng hoảng nợ công hiện tập trung vào   những nước có tỷ lệ nợ công lớn, đồng thời cơ cấu nợ thiên lệch về  những khoản nợ  ngắn   hạn (thời hạn dưới 12 tháng) và nợ  nước ngoài cũng như  do hạn chế  về  khả  năng quản trị  nợ. Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ  ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ  máy   nhà nước  ở  các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn   hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng,…  đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế  toàn cầu vừa qua đã buộc  nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. Cuộc khủng hoảng tài chính thế  giới đã đẩy các nền kinh tế  Âu – Mỹ vào thời kỳ suy thoái   kinh tế lâu dài, buộc các chính phủ phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Chẳng   hạn, ở Mỹ, cùng với mức tăng chi tiêu y tế và quốc phòng, Chính phủ đã phải thông qua gói  
  8. kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu với quy mô 780 tỷ USD (năm 2010) cũng   đã góp phần làm tăng nợ của Chính phủ. Mức chi tiêu của Chính phủ  Hy Lạp tăng 87% giai đoạn 2001 – 2007, trong khi mức thu của   Chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của   EU. Chi tiêu cho quản lý công trong tổng số  chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn   nhiều so với các nước thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không   được cải thiện nhiều. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, bộ  máy công quyền cồng kềnh và  thiếu hiệu quả của Hy Lạp là nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt của quốc gia. Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của   Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Dự  đoán tỷ  lệ  số  người trên 64 tuổi của Hy Lạp sẽ tăng từ  19% năm 2007 lên 32% năm 2060. Người về  hưu   được hưởng một khoản tiền tương đương với 70 – 80% mức lương chính thức trước khi về  hưu chưa kể những lợi ích từ những cơ chế hỗ trợ khác với đủ 35 năm cống hiến so với mức   40 năm  ở  các quốc gia châu Âu khác.  Ước tính tổng số  tiền chi trả  cho lương hưu khu vực   công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (năm 2005) lên 24% năm (2050). Nợ công của Nhật Bản là kết quả của quá trình chi tiêu một số lượng tiền khổng lồ để  kích   thích kinh tế. Trong suốt thập kỷ  90 và thậm chí cả  trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn   cầu, Nhật Bản đã bơm khối lượng tiền lớn vào nền kinh tế. Nhật Bản là quốc gia có những  gói kích cầu lớn nhất cả về tổng giá trị cũng như tỷ lệ  trên GDP (tổng giá trị  là 774 tỷ  USD,  chiếm 16,4% GDP). Để  cứu nền kinh tế, Nhật Bản rót vốn vào thị  trường, đưa tiền cho   người dân tiêu dùng cùng nhiều biện pháp hỗ  trợ  khác làm cho cung tiền tệ  trên thị  trường  tăng. Do đó, giá đồng yên có xu hướng tăng. Đồng yên mạnh càng khiến cho dòng vốn đầu tư  chảy ra khỏi Nhật Bản, xuất khẩu giảm dẫn đến tốc độ phục hồi kinh tế của Nhật bản đuối   dần. Việc chi tiêu thiếu hiệu quả  nguồn vốn lớn trong suốt hơn 2 thập kỷ  qua cùng với   nguồn thu ngân sách sụt giảm làm cho nợ công của Nhật Bản ngày càng tăng. Già hóa dân số  sẽ khiến tài chính Nhật Bản xuất hiện sự chuyển biến mang tính kết cấu “chi nhiều, thu ít”  và đây là vấn đề đang ngày càng trở nên gay gắt. Thứ  ba, sự  kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ  kém, không chặt chẽ, thậm chí bị  buông lỏng,  cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ  tham nhũng   phát triển cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng. Chi tiêu quá nhiều do tăng chi tiêu từ ngân sách nhà nước, chi lương và cho các hoạt động của   bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, chi cho các chương trình kinh tế,   xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư  phát triển cơ  sở  hạ  tầng không  ngừng tăng… Đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã  buộc nhà nước phải chi rất nhiều để khôi phục kinh tế sau suy thoái, trong khi các khoản thu  
  9. (chủ  yếu từ thu thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế  chịu áp lực  phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau (như thuế  quan và phí hải quan của hầu hết   các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ  cho phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa   thuận thương mại). Chính phủ  Mỹ không đánh thuế  cao và vì vậy, khoản thu ngân sách của  Mỹ từ thuế thấp hơn rất nhiều, chỉ vào khoảng 30% GDP so với mức xấp xỉ 40% GDP  ở các  nước phát triển khác. Trong khi vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là nguồn thu từ  thuế gặp không ít khó khăn ở  nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ  tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử  lý   không nghiêm của các cơ  quan chức năng. Mức thu không đủ  để  bù đắp mức chi tiêu quá   nhiều buộc Chính phủ  phải đi vay tiền thông qua nhiều hình thức (như  phát hành công trái,   trái phiếu, tín dụng…) để bù chi, từ đó dẫn đến thâm hụt ngân sách và tình trạng nợ công. Khi   mức thâm hụt ngân sách kéo dài dẫn tới nợ công ngày càng gia tăng. Mọi nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ  công  ở  châu Âu đều bắt nguồn từ  chính sách tài  chính lỏng lẻo, thiếu nhất quán, không chỉ  gây bất  ổn kinh tế, giảm sút niềm tin và căng   thẳng cao độ trên các thị trường tài chính, mà còn tạo những hệ lụy về xã hội.  Với từng quốc   gia, nguyên nhân đó là do khả  năng quản trị  công yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc mất  kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng.  Với cả khu vực EU, đó là thói quen  “chi nhiều hơn thu” kéo dài và hệ  thống phúc lợi ngày càng phình to. Để  đối phó với cuộc   khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu vay mượn dễ dàng quá mức, không tương   thích với tốc độ  tăng trưởng kinh tế  và vì thế  đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ  công tăng nhanh, vượt khả năng kiểm soát Thứ tư, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính bổ  sung   thâm hụt là nguyên nhân khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền kinh   tế. Nguồn thu ngân sách từ  thuế  sụt  ỉam, chi phí phúc lợi gia tăng, dân số  già hóa dẫn đến   thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách của Nhật Bản  ở  mức báo động với con số  là 30,8  nghìn tỷ  yên (khoảng 340,3 tỷ  USD), tương đương 6,4% GDP (năm 2010). Thâm hụt ngân  sách ở mức cao là nguyên nhân đẩy tỷ lệ nợ công cao so với GDP của Nhật Bản lên mức cao  hơn, điều này hàm ý rằng chi phí trả nợ ngày càng tăng và do đó khiến cho thâm hụt ngân sách  ngày càng lớn. Sự  tăng liên tục của thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế  của Nhật Bản   gặp khó khăn, thị  trường chứng khoán suy yếu, hiệu quả  kinh doanh thấp và cản trở  tăng  trưởng kinh tế, tác động xấu đến nợ công. Sự  chi tiêu thiếu kế  hoạch cũng như  sự  thiếu minh bạch trong số  liệu tài chính và nợ  công  nhằm vội vã thực hiện đủ  tiêu chí gia nhập vào cộng đồng châu Âu của Hy Lạp và Bồ  Đào  Nha đã làm suy yếu hệ thống tài chính – ngân hàng và mất lòng tin của người dân và giới đầu  tư, được coi như nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng nợ công ở các quốc gia này. Thứ năm, Chính phủ liên tục tăng khối lượng phát hành trái phiếu để  lấy tiền trang trải chi   phí an sinh xã hội và để  bù đắp thâm hụt ngân sách. Một nguyên nhân khiến nợ  công Nhật 
  10. Bản tăng là do Chính phủ  liên tục tăng khối lượng phát hành trái phiếu để  bù đắp thâm hụt  ngân sách, trong khi nguồn thu từ thuế giảm mạnh do  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài  chính toàn cầu. Từ  năm 2000, lượng phát hành trái phiếu chính phủ  của Nhật Bản đã vượt  qua Mỹ, trở thành nước phát hành trái phiếu lớn nhất toàn cầu. Dư  nợ của Nhật Bản (trong   đó có trái phiếu chính phủ và hối phiếu tài chính) vượt quá mức 900.000 tỷ yên. Với dân số  127,42 triệu người, dư nợ bình quân đầu người ở Nhật Bản hiện ở mức khoảng 7,1 triệu yên.   Trong kế hoạch tài khóa 2012, Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu phát hành 44.000 tỷ yên trái   phiếu. Lượng trái phiếu phát hành tăng làm cho nợ công tăng nhanh cùng với nạn giảm phát  và nhu cầu tiêu thụ nội địa yếu ớt đang cản trở đà phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Về  nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, ngoài nguyên nhân trực tiếp là do  các quốc gia mắc nợ  công cao (Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha…) đã thiếu trách nhiệm đi vay   quá nhiều do được hưởng lãi suất ưu đãi với tư  cách là thành viên của khối Eurozone và chỉ  tiêu thiếu kiểm soát, còn có nguyên nhân sâu xa, nằm ở chính bản thân khối đồng tiền chung  châu Âu. Khi một đồng tiền đơn lẻ lại có thể làm đại diện chung cho cả 17 quốc gia có trình   độ phát triển khác xa nhau với các thể chế chính trị cho đến kinh tế, thậm chí cả các tập đoàn  buôn bán thương mại cũng ở các mức độ rất chênh lệch. Và khi chỉ số tín dụng cấp quốc gia   khác nhau  ở các nước trong khối Eurozone thì Ngân hàng Trung  ương châu Âu (ECB) không   thể áp dụng cùng một mức cho vay giống nhau đối với cả 17 nước này. Khi được hưởng mức  vay ưu đãi, dễ dàng ngang bằng với Đức, Pháp thì việc Hy Lạp hay Ailen vay quá mức để chi   tiêu là điều hiển nhiên. Vấn đề cốt lõi của khủng hoảng nợ công châu Âu là do sự lầm tưởng   của các nhà lãnh đạo, khi cho rằng việc sử dụng đồng tiền chung euro không cần phải phối  hợp chính sách kinh tế, không cần phải đặt ra vấn đề đồng nhất các khoản ngân sách chi tiêu  công. Khủng hoảng nợ  công phơi bày sự  rạn nứt giữa các thành viên trong khối. Đức chỉ  trích Hy  Lạp và Italia lỏng lẻo trong chính sách chi tiêu dẫn đến nợ nần chồn ghcất, chỉ trông chờ vào  sự cứu trợ của các nền kinh tế mạnh hơn trong khối. Trong khi Hy Lạp và Bồ  Đào Nha cho   rằng, Đức “ích kỷ” khi áp đặt chính sách tiền tệ, mô hình tài chính của mình cho các thành   viên khác có nền kinh tế yếu hơn, không có khả  năng cạnh tranh cao bằng Đức. Nhưng theo   ông Jaques Delors – cựu Chủ  tịch Hội đồng châu Âu (EC) – người đóng vai trò quan trọng   trong tiến trình đưa đồng euro vào lưu hành – cho rằng, Eurozone đã vấp phải sai lầm ngay từ  khi mới “thành lập” vì bước đi trên “đôi chân khập khiễng”, chân mạnh là đồng tiền chung và   chân yếu là vấn đề  quản trị. Nói cách khác, việc thiếu trụ  cột quyền lực trung tâm để  điều   phối các chính sách kinh tế là nguyên nhân khiến các thành viên rơi vào rắc rối về các khoản   nợ  xấu. Lỗi trong quá trình thực hiện của các nhà lãnh đạo là không xử  lý những yếu kém   nền tảng và sự mất cân bằng về kinh tế giữa các nước thành viên, không đặt ra vấn đề đồng  nhất các khoản ngân sách chi tiêu công. Cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước phát triển đã phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của  nhóm các nước phương Tây. Những mâu thuẫn đó được thể hiện ra ở những điểm sau:
  11. Một là, mâu thuẫn giữa phúc lợi quá cao và thể chế chính trị. Thể chế chính trị phương Tây  coi hạt nhân là “tam quyền phân lập”, vấn đề  tranh cử  được đặc biệt coi trọng. Vì nhu cầu  tranh cử, các  ứng cử  viên các đảng phái càng phải cam kết nâng cao phúc lợi. Từ  sau thế  chiến thứ II, phương Tây thường thực hiện chính sách phúc lợi cao, nuôi dưỡng một tập quán  phúc lợi và hình thành nền văn hóa phúc lợi siêu cao. “Tính vô hạn” của văn hóa phúc lợi siêu   cao và “tính cực đoan” của thể chế chính trị dân chủ hình thành mâu thuẫn gay gắt. Hai là, mâu thuẫn giữa những hứa hẹn trnah cử và năng lực tài chính. Để  thực hiện những  hứa hẹn khi tranh cử, Chính phủ  của các nước phương Tây buộc phải nâng cao năng lực tài  chính và để nâng cao năng lực tài chính, buộc phải gia tăng thu thuế. Trong khi phần lớn các   quốc gia châu Âu đều đã không còn nhiều cơ  hội để  tăng thuế. Tại nhiều nước thuộc châu   lục này, doanh thu từ thuế đã lên tới mức 40% so với GDP. Ba là, mâu thuẫn giữa suy thoái kinh tế và tăng thuế. Phương Tây đang có xu thế già hóa dân  số, giá thành lao động ngày càng tăng, tạo ra sự  rỗng hóa ngành nghề. Dự  báo năm 2050,   ngườI ở độ tuổi trên 60 sẽ chiếm 1/3 dân số ở các nước giàu. Trong khi tăng trưởng GDP của   khu vực đồng euro đang ngày càng giảm, chỉ  còn 0,2% (quý II/2011) – mức thấp nhất trong   vòng 9 năm qua và dự báo sẽ còn tiếp tục giảm, trong khi đó mức thu thuế ngày càng tăng. Bốn là, mâu thuẫn giữa việc giữ  “ghế” và vay nợ.  Kinh tế  suy thoái khiến Chính phủ  các  nước phương Tây không tăng nổi thuế, song lại muốn duy trì quyền lợi của các đảng phái, do   đó phải chấp nhận thâm hụt ngân sách. Để giữ được ghế thì Chính phủ buộc phải đi vay nợ,   nợ ngày chồng ngày, năm chồng năm, nợ ngày càng nhiều đã tạo ra cuộc khủng hoảng nợ. Năm là, mâu thuẫn giữa khắc phục khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, rối loạn xã   hội. “Giảm thâm hụt tài chính” qua giảm chi nhu cầu xã hội dẫn tới sự phản kháng của quần  chúng, tiêu dùng cũng giảm mạnh, khiến kinh tế càng thêm suy thoái, thất nghiệp gia tăng, từ  đó tác động ngược trở lại, dẫn đế  thuế  thu giảm, thâm hụt tài chính tiếp tục tăng. Các cuộc   biểu tình, bạo loạn chống đối ở các nước phương Tây đang bùng lên mạnh mẽ. Sáu là, mâu thuẫn giữa mong muốn cứu giúp và cái giá cứu giúp của các nước (Đức, Pháp…) .  Khi nợ tăng quá cao, tự thân các nước không thể giải quyết được buộc phải cầu cứu sự giúp  đỡ  của các nước và các tổ  chức quốc tế. Mặc dù rất muốn cứu đồng euro, song cả  Đức và  Pháp cũng rất cần lá phiếu ủng hộ của người dân. Đây là nguyên nhân khiến cả Đức và PHáp  đều “lực bất tòng tâm”. Bảy là, mâu thuẫn giữa thể chế ngân hàng châu Âu với phương thức giải quyết nợ bằng tiền   tệ hóa. Đức không cứu giúp được, các ngân hàng châu Âu cũng không thể thông qua việc tiền  tệ hóa để giải quyết tình trạng cấp bách. Hành động này có thể  dẫn đến tình trạng hỗn loạn   bởi các nước vay nợ  đua nhau tăng “mức tiền tệ  hóa”. Điều này chỉ  có Anh và Mỹ  (những  quốc gia có đồng tiền tự  chủ) có thể  làm được. Nghĩa là, thúc đẩy chính sách nới lỏng định  lượng (QE – Quantitative Easing – Các Ngân hàng trung  ương sẽ  nới lỏng định lượng bằng   cách in tiền và ghi nợ  vào tài khoản mình. Vì Ngân hàng trung  ương (NHTW) có xu hướng   thiết lập lãi suất thấp để  khuyến khích chi tiêu. Lãi suất càng thấp thì chi phí đi vay càng   thấp, từ  đó kích thích vay mượn và chi tiêu), phát hành trái phiếu để  trả  cho ngân hàng các  
  12. khoản nợ đã đến hạn. Làm như vậy, một mặt có thể đẩy tai họa nợ sang các nền kinh tế mới   nổi, mặt khác, sau một vài năm ngân hàng sẽ lại công bố miễn trừ nợ chính phủ, hoặc kéo dài   chuyển thành nợ dài hạn để đời sau thanh toán. Tám là, mâu thuẫn về  nhu cầu tiền vốn giữa các nước vay nợ  và các ngân hàng . Không chỉ  nhu cầu cần tiền vốn của các nước nợ   ở  phương Tây lên cao mà nhu cầu tiền vốn của hệ  thống ngân hàng ở các nước này cũng đang rất cần thiết. Chín là, mâu thuẫn về quyết định để các nước nợ cao phá sản và việc phá sản sẽ được giải   quyết thế nào? Nếu không giải quyết được mâu thuẫn này sẽ khiến vấn đề  càng thêm trầm  trọng. Cuối cùng dẫn đến càng có nhiều nợ cao bị phá sản. Mười là, mâu thuẫn giữa thể  chế  tiền tệ  và thể  chế  tài chính khu vực đồng euro . Không  muốn có “các nước nợ  cao bị  phá sản” và “giải quyết việc phá sản của các nước nợ”, khu   vực đồng euro liệu có thể tiến thêm một bước để  thành lập “quốc gia châu Âu”? Đồng euro   tượng trưng cho thể chế tiền tệ khu vực đồng euro. “Quốc gia châu Âu” tượng trưng cho thể  chế tài chính khu vực đồng euro. Đức sẽ không chấp nhận “quốc gia châu Âu” bởi Đức không   muốn thanh toán nợ cho các nước có vay nợ cao như Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha… Trong khi  Hy Lạp cũng không chấp nhận thể chế này bởi không muốn phụ thuộc. Trong những mâu thuẫn trên thì mâu thuẫn giữa phúc lợi siêu cao và thể  chế  chính trị  của  phương Tây là mâu thuẫn cơ bản nhất. Nếu phương Tây không giải quyết được vấn đề “dân  chủ hóa cực đoan” trong thể chế chính trị và “chủ nghĩa nghĩa phúc lợi siêu cao” trong văn hóa  thì khó có thể giải quyết được các mâu thuẫn trên. **** Tóm lại, tuy có sự khác nhau trong quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia, song về bản chất,   nợ công chính là khoản tiền mà Chính phủ (cả ở cấp Trung ương và địa phương) đi vay để bù  đắp thâm hụt ngân sách do chi tiêu công tăng lên. Nợ  công không hẳn là vấn đề  đáng lo ngại đối với nền kinh tế  quốc dân. Chính nợ  công là  một nguồn lực để  thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng nếu quản lý nợ  công không tốt, sử  dụng  nguồn lực nợ công không hiệu quả, làm khối lượng nợ công công ngày càng tăng, sẽ  gây áp   lực lên chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, đe dọa sự ổn định nền kinh tế, thậm chí dẫn đế  khủng hoảng. Do vậy mọi quốc gia cần quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả nguồn lực này  và đến giới hạn an toàn của nợ công. Để  đảm bảo an toàn của nợ  công, cần chú ý trong quản lý sử  dụng, cần phân loại rõ các  khoản nợ công và nguyên nhân gia tăng nợ công. Bởi lẽ mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ phát triển   có nhiều lý do khác nhau đẩy tình trạng nợ công gia tăng. Và cũng chính trên các nguyên nhân  cụ thể gia tăng nợ công mà có các giải pháp quản lý và xử lý nợ tương thích, bảo đảm tỷ lệ  nợ công/GDP phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng bền vững Theo Luật Quản lý Nợ  công số  29/2009/QH12, Nợ  công được quy định trong Luật này bao   gồm Nợ chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính quyền địa phương. Trong đó,
  13. − Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết,  phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ  hoặc các khoản vay khác do Bộ  Tài   chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không   bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách  tiền tệ trong từng thời kỳ.  − Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay   trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. − Nợ  chính quyền địa phương là khoản nợ  do  Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố  trực thuộc  trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền  phát hành. Nợ công rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào vì nó nguồn tài chính quan trọng cho sự  phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư  cũng sẽ xem xét đến nợ công khi quyết định   đầu tư vốn. Tại cuộc họp thường kỳ  tháng 10, Chính phủ  đã phân tích nguyên nhân nợ  công tăng  nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và 64% GDP vào cuối  năm 2015 Số liệu công bố tại phiên họp Chính phủ tháng 10 cho thấy, đến cuối năm 2013, nợ công bằng  54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%, nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền   địa phương 0,8%) và nợ  nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến cuối năm 2014  nợ công khoảng 60,3% GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ  của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Các chỉ  tiêu này nằm trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội 1/ Nguyên nhân nợ công của Việt Nam Có nhiều nguyên nhân làm gia tăng nợ công của Việt Nam, song những nguyên nhân cơ  bản   phải kể đến là: Thứ nhất, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính để  bù   đắp vào thâm hụt ngân sách. Đây là nguyên nhân chính khiến tình hình nợ công ngày càng trở  thành gánh nặng cho nền kinh tế. Chi tiêu công mở  rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách   của Việt Nam. Thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ  lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ (qua ODA,   vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ  công/GDP vẫn  ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ  nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn  khi Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng   nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,… Đây là những dự án tiêu tốn chi phí   cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ  nước ngoài. Thứ  hai, đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước mà Việt   Nam vay vốn như Nhật Bản, EU… Trong tổng số tiền vay nợ nước ngoài của Việt Nam năm  2010 thì có đến hơn 39% vay nợ bằng đồng yên Nhật Bản (JPY); 22% là vay nợ  bằng đồng  
  14. đôla Mỹ  (USD); 9% là bằng đồng euro (EUR); còn lại là những đồng tiền khác. Vay nước  ngoài có những tác động nguy hại đến nền kinh tế. Thời gian đầu, một dòng ngoại tệ  lớn  chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn,  việc Chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ  trả nợ gốc và lãi sẽ  đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng  cao, làm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu, tăng chi phí  đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ  lạm phát. Tỷ  giá tăng cao sẽ  làm chi phí thanh  toán nợ trở nên đắt đỏ  hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu   đựng của ngân sách nhà nước. Việc vay nợ nước ngoài lớn nhất bằng đồng JPY và USD sẽ  rất bất lợi vì hiện nay đồng JPY và USD đang có xu thế  tăng giá, do đó tỷ  giá JPY/VND sẽ  tiếp tục tăng lên, điều này sẽ  làm tăng gánh nặng nợ  nước ngoài của Việt Nam bởi:  Một là,  khi đa số các khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn thì rủi ro tín dụng và rủi ro tỷ giá   cao; Hai là, rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu  như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực hiện   cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đôla hóa và tạo áp lực lên tỉ giá. Ba là, khi tính  toán tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền đồng vào từng thời kỳ. Giữa số vốn vay và số  vốn trả  nợ khi đáo hạn vốn vay nước ngoài sẽ  chịu tác động của tỉ  giá rất lớn, nếu như  sử  dụng và quản lý vốn vay không có hiệu quả. Sự mất giá của tiền đồng Việt Nam đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho các doanh nghiệp trong  việc trả nợ, khiến nợ công ngày càng gia tăng. Thứ ba, thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư lại không ngừng mở rộng   kéo theo lạm phát và lãi suất cao khiến cho việc hoàn trả  nợ  công ngày càng trở  nên đắt   đỏ. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam tăng tương   đối cao (6,5% GDP năm 2010), vượt mức qui định quốc tế (5% GDP) do việc thực hiện chính   sách kích cầu kinh tế. Trong khi các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử  nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi   suất cơ bản tiệm cận 0%  ở hầu hết các nước như: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE   (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay của Việt Nam  vẫn đứng ở mức cao. Với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triền miên, Việt Nam đang bị  các   tổ  chức tài chính quốc tế  xếp vào mục rủi ro cao, với mức bảo hiểm rủi ro tín dụng CDS   (Credit Default Spread – Giá hợp đồng bảo hiểm rủi ro càng cao thì nguy cơ  gặp rủi ro, mất  an toàn tài chính càng lớn) là 263, xếp ngay sau Hy Lạp (321) và Ai Len (466). Điều này sẽ là  một cản trở  rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư  gián tiếp, trực tiếp và cho vay  nước ngoài. Do đó cần phải có các biện pháp thắt chặt tài khóa, quản lý chi tiêu tiết kiệm và   hợp lý hơn trong thời gian tới để kiềm chế thâm hụt ngân sách. Thứ tư, đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam giảm là một   trong những nguyên nhân làm tăng nợ công. Chi tiêu cho đầu tư công ở Việt Nam thời gian qua liên tục gia tăng khiến nợ công tăng mạnh,  gây hiệu ứng nghịch cho hiệu suất tăng trưởng. Nợ công Việt Nam được coi là nguy cơ tiềm 
  15. ẩn của khủng hoảng và bất ổn định, tạo gánh nặng cho nền kinh tế, làm giảm hoặc trì hoãn   đầu tư  tư  nhân. Do đầu tư  công kém hiệu quả buộc Chính phủ  phải tăng thu ngân sách (qua  thuế, phí hoặc vay mới) để trả nợ, khiến nền kinh tế rơi vào bất ổn, trì trệ hoặc lạm phát gia   tăng. Đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng nợ công. Đầu tư công ở châu Âu  và Mỹ trở thành tâm điểm gây bất ổn kinh tế toàn cầu và đã dẫn đến khủng hoảng nợ công   2010. Ở Việt Nam, bên cạnh những thành công và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển   kinh tế không thể phủ nhận, đầu tư công còn nhiều hạn chế, nhất là về hiệu quả đầu tư. Tốc   độ tăng đầu tư giai đoạn (2001 – 2011) luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực doanh   nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tỷ lệ đầu tư công cao nhất nhưng hiệu quả đầu tư lại thấp   nhất. Đầu tư công luôn đi cùng với lãng phí và tốn kém, thậm chí với mức độ ngày càng nặng   nề, mức thất thoát lên đến 20 – 30%. Nguyên nhân do quản lý kém, đầu tư không hợp lý, đầu   tư  nhiều vào các ngành tư  nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư  tương xứng cho những ngành   có khả năng lan tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư thiếu tập trung, không dứt   điểm cho các công trình trọng điểm… Đầu tư công và quản lý đầu tư công kém hiệu quả không chỉ khiến hiệu quả đầu tư xã hội bị  hạn chế, mà còn làm gia tăng nhiều hệ  quả  tiêu cực khác, như  tăng sức ép lạm phát trong   nước; mất cân đối vĩ mô, hạn chế  sức cạnh tranh và chất lượng phát triển của nền kinh tế  trong hội nhập. Đặc biệt, đầu tư công kém hiệu quả làm tăng gánh nặng và tác động tiêu cực  đến nợ công, do làm tăng nợ chính phủ, nhất là nợ nước ngoài. 2/ Rủi ro tiềm ẩn Từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những  rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Việt Nam cũng giống  Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quản lý chi   tiêu công… Mặc dù tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng nợ  công đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ  nhất, rủi ro lớn nhất xuất phát từ  việc chi tiêu và đầu tư  công kém hiệu quả. Đầu tư  nhiều nhưng dàn trải nên nhiều công trình và nhà máy trọng điểm bị  kéo dài thời gian xây   dựng, không phát huy được tác dụng trong thời gian ngắn. Chính việc đầu tư  công lãng phí,  mọi người đều có thể đầu tư và tìm cách có được lợi ích trong phần đầu tư đó, dẫn đến tình   trạng đầu tư kém hiệu quả. Hậu quả là nợ nần tăng lên, tiền đầu tư thì nhiều nhưng hàng hóa   sản xuất ra được từ tiền đầu tư đó ít. Thứ  hai, rủi ro nằm chính  ở  các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nợ  công của Việt Nam  thực chất mới chỉ là nợ Chính phủ. Một bộ phận rất lớn nợ công của các DNNN chưa được  đưa vào trong các thống kê về  nợ công. Theo quan niệm quốc tế, nợ công phải bao gồm cả  nợ của DNNN.  Ở một số quốc gia, nợ Chính phủ và nợ công gần như  đồng nhất vì khu vực  DNNN của họ rất nhỏ. Ở Việt Nam, nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ với nợ của Chính phủ,   nên không được phép loại nợ của DNNN ra khỏi nợ công, vì nếu DNNN không trả được nợ,   thì ngân sách nhà nước cũng phải gánh. Rủi ro nằm ở những khoản vay mượn nước ngoài của 
  16. DNNN. Đầu tư của 22 tập đoàn, công ty nhà nước lên tới 350.000 tỷ đồng, tương đương 17%   GDP (năm 2011). Nếu tính đầu tư của gần 100 tập đoàn, công ty nhà nước, thì quy mô đầu tư  là khổng lồ, mà phần lớn vốn đầu tư này là đi vay nợ. Nghĩa là, số liệu nợ công trên thực tế  nhiều hơn. Vì vậy, khó có thể quản lý rủi ro mà nợ công của các DNNN có thể gây ra. Những   khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể  sẽ  phải dùng ngân sách nhà nước (NSNN)   để trả là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam. Riêng năm 2012, nghĩa vụ  trả nợ xấp xỉ 5,4 tỷ USD, tương đương 4,5% GDP năm 2011. Thêm nữa, Chính phủ không chỉ  bảo lãnh cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước mà phải tính tới cả nợ tư nhân, bởi vì dù là  nợ  tư  nhân, nhưng đổ  vỡ  lớn xảy ra thì Chính phủ  cũng phải can thiệp, vì vậy nợ  tư  nhân  cũng phải được tính trong tổng nợ quốc gia. Thứ ba, nợ công tăng quá nhanh trong khi thâm hụt ngân sách luôn ở  mức rất cao.  Thâm hụt  ngân sách ngày càng gia tăng, từ 2,8% GDP (năm 2001) lên 9% GDP (năm 2009), vượt mức 5%  GDP theo thông lệ  quốc tế. Vì vậy, cần phải giảm thâm hụt ngân sách nhưng không phải   bằng việc tăng thu thuế (vì tỷ lệ  thu thuế/GDP của Việt Nam  ở mức cao nhất nhì trong khu   vực (21 – 23% GDP)) mà là giảm chi trên cơ  sở  tăng hiệu quả  chi tiêu. Bởi nếu tăng thuế,   doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng chi phí nhiều hơn, làm giảm khả  năng cạnh tranh của  nền kinh tế. Nếu tăng  thuế thu nhập cá nhân thì mức tiêu dùng sẽ giảm, làm giảm một phần   tổng cầu, lập tức sẽ tác động tiêu cực đến động lực phát triển của nền kinh tế, tăng trưởng   sẽ càng khó khăn hơn. Để  giảm tỷ  lệ  thâm hụt ngân sách và nợ  công thì biện pháp giảm chi tiêu và đầu tư  công là   điều cần phải làm và có tính khả thi cao nhất bởi thâm hụt ngân sách tăng thì nợ công khó có  thể  trả  được. Hai vấn đề  quan trọng Việt Nam cần giải quyết nhanh chóng đó là thâm hụt   ngân sách và thâm hụt thương mại, bởi vì nợ  nước ngoài và thâm hụt ngân sách, thâm hụt   thương mại nếu không giải quyết kịp thời sẽ  buộc Chính phủ  phải tiếp tục đi vay với lãi  suất cao hơn. Việt Nam vẫn chưa có chiến lược thực hiện giảm thâm hụt ngân sách trung và   dài hạn, việc dự toán ngân sách hàng năm vẫn mang tính đối phó cấp thời, không có lộ  trình  thực hiện giảm thâm hụt ngân sách. Thứ tư, chỉ số hiệu quả đầu tư ICOR tăng cao. Có hai chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư: Hệ  số ICOR từ vốn đầu tư và từ tích lũy tài sản. Vốn đầu tư là lượng tiền các thành phẩn sở hữu  bỏ ra nhằm mục đích đầu tư và tích lũy tài sản là lượng tiền đầu tư  đến được với sản xuất.  Chỉ  số  ICOR càng cao thì hiệu quả  đầu tư  của nền kinh tế  càng thấp. Theo Tổng tính toán  của Tổng cục Thống kê, hệ  số  ICOR và tích lũy tài sản của Việt Nam đều rất cao. Hệ  số  ICOR là 3,2 (năm 1991) đã tăng lên 8 (năm 2009). Tính trung bình tỷ lệ vốn đầu tư ICOR tăng   khá cao (7,43) và tích lũy tài sản (4,40) giai đoạn 2005 – 2010 (so với 3 của một số quốc gia   Đông Á thời kỳ  đầu công nghiệp hóa). Thậm chí, tỉ  lệ  vốn đầu tư  ICOR của khu vực nhà  nước còn cao hơn, xấp xỉ 9,7 trong cùng thời kỳ. Điều này cho thấy hiệu quả thấp trong việc   sử  dụng nguồn lực, sự  lãng phí và quản lý chưa chặt chẽ  trong đầu tư  cũng như  khả  năng  cạnh tranh thấp của nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư thấp có thể được giải thích qua hai nguyên  nhân chính: Một là, đầu tư  chưa đúng để  tạo ra hiệu quả  cho nền kinh tế;  Hai là, tình trạng 
  17. tham ô cao dẫn đến số tiền thực sự được sử dụng cho sản xuất thấp dẫn tới hiệu quả đầu tư  thấp. Thứ năm, nợ công có thể khác nhau nhưng vấn đề rủi ro lớn nhất nằm ở dòng tiền chứ không   phải chỉ là tỷ lệ nợ bao nhiêu. Một phần không nhỏ nợ công của Việt Nam hiện nay là bằng  đồng yên, khoảng 39%. Tỷ giá đồng yên dao động lớn, nếu đồng yên cứ tiếp tục lên giá như  hiện nay thì rất bất lợi cho Việt Nam dù lãi suất thấp. Thứ  sáu, tỷ  lệ  nợ  ngắn hạn trên dự  trữ  ngoại tệ  tăng. Mặc dù nợ  ngắn hạn so với tổng nợ  công thấp, chỉ vào khoảng 6 – 7 tỷ USD nhưng tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự  trữ ngoại tệ đang   tăng trong khi nợ nước ngoài của Việt Nam lên tới 50 tỷ  USD (năm 2011), lớn gấp 3 lần so   với dự trữ ngoại tệ, khoảng 14 – 15 tỷ USD (so với mức dự trữ ngoại tệ của Thái Lan là 176   tỷ  USD và nợ  công chỉ  khoảng 44,1% GDP). Dự  trữ  ngoại tệ  của Việt Nam chỉ còn tương  đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn (năm 2010), giảm mạnh so với 290% (năm 2009), trong khi  mức khuyến nghị của Ngân hàng thế giới là trên 200%. Thứ bảy, cơ cấu kỳ hạn của các khoản nợ công trong nước cũng gây rủi ro khá lớn, trong đó   có trái phiếu chính phủ. Các khoản nợ nước ngoài có kỳ hạn dài tới vài chục năm, trong khi   hơn 88,7% nợ  trái phiếu chính phủ  và trái phiếu chính phủ  bảo lãnh có kỳ  hạn chỉ  từ  2 – 5   năm. Do vậy, nghĩa vụ nợ nước ngoài được dàn khá đầu với 1,5 – 2 tỷ USD/năm, trong khi đó   nghĩa vụ nợ trong nước lại dồn trong thời gian gần, với xấp xỉ 4,5 – 5 tỷ USD/năm trong giai  đoạn 2012 – 2016. Như vậy, cùng với triển vọng cán cân ngân sách cơ bản tiếp tục thâm hụt   thì sức ép phát hành trái phiếu để đáo nợ trong nước những năm tới là rất lớn. Thêm nữa, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt trong những thập   kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm cho nguồn thu thuế của Chính  phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng lên sẽ  gây áp lực cho việc tăng chi tiêu  chính phủ trong các khoản lương hưu và chăm sóc sức khỏe… Do vậy, quản lý nợ  công thế  nào cho hiệu quả là vấn đề đáng để quan tâm hàng đầu tại Việt Nam  Mục tiêu nợ công an toàn và bền vững Nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công ngày hôm nay phải được trả  bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt Nam, thâm hụt ngân sách đã trở  thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế,  đe dọa đến tính bền vững của nợ công.
  18. Nợ công được đo bằng tỷ  lệ  phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nhưng, nếu   chỉ  xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ công/GDP để  xác định mức độ  an toàn là chưa đủ  và chưa phản ánh   đúng thực chất vấn đề. Khi xem xét nợ công, quy mô nợ công trên GDP phải được phân tích   kỹ cùng với những tiêu chí như: giới hạn nợ, cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi  suất, thời gian trả nợ… Cụ thể: Thứ nhất, giới hạn nợ công không được vượt quá 50% – 60%  GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu; Thứ  hai, dịch vụ  trả  nợ  công không  vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 10% chi ngân sách; Thứ  ba, để  đánh  giá mức nợ công an toàn và bền vững thì cần phải xem xét toàn diện trong mối liên hệ với các  chỉ  tiêu kinh tế  vĩ mô như: Tỷ  lệ  thâm hụt ngân sách, năng suất lao động tổng hợp, tốc độ  tăng trưởng GDP, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) của nền kinh tế… và tỷ lệ nợ công tính trên  GDP không phải là vấn đề, mà quan trọng là khả năng trả nợ của quốc gia như thế nào. Mặc dù tỷ  lệ  nợ  công/GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng cơ  cấu nợ  công đang  ẩn chứa nhiều rủi ro. Trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ  bùng nổ một cuộc chiến về tiền tệ trên thế giới thì quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là   vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam. 2/ Giải pháp cho vấn đề nợ công của Việt Nam a) Luật Quản lý nợ công Việt Nam Luật Quản lý nợ công Việt Nam (được ban hành năm 2009 và có hiệu lực vào đầu năm 2010)  đưa ra nguyên tắc quản lý nợ  công là: Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ  công từ  việc huy động, phân bổ, sử  dụng vốn vay đến việc trả  nợ  để  đảm bảo hai mục tiêu cơ  bản: Một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay, đảm bảo cán cân thanh  
  19. toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia;  Hai là, đạt được những mục tiêu của quá trình sử  dụng vốn. Quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị  và  xã hội. Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì lợi   ích chung. Nợ công được huy động và sử  dụng không phải để  thỏa mãn những lợi ích riêng   của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của   Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì  dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân,   mà cụ  thể  là để  phát triển kinh tế  – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan  trọng nhất. Quản lý nợ  công là quá trình thiết lập và thực hiện một chiến lược quản lý nhằm đáp  ứng  nhu cầu vốn; tối thiểu hóa chi phí vay trong thời gian trung, dài hạn phù hợp, đồng thời thúc   đẩy sự phát triển của thị trường nợ trong nước. Vì vậy, vấn đề  cấp bách nhất mà các chính   phủ phải đối mặt đó là phải cải cách thể  chế  quản lý chính sách nợ  công cả  về  chuyên môn   kỹ thuật và vận dụng kinh nghiệm quản lý để quản lý nợ nước ngoài một cách thành thạo và   minh bạch. Nợ  công không chỉ  là nợ  chính phủ  mà bao gồm cả  các khoản nợ  của doanh nghiệp quốc   doanh, các giao dịch vay nợ nước ngoài. Khủng hoảng nợ công châu Âu đã đặt ra một số vấn   đề quan trọng về quản lý nợ công và thâm hụt ngân sách ở Việt Nam. Quản lý nợ công Việt   Nam hiện đang đối diện với 7 tồn tại cơ  bản: Một là, thị  trường trái phiếu trong nước phát  triển còn hạn chế. Thực tế cho thấy tỷ lệ huy động vốn thông qua trái phiếu còn thấp, chưa   đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm năng trong xã hội; Hai là, công tác huy động  vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu  vào (nhiều dự án phải cùng lúc thực hiện 2 hệ thống thủ tục: một thủ tục giải quyết vấn đề  nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ, gia tăng chi phí chuẩn bị dự án, chi phí đầu tư  do lạm phát trong thời gian bị kéo dài); Ba là, phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ  trương huy  động và sử dụng vốn cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ;  Bốn là, hiệu quả sử dụng vốn   vay chưa cao, chưa được quản lý, giám sát chặt chẽ; Năm là, các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm  soát nhưng một số  rủi ro thị  trường cần được  tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín  dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ; Sáu là, cơ chế  cảnh báo sớm còn hạn chế; Bảy là, quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng  lực cán bộ cần được cải thiện. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ công đã đóng góp nhất định đến  công cuộc phát triển kinh tế  của đất nước. Nợ  nước ngoài dưới hình thức ODA ngày một   tăng, góp phần lấp vào lỗ  hổng thiếu hụt giữa tiết kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân 
  20. thanh toán quốc tế. Nợ  công tạo ra nguồn vốn đầu tư   ổn định để  Chính phủ  thực hiện các  chương trình đầu tư công, chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, chi phí quản lý  nợ  công của Việt Nam không phải là nhỏ  do những yếu kém thuộc về  cấu trúc và thể  chế  quản lý nợ công. Quản lý nợ công hiệu quả cần phải nhìn nhận và đánh giá theo các tiêu chí  phù hợp với mục tiêu quản lý với thông lệ  quốc tế để qua đó hướng tới hoàn thiện thể chế,   chiến lược, chính sách trong quản lý nợ công nhằm tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu chi phí nợ  công, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Luật Quản lý nợ  công là cơ  sở  pháp lý quan trọng để  tiến tới một chiến lược  quản lý nợ   công hoàn chỉnh. Quản lý nợ công Việt Nam dựa trên 4 công cụ chính: Một là, chiến lược dài hạn về nợ công. Căn cứ để xây dựng chiến lược dài hạn về nợ công là  kế  hoạch phát triển kinh tế  – xã hội 5 năm và 10 năm, các kế  hoạch phát triển ngành, lĩnh   vực, vùng lãnh thổ  cũng như  các nghị  quyết, quyết định về  chủ  trương huy động, sử  dụng   vốn vay và quản lý nợ của Đảng và Chính phủ… Hai là, chương trình quản lý nợ trung hạn, gồm các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về huy  động, sử  dụng vốn vay, trả  nợ  và cơ  chế, chính sách, tổ  chức quản lý nợ  trong giai đoạn 3   năm liền kề để  thực hiện chi tiêu an toàn về  nợ  đã được Quốc hội xác định trong mục tiêu,  định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công. Ba là, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ,  gồm: Kế hoạch vay trong nước  (gồm huy động vốn ngân sách nhà nước và kế  hoạch huy động vốn cho đầu tư  phát triển);   Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA,  vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được  chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả  nợ nước   ngoài; Bốn là, các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giám sát nợ công, nợ nước ngoài  của quốc gia bao gồm: nợ  công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ  nước ngoài của  quốc gia so với GDP, nghĩa vụ  trả  nợ  nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất   khẩu, nợ Chính phủ so với GDP… Việc quản lý nợ  công hiệu quả  sẽ  giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất,  đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn Giải pháp cho vấn đề nợ công Việt Nam Để   ổn định quản lý nợ  công hiệu quả  cần tăng tỷ  lệ  tiết kiệm trong nền kinh tế, sử  dụng   hiệu quả vốn vay cũng như khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực  đầu tư phát triển (đặc biệt là cơ sở hạ tầng). Hiện thực hóa tiêu chí kiểm soát nợ  công hiệu   quả cần các giải pháp đồng bộ sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2