intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cây Bàng

Chia sẻ: Ps Ps | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

414
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cây Bàng, còn có tên là Bàng biển (Sea Almond), Quang lang, tên khoa học Terminalia catappa L., thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae). Đại mộc cao 7 - 10 m, không lông, nhánh mọc ngang thành nhiều tầng. Lá có phiến to, xoan ngược, dài đến 30 cm, cuống ngắn, tập trung ở cuối cành nhánh. Ở miền Bắc, Bàng rụng lá hàng loạt vào mùa đông; ở các tỉnh phía nam cây thường xanh. Gié hoa ở nách lá, hoa nhỏ trăng trắng, thường lép thành hoa đực, cánh hoa thưa, tiểu nhụy 10; ở hoa cái, noãn sào...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cây Bàng

  1. Cây Bàng Cây Bàng, còn có tên là Bàng biển (Sea Almond), Quang lang, tên khoa học Terminalia catappa L., thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae). Đại mộc cao 7 - 10 m, không lông, nhánh mọc ngang thành nhiều tầng. Lá có phiến to, xoan ngược, dài đến 30 cm, cuống ngắn, tập trung ở cuối cành nhánh. Ở miền Bắc, Bàng rụng lá hàng loạt vào mùa đông; ở các tỉnh phía nam cây thường xanh. Gié hoa ở nách lá, hoa nhỏ trăng trắng, thường lép thành hoa đực, cánh hoa thưa, tiểu nhụy 10; ở hoa cái, noãn sào hạ. Trái có nhân cứng, chín có màu vàng, xoan dẹp, dài 6 - 8 cm, nạc chua chua, chứa 1 hột, có dầu, nhân hột ăn
  2. được, rang ăn như Đậu phộng, rất bổ dưỡng (100 g nhân hột Bàng chứa 22,5 g chất đạm; 54,7 g chất béo; 13 g bột đường; 3,4 g chất khoáng, trong đó 795 mg phosphor; 601 mg kali; 30 mg calci; 600 mg magnesium; 3,7 mg sắt; 0,31 mg B1; 0,08 mg B2 và 0,58 mg PP). Bàng được trồng hoặc mọc hoang ở vùng duyên hải khắp nước ta, đồng bằng cũng được trồng nhiều vì tàn cây cho bóng mát. Ra hoa kết trái quanh năm. Cây to và tàn lá sum suê nên được trồng lấy bóng mát ở trường học, công sở… Bộ phận dùng là lá, vỏ cây, nhân của hạt. Các bộ phận đều có chứa nhiều chất chát (tanin). Lá dùng nhuộm vàng khi thêm muối sắt vào. Lá và vỏ thân dùng nhuộm vải để cho màu đen (tẩm bùn) hoặc màu rêu. Vỏ trái và vỏ cây dùng thuộc da. Lá đắp trị bệnh da, tê thấp, trị loét; vỏ trị tiêu chảy, kiết, lợi tiểu, trợ tim ở Ấn; trái ăn sau sinh cho chắc lưng (Jain & al., Ghazenfar). Lá tươi nấu uống thay trà, dùng trong bệnh tê thấp, cảm sốt, giải khát, làm ra mồ hôi. Lá tươi xào nóng, bó vào nơi đau nhức. Búp non phơi khô, tán bột rắc trị ghẻ, sắc đặc ngậm giúp giảm nhức răng. Vỏ thân nấu sắc lấy nước uống làm giảm tiêu lỏng, rửa nơi da bị lở loét. Liều dùng nấu uống: vỏ 15 - 20 g, lá 30 - 50 g.
  3. Giới thiệu 2 mẩu chuyện dùng lá Bàng: * Có một cụ bà khoảng 60 tuổi, sống độc thân trong ngõ phố Khâm Thiên bị bom Mỹ giết trong đợt ném bom rải thảm. Khi kiểm kê tài sản, trong túp lều ọp ẹp, công an thấy một món tiền khá lớn (1.200 đồng lúc đó). Hàng ngày, bà ngồi bán nước trà (chè) xanh ở đầu ngõ, múc từ nồi nước được ủ nóng. Sáng sớm, công nhân viên chức đi làm, ghé uống bát nước chè nóng 2 xu, ăn củ khoai lang hoặc củ sắn (khoai mì) 2 xu thế là đủ. Mùa đông, uống nước “chè nóng” thì ấm bụng, mùa hè uống bát nước “chè nóng” thì đỡ khát. “Năng nhặt chặt bị”, bà cóp nhặt từng xu để có số tiền lớn đảm bảo cho tuổi già.
  4. Thời ấy tôi hay ghé đây nghỉ chân, uống nước. Nhờ đó mới thấy một lần bà múc nước “chè xanh” lại có một lá Bàng non trên gáo. Lân la hỏi chuyện mới biết, nồi nước chủ yếu nấu bằng lá Bàng tươi. Nấu xong vớt ra hết mới cho một nắm lá chè tươi vào. Vậy lá chè có mặt để “làm hiệu” chứ không phải để làm vị. * Lần khác, từ đơn vị, tôi đi bộ đến ga Bỉm Sơn (Thanh Hóa) để đón tàu đi Hà Nội. Trong sân ga có một người bán nước “chè xanh”. Khi tàu đậu lại, 5 - 6 người của gia đình này, mỗi người xách một ấm nước “chè xanh” nóng đi dọc bên tàu để bán. Tôi tò mò đến góc sân ga, thấy một đống lá Bàng, lớp đã khô, lớp còn ướt. Vậy người này cũng bán nước chè lá Bàng có hiệu là “chè xanh”. Ngẫm lại các bậc danh y đã nói rất đúng: “Thuốc hay nhờ dùng đúng chỗ”. Lá Bàng có tác dụng giải nhiệt. Người đi tàu, cần đến nước uống giải khát. Cầm bi đông nước nóng bỏng thì ai cũng yên tâm. Vậy cây Bàng cũng không đến mức phải mang tiếng là cây “vô tích sự”. Một bí quyết mà bà lão tiết lộ là: nấu xong nồi “nước chè”, chỉ cần rót vào đấy một gáo nước lạnh (khoảng 300 ml) rồi ủ nóng thì suốt cả ngày nồi “nước chè” vẫn xanh, không bị chuyển sang màu đỏ bầm. BS. HUỲNH NGỌC TỰNG - DS. PHAN BẢO AN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2